ĐỀ DẪN HỘI THẢO KHOA HỌC
“LIÊN KẾT GIỮA TRƯỜNG ĐẠI HỌC VỚI CƠ QUAN, DOANH NGHIỆP
TRONG THỜI KỲ CHUYỂN ĐỔI SỐ”
TS. Vũ Đức Lễ - Hiệu trưởng Trường Đại học Hải Dương
Chuyển đổi số hiện nay là cuộc chuyển đổi tồn diện từ khơng gian thực lên khơng
gian số, cho phép đưa tồn bộ hoạt động lên khơng gian số. Cuộc dịch chuyển này diễn
ra với tốc độ nhanh chóng theo ba trụ cột: Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, qua đó
khơng gian mạng được mở rộng sẽ tạo dư địa và mở ra không gian phát triển mới cho đất
nước. Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030
theo Quyết định 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ sẽ thay đổi toàn
diện đất nước, với các mục tiêu: Việt Nam sẽ thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ
điện tử, kinh tế số chiếm 30% GDP; năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 8%;
người dân có cơ hội tiếp cận, trải nghiệm các dịch vụ thiết yếu thơng minh, khơng ai bị
bỏ lại phía sau. Trong thời đại số, khi không gian mạng đã trở thành không gian chiến
lược thứ Năm, chuyển đổi số đặt ra yêu cầu cấp bách về việc tự chủ trên khơng gian
mạng, q trình chuyển đổi số của Việt Nam: làm chủ hạ tầng số, làm chủ các nền tảng
số từ đó làm chủ khơng gian mạng quốc gia. Để đạt được điều này, khơng chỉ cần có
quyết tâm, tư duy đột phá của cả hệ thống chính trị, mà cịn phải “Tự lực, tự cường” tìm
cách làm mới, phù hợp với bối cảnh và thực tiễn Việt Nam hiện nay.
Chuyển đổi số (CĐS) trong giáo dục đại học như một hệ sinh thái ứng dụng công nghệ
vào đào tạo, NCKH, hoạt động dịch vụ hiện đại… với nhiều cơ hội và thách thức mới.
Theo đó, ba tác nhân thúc đẩy quá trình CĐS ở một trường đại học là: ngân sách nhà
nước cấp ngày càng giảm, kỳ vọng ngày càng cao của người học, công nghệ ngày càng
phát triển. Ba thành phần cơ bản của quá trình CĐS gồm: con người, học liệu và phương
pháp; chiến lược, quản trị và chính sách; cơng nghệ. Bốn hiệu quả được kỳ vọng khi thực
hiện CĐS là nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện; nâng cao hiệu quả nghiên cứu; phát
triển phương thức/mơ hình đào tạo mới, và gia tăng nguồn lực tài chính. Năm xu hướng
chuyển đổi số trong giáo dục đại học: mở rộng quy mô người học, tăng chỉ tiêu tuyển
sinh (kết hợp giữa đào tạo trực tuyến và trực tiếp); giảm chi phí nhưng tăng chất lượng
đào tạo; thu thập và phân tích dữ liệu của người học để điều chỉnh về chính sách, phương
pháp giảng dạy, đánh giá nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội; sử dụng mạng
lưới kết nối trực tiếp/trực tuyến với doanh nghiệp/nhà tuyển dụng để đào tạo các kỹ năng,
kiến thức cần thiết, giúp người học có việc làm và làm được việc sau khi tốt nghiệp; tăng
cường ứng dụng thực tế ảo nhằm tạo môi trường học có sự tương tác, nâng cao trải
nghiệm học tập cho người học; ứng dụng trí tuệ nhân tạo để cá nhân hóa q trình học,
hỗ trợ nâng cao hiệu quả của công tác giảng dạy, công tác quản trị, công tác nghiên cứu
khoa học và các hoạt động dịch vụ.
Hiện nay, liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp là xu hướng phổ biến tất yếu
1
tại các nước phát triển trên thế giới, có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo phát
huy thế mạnh các bên và cùng hưởng lợi, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, NCKH,
chuyển giao công nghệ, các hoạt động dịch vụ… Giáo dục đào tạo thời kỳ 4.0, CĐS là
giáo dục thông minh, liên kết chủ yếu giữa các yếu tố nhà trường - nhà quản lý - nhà
doanh nghiệp, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho việc đổi mới, sáng tạo và nâng
cao năng suất lao động trong xã hội tri thức. Trường đại học khơng chỉ là nơi đào tạo,
nghiên cứu mà cịn là trung tâm đổi mới sáng tạo, giải quyết các vấn đề thực tiễn, mang
giá trị, định hướng cho sự phát triển của xã hội. Trường đại học cũng là nơi nuôi dưỡng,
thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, sáng tạo của giảng viên, sinh viên; tăng cường hợp tác
giữa giáo dục đại học với sản xuất, kinh doanh, với thị trường lao động; gắn kết cùng
các nỗ lực phát triển kinh tế khu vực và địa phương… Sự phát triển công nghệ thông
tin, công cụ kỹ thuật số, hệ thống mạng kết nối và siêu dữ liệu sẽ là những công cụ và
phương tiện tốt để thay đổi cách thức tổ chức và phương pháp, phương tiện, giảng dạy...
giúp hoạt động dạy và học diễn ra mọi lúc và mọi nơi, hình thành xã hội học tập năng
động, giúp cho quá trình đào tạo sát với sử dụng hơn, giúp người học có thể cá nhân
hóa, hồn tồn quyết định việc học tập theo nhu cầu của bản thân.
Theo Ngân hàng thế giới (WB), khi so sánh với các quốc gia trong khu vực, năng
suất lao động (NSLĐ) của Việt Nam vẫn ở mức tương đối thấp và chênh lệch tuyệt đối
tiếp tục xu hướng gia tăng. NSLĐ của Việt Nam chỉ cao hơn Campuchia; gần tương
đồng với Myanmar và Lào; thấp hơn Ấn Độ, Philippines, Indonesia, Trung Quốc, Thái
Lan và thấp hơn rất nhiều so với Malaysia, Singapore. Điều này đặt ra những thách
thức rất lớn cho Việt Nam trong việc cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, qua đó nâng
cao NSLĐ để có thể bắt kịp với mức NSLĐ của các quốc gia trong khu vực. Doanh
nghiệp cần người lao động có chất lượng cao, trong khi đó, sinh viên ra trường lại thất
nghiệp vì chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Nhu cầu của xã hội, mơi
trường kinh doanh biến đổi sâu sắc, nhanh chóng buộc các trường đại học phải thích
ứng để tồn tại và phát triển. Điều quan trọng là: các trường đại học cần phân tích, đánh
giá trên cơ sở các luận cứ khoa học, từ đó nắm bắt thời cơ của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 và chuyển đổi số, phát huy thế mạnh của các bên liên kết, cùng chia sẻ lợi
ích, trách nhiệm để xây dựng trường đại học tự chủ và trách nhiệm xã hội, một cách
thiết thực, hiệu quả gắn với nền kinh tế thị trường.
Trước xu thế trên, Trường Đại học Hải Dương phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Việt Nam - chi nhánh Hải Dương tổ chức Hội thảo khoa học
với chủ đề “Liên kết trường đại học với cơ quan, doanh nghiệp trong thời kỳ
chuyển đổi số”. Trong quá trình chuẩn bị Hội thảo, Nhà trường đã nhận được sự quan
tâm, ủng hộ của Lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND Tỉnh, các sở, ban, ngành trong tỉnh; đặc biệt
là sự tham gia, vào cuộc tích cực của các nhà quản lý NN, các nhà khoa học, nhà giáo,
nhà quản lý doanh nghiệp trong cả nước. Ban Tổ chức Hội thảo đã nhận được gần 100
bài viết của các nhà khoa học và lựa chọn được 66 bài để đăng kỷ yếu. Các bài viết đều
mang hàm lượng khoa học và thể hiện tính đa dạng trong cách tiếp cận về vấn đề liên
2
kết giữa trường đại học với cơ quan, doanh nghiệp trong thời kỳ chuyển đổi số với
những nội dung cụ thể: Xây dựng, đổi mới cơ chế, chính sách quản lý nhà nước đối với
hợp tác đào tạo, NCKH và CGCN của trường đại học với doanh nghiệp; thực trạng hợp
tác đào tạo, NCKH và CGCN với các cơ quan, doanh nghiệp tại các trường đại học
hiện nay; những thách thức và cơ hội của CMCN 4.0, chuyển đổi số đối với việc đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại các trường đại học hiện nay; dự báo những ngành
nghề mới; những kiến thức, kỹ năng, thái độ của người lao động để thích ứng trong
thời kỳ CMCN 4.0, chuyển đổi số; đổi mới phong cách, phương pháp quản lý, lãnh đạo
trường đại học; việc hợp tác đào tạo, NCKH và CGCN giữa các doanh nghiệp với các
trường đại học trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho các trường đại học Việt Nam; các
mơ hình liên kết hiệu quả giữa nhà trường và cơ quan, doanh nghiệp trong nước và quốc
tế; chuẩn giảng viên theo xu thế hội nhập quốc tế và tác động của cuộc CMCN 4.0, chuyển
đổi số; đổi mới phương pháp, phương tiện trong giảng dạy và học tập; những yêu cầu đối
với người học đáp ứng chuẩn nhân lực toàn cầu; đổi mới chương trình, nội dung, phương
pháp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao…
Thông qua các bài nghiên cứu, các tác giả đã tìm kiếm cách thức, hướng đi, lựa chọn
con đường cho sự tồn tại và phát triển của các trường đại học, thực hiện sứ mạng và
nhiệm vụ trong đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Các bài báo
khoa học cũng đã phân tích những khó khăn và thách thức mà các trường đại học đang
phải đối mặt như: công tác tuyển sinh, nguồn kinh phí đầu tư phát triển cịn hạn hẹp,
trình độ, năng lực đội ngũ giảng viên cịn nhiều bất cập, cơ sở vật chất chưa đáp ứng
được nhu cầu giảng dạy và NCKH, hoạt động chuyển giao công nghệ còn nhiều hạn
chế, mối quan hệ giữa trường đại học và các doanh nghiệp thiếu chặt chẽ, sinh viên ra
trường còn thiếu việc làm và thiếu các kỹ năng cần thiết khi làm việc…
Hội thảo cũng đã nhận được rất nhiều những ý kiến và giải pháp từ các tác giả như:
Xây dựng hành lang pháp lý, cơ chế chính sách tạo mơi trường thuận lợi cho việc liên
kết; nâng cao tính tự chủ, trách nhiệm xã hội cho các trường đại học, cho các khoa
chuyên môn, giảng viên và sinh viên; tăng cường ứng dụng công nghệ trong giảng dạy,
học tập và quản lý; nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý,
chuẩn hóa đội ngũ; xây dựng các chương trình đào tạo cơng dân tồn cầu, đáp ứng nhu
cầu của thị trường lao động quốc tế; đầu tư, nâng cấp các trung tâm Ngoại ngữ, Tin
học, trung tâm Thực hành và Chuyển giao cơng nghệ, đẩy mạnh thương mại hóa sản
phẩm khoa học và cơng nghệ; biên soạn giáo trình, tài liệu tham khảo, chuyên khảo,
bài giảng dùng chung theo định hướng ứng dụng, trang bị các kỹ năng mềm cho sinh
viên; khảo sát và dự báo nhu cầu nhân lực của thị trường lao động nhằm tối ưu hóa
cơng tác đào tạo nguồn nhân lực tại các trường đại học địa phương. Các bài viết của
các nhà khoa học đã phân tích và chỉ ra được thời cơ, vận hội của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 và CĐS, nhưng cũng mang tới nhiều thách thức cho sự nghiệp giáo dục và
đạo tạo của đất nước, đặc biệt đối với các trường đại học địa phương…
Trong Hội thảo khoa học, Ban Tổ chức mong muốn cán bộ, giảng viên, các nhà
3
khoa học, các doanh nghiệp cùng bàn luận sâu sắc hơn nữa, tìm ra những hướng đi mới,
những giải pháp phù hợp, hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng liên kết giữa trường
đại học và doanh nghiệp trong thời kỳ chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay.
Tôi hy vọng qua Hội thảo này, từ nhiều cách tiếp cận và góc nhìn khác nhau, các nhà
quản lý, các nhà khoa học, các trường đại học địa phương có sự trao đổi, thảo luận, khai
thác tối đa những cơ hội và tiềm năng, tìm kiếm những cách thức, làm sáng rõ hơn con
đường phát triển phù hợp của mình, biết ta đang ở đâu, từ đó xây dựng các giải pháp để
thực hiện tốt mối liên kết đào tạo giữa các trường đại học và doanh nghiệp nhằm phát
triển bền vững Nhà trường trong bối cảnh tự chủ và trách nhiệm xã hội hiện nay.
Thay mặt Trường Đại học Hải Dương, tôi chân thành cảm ơn các tác giả đã quan
tâm gửi bài, đến tham dự và báo cáo tại Hội thảo. Những đóng góp tâm huyết của quý
tác giả đã làm nên thành công của Hội thảo lần này. Cảm ơn các cơ quan, tổ chức, các
cơ sở giáo dục đại học đã giúp đỡ, ủng hộ và tạo điều kiện cho các tác giả đến tham dự
Hội thảo quan trọng và giàu ý nghĩa này.
Xin chúc quý vị đại biểu, các nhà khoa học, các thầy cô giáo mạnh khỏe, hạnh phúc
và thành công!
Chúc Hội thảo thành công tốt đẹp!
4
MƠ HÌNH ĐẠI HỌC KHỞI NGHIỆP TẠI VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN SỐ ENTREPRENEURIAL UNIVERSITY MODEL IN VIETNAM IN THE
DIGITAL ERA
TS. Vũ Đức Lễ1, TS. Phan Thanh Tú2
Tóm tắt
Đại học đổi mới, sáng tạo, khởi nghiệp là một xu hướng giáo dục hiện đại trên thế
giới, nhưng còn khá mới mẻ đối với các trường đại học Việt Nam. Trong kỷ nguyên số
hiện nay, các trường đại học Việt Nam đang dịch chuyển dần từ mơ hình truyền thống,
với hai nhiệm vụ cơ bản là đào tạo và nghiên cứu, sang mơ hình đại học khởi nghiệp,
nhằm hướng đến nhiệm vụ thứ ba là tham gia đóng góp trực tiếp “sản phẩm có hàm
lượng trí tuệ cao” vào sự phát triển kinh tế xã hội địa phương. Trong quá trình đó, các
trường đại học phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức; nhiều trường cịn
đang ở ngã ba đường, chưa thể xây dựng trường tự chủ và trách nhiệm xã hội. Đặc
biệt là tự chủ về tổ chức bộ máy, về tài chính, về chương trình đào tạo… để bước ra
khỏi vịng an tồn bảo trợ của Nhà nước. Trong bài viết này, tác giả phân tích lịch sử
hình thành, khái niệm, bản chất, tầm quan trọng, mơ hình, thách thức của đại học khởi
nghiệp, mối quan hệ tương hỗ giữa chức năng giảng dạy, nghiên cứu của trường đại
học và xu hướng thương mại hóa tri thức trong kỷ nguyên số, rút ngắn quy trình từ thí
nghiệm sản xuất thử đến cung ứng sản phẩm trực tiếp, hiệu quả cho xã hội, từ đó đề ra
các nhiệm vụ, giải pháp chuyển đổi sang mơ hình đại học đổi mới, sáng tạo, khởi nghiệp
cho các trường đại học Việt Nam - thành tố quan trọng trong hệ sinh thái khởi nghiệp
và hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia.
Từ khóa: Giáo dục đại học, đại học khởi nghiệp, kỷ nguyên số, chuyển đổi số, công
nghệ, chuyển giao công nghệ, Việt Nam.
Abstract
University of innovation, creativity and entrepreneurship is a modern educational
trend in the world, but it is still quite new to universities in Viet Nam. In the current
digital era, Vietnamese universities are gradually shifting from the traditional model
with two basic missions of training and researching, to the entrepreneurial university
model aiming at the third mission of directly contributing “high intellectual product”
to local socio-economic development. In this process, universities have to face many
difficulties and challenges: many universities are still unable to be an autonomous
university without state supports (especially, autonomy in organisational structure,
finance, training programs) and maintain social responsibility. This article analyses
1
2
Hiệu trưởng Trường Đại học Hải Dương
Trường Đại học Thương mại
5
the history of establishment, the concepts, the nature, the importance, the models and
challenges of entrepreneurial university as well as the interrelationship between
teaching and researching functions of the university. Besides, the knowledge
commercialization trend in the digital era which helps to shorten the process from trial
production to direct product supply for society is also discussed. Based on the research
findings, we propose some recommendations to transform to an innovative and
entrepreneurial university model for Vietnamese universities - an important element in
the entrepreneurial ecosystem and the national innovation system.
Keywords: Higher education, entrepreneurial university, digital era, digital
transformation, technology transfer, Vietnam.
Đặt vấn đề
Trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và hệ sinh thái khởi nghiệp, trường đại
học đóng vai trị rất quan trọng: Đào tạo nguồn nhân lực, trong hoạt động nghiên cứu
khoa học, phát triển công nghệ và hợp tác với khu vực doanh nghiệp để thương mại
hóa, ứng dụng các kết quả khoa học và công nghệ. Các trường đại học mạnh luôn định
hướng sự phát triển của xã hội, nơi sản xuất tri thức và công nghệ, cung cấp ý tưởng
sáng tạo cho các dự án khởi nghiệp, đóng góp cho sự gia tăng tài sản và năng lực trí tuệ
của các DN.
Trường đại học là thành tố quan trọng trong hệ sinh thái khởi nghiệp và hệ thống đổi
mới sáng tạo quốc gia trong cả 3 giai đoạn chính của khởi nghiệp: Hình thành ý tưởng;
Phát triển sản phẩm và Tăng trưởng. Ở giai đoạn đầu tiên, nhà trường, cụ thể là giảng
viên và các đơn vị hỗ trợ đóng vai trị là những người truyền cảm hứng, cung cấp thơng
tin, giới thiệu những thành cơng, điển hình, kinh nghiệm, hỗ trợ phát triển thông qua thúc
đẩy hợp tác liên ngành trong sinh viên. Khi doanh nghiệp có sản phẩm, dịch vụ, nhà
trường cung cấp những kiến thức cơ bản cần thiết về kinh doanh như luật pháp, thuế, kế
toán cho đến hỗ trợ nơi làm việc cho các nhà sáng lập doanh nghiệp. Giai đoạn thứ ba,
khi hệ sinh thái có nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp phát triển tốt, trường đại học đóng
vai trị tiên phong cung cấp những tài năng kinh doanh, nguồn lực chất lượng tốt với tư
duy, kỹ năng và trải nghiệm hữu ích để doanh nghiệp phát triển bền vững.
Trong bối cảnh khủng hoảng dịch bệnh hiện nay, các trường đại học Việt Nam đã và
đang vận dụng chuyển đổi số vào quá trình giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên,
để khai thác hết tiềm năng của các tài nguyên số, không chỉ trong giáo dục đào tạo mà
cịn hình thành ý tưởng, nghiên cứu phát triển sản phẩm và tăng trưởng, gắn với xu thế
giáo dục hiện đại trên thế giới đang phát triển theo mơ hình đại học đổi mới, sáng tạo,
khởi nghiệp.
Nếu như trong mơ hình giáo dục truyền thống, chức năng, nhiệm vụ then chốt của
các trường đại học là hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học; thì mơ hình đại học
khởi nghiệp đang là bước chuyển mình về chất đối với các trường đại học Việt Nam,
6
nhằm thực hiện được mục tiêu kép của giáo dục đại học hiện đại, là thúc đẩy nâng cao
chất lượng đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội, tăng cường nghiên cứu khoa
học mang tính ứng dụng cao, đồng thời phát triển cơng nghệ, thương mại hóa các hoạt
động khoa học cơng nghệ, qua đó tham gia đóng góp trực tiếp vào sự phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước. Mặt khác, mơ hình này, với đặc thù của nó, cho phép ứng dụng,
khai thác và phát triển các thành quả của cuộc cách mạng chuyển đổi số - vốn đã tác
động ngày càng sâu rộng đến các trường đại học, để làm ra các sản phẩm phục vụ thị
trường công nghệ.
Trước nhu cầu thực tế cấp thiết trên, mặt khác, hiện chưa có nhiều cơng trình nghiên
cứu về đại học khởi nghiệp tại Việt Nam, các tác giả lựa chọn thực hiện nghiên cứu về:
“Mô hình đại học khởi nghiệp Việt Nam trong kỷ nguyên số”.
Để triển khai nghiên cứu, phương pháp tổng hợp phân tích các cơng trình nghiên
cứu trong và ngồi nước được tiến hành, kết hợp với phỏng vấn chuyên sâu một số
chuyên gia giáo dục, lãnh đạo các trường đại học tại Việt Nam. Trên cơ sở kết quả thu
được, các tác giả nghiên cứu đề xuất một số giải pháp đối với các trường đại học công
lập Việt Nam trong q trình phát triển theo mơ hình đại học khởi nghiệp, đổi mới,
sáng tạo trong kỷ nguyên số.
1. Cơ sở lý luận về đại học khởi nghiệp trong cách mạng chuyển đổi số
1.1. Lịch sử, khái niệm và bản chất đại học khởi nghiệp
Lịch sử các cuộc cách mạng trong giáo dục đại học luôn gắn liền với những thay đổi
về sứ mệnh đào tạo của trường đại học. Từ thời Trung cổ, ban đầu, nhiệm vụ chính đầu
tiên của các cơ sở giáo dục là lưu giữ và truyền tải kiến thức thông qua hoạt động giảng
dạy (Nelles và Vorley, 2010). Cuộc cách mạng giáo dục đại học vào đầu thế kỷ 19,
khởi xướng tại Đại học Berlin - Đức, bắt đầu kết hợp sứ mệnh giảng dạy và sứ mệnh
thứ hai nghiên cứu khoa học; từ đó lan tỏa ra nền giáo dục đại học trên toàn thế giới.
Vào cuối những năm 1980, cuộc cách mạng giáo dục đại học thứ hai đã diễn ra, theo
đó, các trường đại học đảm nhận thêm sứ mệnh thứ ba là hỗ trợ và/hoặc triển khai
chuyển hóa kiến thức thành các tài sản sở hữu trí tuệ có thể khai thác, thương mại hóa
trong cuộc sống (Compagnucci và Spigarelli, 2020). Đi đầu trong xu thế này là các
trường đại học Mỹ, ngày càng tham gia và hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp và chuyên giao
công nghệ, bằng sáng chế, nhượng quyền, tạo dựng các công viên khoa học, thúc đẩy
hoạt động sáng tạo khởi nghiệp.
Về khái niệm, có nhiều định nghĩa khác nhau về đại học khởi nghiệp, như một
“trường đại học chuyển giao công nghệ”, hay một “tổ chức khởi nghiệp” (Compagnucci
và Spigarelli, 2020). Etzkowitz (2004) định nghĩa đại học khởi nghiệp sáng tạo là một
vườn ươm tạo tự nhiên, cung cấp các điều kiện hỗ trợ cho giảng viên và sinh viên phát
kiến các dự án doanh nghiệp khởi nguồn. Jacob và cộng sự (2003) mô tả trường đại
học khởi nghiệp như là một trường đại học “phát triển hệ thống nội bộ tiên tiến để
thương mại hóa và phổ biến kiến thức”. Aronowitz (2000) đưa ra khái niệm “đại học
7
doanh nghiệp” - một mơ hình trường đại học hoạt động dựa trên lợi nhuận, huy động
vốn và các quan hệ đối tác tư nhân, thường trực thuộc một doanh nghiệp. Mơ hình này
ngụ ý rằng một trường đại học kinh doanh ưu tiên cho việc tiếp xúc mở hoàn tồn với
các nguồn lực trên thị trường thay vì ưu tiên cho việc giảng dạy và nghiên cứu. Tuy
nhiên, khái niệm này, về bản chất, tương đồng với đại học khởi nghiệp. Tất cả đều xác
định và mô tả các khía cạnh khác nhau của hiện tượng chuyển hướng hay tích hợp hoạt
động kinh doanh trong giáo dục đại học. Một cách khái quát, trường đại học khởi nghiệp
là một vườn ươm tự nhiên, hoàn thành sứ mệnh giảng dạy, nghiên cứu và tiến hành các
hoạt động khởi nghiệp sáng tạo ứng dụng và khai thác tri thức trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, góp phần thúc đầy phát triển kinh tế - xã hội địa phương (Hannon, 2013).
Về bản chất, đại học khởi nghiệp gắn chặt với việc thương mại hóa tri thức, đưa tri
thức áp dụng vào thực tiễn, và tạo ra thu nhập để tái đầu tư phát triển các sứ mệnh truyền
thống giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Đại học khởi nghiệp sở hữu cơ chế trực tiếp và
gián tiếp để kết nối kiến thức và kinh doanh; tạo ra tri thức từ hoạt động nghiên cứu, thu
hút các nguồn lực tài chính và chuyển giao công nghệ từ lý thuyết sang thực tiễn áp dụng
tại các ngành nghề kinh tế - xã hội. Các cơ sở chuyển giao công nghệ, chẳng hạn như các
văn phịng chuyển giao cơng nghệ, vườn ươm và cơng viên khoa học trực thuộc các
trường đại học, được thành lập để sáng chế và nhượng quyền các công nghệ mới, hoặc
để tạo ra các doanh nghiệp. Như vậy, trường đại học khởi nghiệp tồn tại nhờ vào sáng
kiến của các cá nhân và nhóm, những người sẵn sàng chấp nhận rủi ro để đạt được lợi
ích tài chính và phi tài chính trên thị trường (Feola và cộng sự, 2020).
1.2. Đại học khởi nghiệp trong kỷ nguyên số
Chuyển đổi số là những chuyển đổi sâu sắc trong hoạt động kinh doanh, tổ chức các
quy trình, năng lực và các mẫu thức khác nhằm khai thác tính ưu việt và các cơ hội mà
công nghệ số mang lại (Perkin và Abraham, 2017). Tại các trường đại học, công nghệ
số và các tài nguyên trực tuyến đã phổ biến trong mọi mặt, góp phần thay đổi và thúc
đẩy cải cách từ quản lý hành chính, tuyển sinh đến các hoạt động và phương pháp học
tập, giảng dạy và nghiên cứu. Cụ thể, chuyển đổi số cho phép các trường đại học khởi
nghiệp tương tác với sinh viên, giảng viên, nhà khoa học và các đối tác của trường đại
học một cách nhanh chóng và kịp thời. Các bài giảng trực tuyến, các băng ghi âm, ghi
hình được sử dụng làm tư liệu giảng dạy cho nhiều lớp học khác nhau, tại nhiều thời
điểm, địa điểm thậm chí nước trên thế giới. Các nền tảng số được áp dụng cho phép
giao tiếp và tham gia tương tác giữa giảng viên với sinh viên, sắp xếp tài liệu học tập,
kiểm tra đánh giá chất lượng sinh viên trực tuyến. Chuyển đổi số còn thúc đẩy mở rộng
các hoạt động giao lưu, tương tác với môi trường kinh doanh, các đối tác doanh nghiệp,
các cơ quan quản lý nhà nước. Các cuộc họp, đàm phán, các chương trình đào tạo, các
buổi chuyển giao cơng nghệ giờ đây có thể thực hiện trên các nền tảng số, các ứng
dụng, chương trình máy tính và các buổi họp trực tuyến (Zhao và cộng sự, 2021).
8
Trong sứ mệnh chuyển giao tri thức, mơ hình đại học khởi nghiệp phát huy được
những lợi thế của mình trong kỷ nguyên số, thể hiện qua các nội dung cơ bản sau
(Hannon, 2013; Nguyễn Xuân Phong và Võ Minh Sáng, 2020; Đinh Văn Toàn, 2021):
Thứ nhất, đại học khởi nghiệp đào tạo hướng nghiệp khởi nghiệp, trang bị cho sinh
viên tri thức và kỹ năng có thể áp dụng trong thực tiễn, giúp sinh viên có cơ hội được
tuyển dụng ngay sau khi tốt nghiệp. Trong bối cảnh kỷ nguyên số hiện nay, các kỹ năng
sử dụng và khai thác các tài nguyên số là thiết yếu đối với mỗi sinh viên. Các bộ phận
chuyển giao công nghệ của trường đại học khởi nghiệp thúc đẩy sự liên kết giữa trường
và doanh nghiệp thông qua việc cập nhật và truyền đạt các kỹ năng đáp ứng nhu cầu
thực tế cơng việc, cũng như văn hóa doanh nghiệp tới các sinh viên và đội ngũ giảng
viên. Đồng thời, giáo dục khởi nghiệp trong kỷ nguyên số có khả năng kết hợp chuyển
giao tri thức, nghiên cứu cơ bản, ứng dụng thực tiễn và có liên hệ mật thiết với đào tạo
cộng đồng và đào tạo chun nghiệp.
Thứ hai, mơ hình đại học khởi nghiệp gắn với các bộ phận chuyển giao cơng nghệ,
kiến thức như các văn phịng, các trung tâm nghiên cứu và chuyển giao, được trang bị
hệ thống công nghệ tiếp cận các sản phẩm đã được số hóa. Các bộ phận này đóng vai
trị hỗ trợ tạo ra các doanh nghiệp mầm ươm trong kỷ nguyên số hiện nay; nhận diện,
quản lý và tiếp thị các sáng chế và văn bằng bảo hộ thông qua hoạt đồng truyền thơng
và bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ phát sinh trong nghiên cứu khoa học. Thêm vào đó,
các bộ phận này cũng thúc đẩy mối liên hệ đa chiều giữa các đơn vị nghiên cứu và các
doanh nghiệp, từ đó có thể mang lại các hợp đồng tư vấn và tiếp thị cho nhà trường,
đồng thời phổ biến văn hóa doanh nghiệp và giáo dục khởi nghiệp tới các sinh viên và
các giảng viên, nhà khoa học trong kỷ nguyên số.
Thứ ba, có sự tham gia của các giảng viên, nhà khoa học và đội ngũ nhân viên vào
khởi nghiệp đại học. Các trường đại học khởi nghiệp khuyến khích các giảng viên, nhà
khoa học và đội ngũ nhân viên của họ tham gia vào các hoạt động khởi nghiệp sáng
tạo. Qua đó, vừa cập nhật kiến thức lý thuyết, vừa áp dụng kiến thức vào và thực tế,
cũng hoàn thiện các kỹ năng đào tạo, ứng dụng và chuyển giao công nghệ vào hoạt
động sản xuất kinh doanh trong kỷ nguyên số hiện nay.
Thứ tư, có sự tham gia của các cổ đơng bên ngồi, như doanh nghiệp, các nhà đầu tư,
các cơ quan nhà nước vào đại học khởi nghiệp. Đại học khởi nghiệp tạo ra mối quan hệ
đa chiều giữa các trường đại học, doanh nghiệp, đơn vị và chính phủ. Từ đó tạo ra chu
trình đào tạo - nghiên cứu sáng tạo - ứng dụng và khai thác kinh doanh đóng góp vào sự
phát triển kinh tế xã hội.
Trong kỷ nguyên số lợi thế cạnh tranh lớn nhất không phải tài nguyên, công nghệ
mà là con người. Ai có nhân tài, sẽ nắm trong tay lợi thế cạnh tranh và phát triển bền
vững. Chính vì vậy các trường đại học cần xây dựng chiến lược tổng thể trong đó trọng
tâm là phát triển đội ngũ nhà giáo tinh hoa, môi trường giáo dục khai phóng để đổi mới
9
mạnh mẽ giáo dục, đào tạo nhằm phát huy phẩm chất, năng lực sáng tạo và kỹ năng,
tầm nhìn và khát vọng cho người học đồng thời phát huy những đề tài NCKH ứng dụng
phục vụ xã hội.
2. Mơ hình đại học khởi nghiệp trong kỷ nguyên số và quy trình chuyển đổi
2.1. Mơ hình đại học khởi nghiệp trong kỷ nguyên số
Trên cơ sở nghiên cứu kế thừa các cơng trình đã cơng bố về bản chất và đặc điểm
của đại học khởi nghiệp, bài viết đề xuất mô hình tổng quát trường đại học khởi nghiệp
trong kỷ nguyên số như hình dưới:
Hình 1: Mơ hình đại học khởi nghiệp trong kỷ ngun số
Mơi trường bên ngồi thúc
đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo
Đại học khởi nghiệp
Phịng thí
nghiệm
Khối các
bộ phận
đào tạo
và hỗ trợ
đào tạo
đại học
truyền
thống
Bộ phận chuyển
giao công nghệ
Ý tưởng kinh doanh,
phát minh, sáng chế
….
Vườn ươm
doanh nghiệp
Trung tâm và
các viện nghiên
cứu
Các doanh nghiệp
trực thuộc
và liên kết
Thương mại hóa
các sản phẩm
NCKH
Các cơng ty con
khai thác tài sản trí
tuệ
Các cơng ty khởi
nghiệp sáng tạo
Thương mại hóa các
sản phẩm NCKH
Nền tảng số và các bộ phận hỗ trợ số
Nguồn: mô phỏng theo Đinh Văn Toàn (2020, trang 13)
Bên cạnh các bộ phận đào tạo và hỗ trợ đào tạo truyền thống là đào tạo nguồn nhân
lực, mơ hình đại học khởi nghiệp nhấn mạnh làm rõ hơn vai trò, nhiệm vụ của (i) các
bộ phận nghiên cứu, phịng thí nghiệm và các viện/trung tâm để tạo ra các ý tưởng kinh
doanh, các công nghệ mới và các phát minh và giải pháp hữu ích; (ii) các bộ phận
truyền thông, chuyển giao công nghệ để thương mại hóa các phát minh, cơng nghệ mới;
(iii) các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trực tiếp.
Cụ thể, để thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu khoa học, các trường đại học
cần thành lập các bộ phận chuyển giao công nghệ và vườn ươm doanh nghiệp, cũng
như các phịng thí nghiệm, các trung tâm, các viện nghiên cứu (Đinh Văn Toàn, 2020).
Các bộ phận này này hoạt độn hiệu quả sẽ thúc đẩy chuyển giao cơng nghệ và thương
mại hóa các kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) ra các ngành công nghiệp liên quan,
10
góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nước nhà. Đồng thời, trường đại học khởi
nghiệp sáng tạo cũng có thể thành lập của các doanh nghiệp trực thuộc và liên kết, các
doanh nghiệp khai thác tài sản trí tuệ độc quyền (spin-off), hay thành lập các doanh
nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (startup) có tư cách pháp nhân độc lập để trực tiếp
thương mại hóa và/hoặc tiếp thị các sản phẩm tài sản trí tuệ đến thị trường.
Nhìn chung, hoạt động khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp trong trường nói
riêng, cũng như chuyển giao và thương mại hóa các sản phẩm NCKH của trường đại
học khởi nghiệp phải luôn gắn liền với đổi mới sáng tạo. Do đó, ngồi việc phát triển
các yếu tố khởi nghiệp, mơ hình trường đại học khởi nghiệp cần tạo dựng được một
mơi trường khuyến khích và thúc đẩy đổi mới sáng tạo và số hóa phù hợp với xu thế
cách mạng công nghiệp 4.0 đáp ứng được các yêu cầu xã hội từ chất lượng đào tạo đến
các sản phẩm NCKH, các hoạt động chuyển giao công nghệ. Cần có bà đỡ là cơ chế
chính sách cơng khai, minh bạch, cởi mở khuyến khích tạo ra một hệ sinh thái khởi
nghiệp quốc gia phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới.
2.2. Quy trình chuyển đổi từ mơ hình đại học truyền thống sang đại học khởi nghiệp
Để chuyển đổi sang mơ hình đại học khởi nghiệp, các học giả đa phần (Etzkowitz,
2004; O’ Reilly và cộng sự, 2019) thống nhất các đại học truyền thống cần trải qua quy
trình ba bước cơ bản như sau:
Giai đoạn đầu tiên: Có thể gọi đây là giai đoạn lên kế hoạch chuyển đổi. Các trường
đại học xác định mục tiêu, tầm nhìn chiến lược và chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho
việc chuyển đổi sang đại học khởi nghiệp, xác định rõ các chỉ tiêu, thứ tự ưu tiên, vị trí
đang có, các nguồn nội và ngoại lực. Chú trọng huy động các nguồn lực tự thân thông
qua qun góp, thu học phí, trợ cấp thu nhập hoặc thông qua đàm phán với các nhà
cung cấp nguồn lực. Ở giai đoạn này, các trường đại học truyền thống phải phát huy
mạnh mẽ các nguồn lực đặc biệt là đội ngũ cán bộ giảng viên, xây dựng lộ trình, kế
hoạch để tự chủ, giảm dần sự bảo trợ của Nhà nước thông qua biên chế sự nghiệp; tập
trung nâng cao chất lượng đào tạo, NCKH để sinh viên tốt nghiệp có việc làm và làm
được việc.
Giai đoạn thứ hai: Đây là giai đoạn “thương mại hóa” các tài sản sở hữu trí tuệ thu
được từ hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của thầy và trò trong trường. Ở giai
đoạn này, các trường không chỉ đầu tư sáng tạo đổi mới ra kiến thức, cơng nghệ; mà
cịn cần tự xây dựng cho mình năng lực chuyển giao cơng nghệ, tìm nguồn cung ứng
từ các doanh nghiệp đối tác quan tâm, có nhu cầu tiếp nhận nhận chuyển giao cơng
nghệ. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, hình thành các đơn vị trung gian thực hiện ký hợp đồng chuyển
giao công nghệ với các trường đại học khởi nghiệp. Các trường đại học cũng có thể đầu
tư và chuyển giao tài sản trí tuệ của mình, hoặc tập trung vào các chương trình nghiên
cứu khoa học được doanh nghiệp đặt hàng.
Các trường đại học có các tài sản sở hữu trí tuệ tiềm năng sẽ thu hút được nguồn
doanh thu thông qua chuyển giao công nghệ và/hoặc tham gia vào hoạt động sản xuất
11
kinh doanh trên thị trường. Các trung tâm nghiên cứu của các trường đại học như đại
học Oxford, Cambridge và Imperial tại Anh hiện đi tiên phong trong công cuộc chuyển
giao công nghệ chỉ sau một thời gian ngắn bắt tay vào việc thương mại hóa các tài sản
sở hữu trí tuệ của trường. Đương nhiên, trong giai đoạn này, các trường đại học có ít
nguồn lực sở hữu trí tuệ hơn sẽ cần nhiều thời gian hơn để tham gia cuộc chơi. Tuy
nhiên, thực tế chứng mình là có những trường đại học chỉ với nguồn lực khá khiêm tốn
nhưng đã đạt được các thành tựu chuyển giao công nghệ đáng nể và vượt bậc hơn hẳn
so với một số trường đại học có nguồn lực tài chính dồi dào nhờ tiếp cận đúng khách
hàng, hoặc các thị trường ngách địa phương.
Giai đoạn thứ ba: Các trường đại học chủ động nâng cao hiệu quả hoạt động, và dần
hoàn thiện mơ hình đại học khởi nghiệp với những lợi thế cạnh tranh riêng không chỉ
trong đào tạo đại học, mà cả trong hoạt động nghiên cứu và thương mại hóa các sản
phẩm NCKH của mình trong những lĩnh vực kinh tế cụ thể. Ở giai đoạn này, các trường
đại học khởi nghiệp thường cộng tác với các ngành kinh doanh (hoặc một vài doanh
nghiệp) và các cơ quan quản lý nhà nước trong các ngành kinh doanh cụ thể. Hợp tác
ở mức độ cao có thể hình thành “Hội đồng công nghệ cao”, tập hợp các nhà nghiên
cứu, doanh nghiệp và chính phủ cùng ngồi lại với nhau theo lời mời của một bên chủ
trì, là bên có nhu cầu thu hút nguồn lực, cùng lập ra và thực hiện một chiến lược thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Trên thực tế, đây là giai đoạn khó khăn
nhất trong quy trình chuyển đổi từ mơ hình đại học truyền thống sang đại học khởi
nghiệp. Sứ mệnh khởi nghiệp ở giai đoạn hai vốn chỉ gói gọn trong việc bảo vệ và tiếp
thị các tài sản sở hữu trí tuệ, giờ đây được quan tâm rộng rãi hơn trong việc hình thành
thương hiệu của các doanh nghiệp và phát triển nền kinh tế địa phương.
Về lý thuyết, các giai đoạn trên diễn ra tuần tự từ giai đoạn đầu tiên, thứ hai rồi mới
đến giai đoạn thứ ba. Tuy nhiên, trong thực tế, quy trình có thể linh động theo bất kỳ
trình tự nào, hoặc thậm chí các giai đoạn có thể đồng thời được triển khai tùy theo đặc
điểm, nguồn lực, thời cơ khác nhau đối với các trường đại học khác nhau. Đại học khởi
nghiệp liên quan mật thiết đến việc phát triển ý tưởng thành hành động thực tiễn, vốn
hóa kiến thức, tổ chức các thực thể mới và quản lý, thương mại hóa các sản phẩn NCKH
trên thị trường. Trong mối quan hệ này, các trường đại học khởi nghiệp là một tổ chức
có năng lực, có khả năng tự tái tạo định kỳ và biết kết hợp nhiều sứ mệnh, bao gồm cả
giảng dạy và nghiên cứu, tạo tiền đề cho hoạt động đào tạo và nghiên cứu tương hỗ với
nhau, trong khi vẫn duy trì sự cạnh tranh cần thiết trong bối cảnh chuyển đổi số của
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
3. Thách thức và giải pháp chuyển đổi đối với các trường đại học Việt Nam
3.1. Thách thức triển khai mơ hình đại học khởi nghiệp đối với các trường đại
học Việt Nam
Trong kỷ nguyên chuyển đổi số, và trong xu thế giáo dục hiện đại thực hiện nhiệm
vụ thứ ba là tham gia đóng góp trực tiếp vào sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương,
12
các trường đại học Việt Nam sẽ phải chuyển mình sang mơ hình đại học khởi nghiệp.
Trong q trình chuyển đổi này, một số thách thức cơ bản mà các trường thường sẽ gặp
phải, gồm:
Thứ nhất là vấn đề nâng cao nhận thức về nhiệm vụ thứ ba của giáo dục đại học hiện
đại. Một trường đại học cần thay đổi toàn diện để bắt kịp với xu hướng khởi nghiệp
trong kỷ nguyên số: Phải am hiểu về khái niệm đại học khởi nghiệp: đại học khởi nghiệp
là gì và tại sao cần áp dụng mơ hình đại học khởi nghiệp vào trường đại học công lập.
Tiền đề để đại học khởi nghiệp thành cơng đó là khơng chỉ ban giám hiệu, mà cả các
giảng viên, nhà nghiên cứu, sinh viên trong nhà trường đều nhận thức rõ được sự cần
thiết tiến hành đại học khởi nghiệp. Về cơ bản, một trường đại học công lập muốn tồn
tại và phát triển cần phải biến đổi về chất, cần nắm vững khái niệm về khởi nghiệp; xây
dựng lộ trình, các chiến lược, các lộ trình cụ thể để kết hợp tinh thần khởi nghiệp trong
nội bộ trường, cơ hội học hỏi kinh doanh; những kết hợp mới của kiến thức đa ngành.
Thứ hai và quan trọng nhất là thực hiện chuyển đổi trường thành một trường đại học
khởi nghiệp và làm sao để tạo ra một hệ sinh thái khởi nghiệp hiện đại, văn minh, gắn
với chuyển đổi số và hiệu quả, có khả năng thu hút được các nguồn lực khởi nghiệp từ
chính đội ngũ nhân viên và sinh viên trong trường đại học. Trong đó, trước tiên là triển
khai xây dựng và đồng bộ hệ thống nền tảng số đối với tồn bộ các quy trình vận hành
hoạt động của trường, từ đào tạo giảng dạy đến nghiên cứu khoa học. Đồng thời, trọng
điểm là hình thành các bộ phận mới, bên cạnh các bộ phận đào tạo và hỗ trợ đào tạo
truyền thống, trong đại học khởi nghiệp. Cụ thể là hình thành và vận hành (i) các bộ
phận nghiên cứu, phịng thí nghiệm và các viện/trung tâm để tạo ra các ý tưởng kinh
doanh, các công nghệ mới và các phát minh và giải pháp hữu ích; (ii) các bộ phận
truyền thông, chuyển giao công nghệ để thương mại hóa các phát minh, cơng nghệ mới;
(iii) các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trực tiếp.
Thách thức thứ ba đối mà các trường đại học phải đối diện là cần rà sốt lại tồn bộ
các nội dung, quy trình đào tạo, cách thức tiếp cận vấn đề, phương pháp giảng dạy, đặc
biệt xây dựng các nội dung đào tạo và nghiên cứu khoa học đáp ứng nhu cầu xã hội,
cũng như các quy trình thực hiện và vận hành các bộ phận chuyển giao công nghệ, các
doanh nghiệp trực thuộc, các doanh nghiệp liên kết và độc lập tiến hành thương mại
hóa các sản phẩm trí tuệ NCKH của trường. Đại học khởi nghiệp cũng đòi hỏi phải
nâng cao tần suất xem xét, điều chỉnh cơ cấu tổ chức, các chính sách, giáo trình giảng
dạy, các hoạt động hợp tác kinh doanh và hợp tác quốc tế của trường đại học công lập.
3.2. Một số nhiệm vụ, giải pháp và kiến nghị
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã, đang và sẽ tiếp tục tạo ra những biến
động mạnh mẽ, ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội của đất nước. Chuyển đổi
số là một q trình thay đổi tổng thể và tồn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống,
cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên nền tảng là công nghệ số. Vấn đề đặt
ra cho nền giáo dục đại học nước ta là phải đổi mới từ một nền giáo dục nặng về trang
13
bị kiến thức cho người học sang nền giáo dục giúp phát triển phẩm chất, năng lực, hoàn
thiện kỹ năng, thúc đẩy tư duy đổi mới sáng tạo khởi nghiệp. Trường đại học phải là
một doanh nghiệp đặc biệt đảm bảo tự chủ và trách nhiệm giải trình xã hội.
Đối với các trường đại học, cần nâng cao nhận thức sâu sắc, toàn diện của đội ngũ
cán bộ giảng viên sinh viên các trường đại học về vai trò, nhiệm vụ và sự cần thiết tham
gia vào các hoạt động đổi mới, sáng tạo, khởi nghiệp. Đề cao trách nhiệm của người
đứng đầu trong việc dẫn dắt, tạo khát vọng, niềm tin và động lực cho mỗi thành viên
của trường, bao gồm cả các thành viên trong Ban giám hiệu, các giáo viên, giảng viên
và sinh viên sẵn sàng bắt tay vào hoạt động khởi nghiệp nhằm chuyển giao sản phẩm
cơng nghệ có hàm lượng tri thức cao ra xã hội và tạo ra các nguồn thu hợp pháp cho
các chủ thể tham gia.
Nhìn chung, các trường cần chuyển dịch một cách linh hoạt từ đại học truyền thống
sang đại học khởi nghiệp. Đại học khởi nghiệp là một hoạt động phức hợp và mang
tính chất đa ngành, liên lĩnh vực không thuần túy là hoạt động giáo dục, đào tạo, NCKH,
nhưng cũng không lấy mục tiêu thương mại đặt lên hàng đầu. Để thực hiện mục tiêu
đại học khởi nghiệp, các trường đại học công lập cần dịch chuyển linh hoạt giữa các sứ
mệnh truyền thống là giảng dạy và nghiên cứu sang sứ mệnh thương mại hóa các tri
thức trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức xã hội. Đây là sứ mạng và điều kiện tiên
quyết cho các trường đại học tự chủ và trách nhiệm xã hội để tồn tại và phát triển trong
giai đoạn hiện nay.
Trong xu thế chuyển mình, các trường rà sốt lại các nguồn lực hiện có, tranh thủ
ngoại lực và đặc biệt là biết mình đang ở đâu? Thơng qua cơ quan kiểm định chất lượng
đánh giá, để khắc phục, hoàn thiện. Trường đại học cần từng bước thành lập các văn
phịng chuyển giao cơng nghệ, các bộ phận chun trách trong trường đại học sẵn sàng
hợp tác, tìm kiếm cơ hội thương mại hóa các tri thức thu được trong quá trình giảng dạy,
nghiên cứu và học tập tại trường đại học; đầu tư thành lập các vườn ươm công nghệ,
vườn ươm khởi nghiệp cho phép các giảng viên, giáo sư và sinh viên tham gia vào quá
trình nghiên cứu khoa học và được hưởng thành quả trực tiếp từ kết quả nghiên cứu khoa
học. Đồng thời, cần tạo một cơ chế khuyến khích đại học khởi nghiệp thơng qua việc
xuất bản những ấn phẩm hướng dẫn về đại học khởi nghiệp; tổ chức trao giải thưởng
sáng tạo khởi nghiệp cho các trường đại học khởi nghiệp có thành tựu xuất sắc. Việc trao
giải thưởng cũng có thể thực hiện trong một trường đại học để khích lệ đội ngũ nhân viên,
giảng viên, giáo viên và sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học vào những vấn đề có
thể ứng dụng trong thực tiễn, các hoạt động nghiên cứu và cơng bố quốc tế, tiến tới quốc
tế hóa các tiêu chuẩn đánh giá khoa học và các hoạt động về chuyên môn. Việc trao giải
này thể hiện tầm quan trọng của môi trường khởi nghiệp, tác động đến tinh thần đổi mới
khởi nghiệp của từng phòng, khoa và sinh viên trong trường đại học. Kết quả là tạo ra
ảnh hưởng đáng kể tới trường đại học, các nhân sự và cổ đơng cũng như hệ sinh thái khởi
nghiệp của chính trường đại học đó.
14
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước, Bổ sung, hồn thiện các cơ chế chính sách từ
“xin - cho” sang “tài phán” định hướng kiến tạo, dẫn dắt, trao quyền tự chủ trách nhiệm
xã hội đầy đủ cho các trường đại học theo khuôn khổ của pháp luật. Tiến tới xóa bỏ cơ
quan chủ quản. Nhà nước cần có chính sách “khốn 10” và hỗ trợ khởi nghiệp và triển
khai mơ hình 4 nhà: nhà nước - nhà trường - nhà khoa học và doanh nghiệp. Qua đó các
trường đại học công và các cán bộ, công chức, giáo viên, giảng viên của trường trực tiếp
tham gia vào việc thành lập và quản lý các doanh nghiệp vườn ươm, doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo. Trên cơ sở các nguồn lực tự chủ, các trường đại học thu hút các nhà
khoa học đầu ngành, đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, đặc biệt là các công nghệ, hệ thống
phịng nghiên cứu, phịng thí nghiệm phục vụ cho khởi nghiệp trong giai đoạn chuyển
đổi số thông qua sự tham gia của các doanh nghiệp trên cơ sở hợp tác cùng có lợi, tận
dụng cơ sở vật chất sẵn có của mình để hợp tác với các doanh nghiệp có nhu cầu nghiên
cứu khoa học, tìm tịi ứng dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương nói riêng và cả nước nói chung.
Kết luận
Đại học khởi nghiệp gắn liền với việc thương mại hóa các tri thức thu được trong
q trình đào tạo, NCKH, chuyển giao cơng nghệ và hoạt động dịch vụ, trong khi đại
học truyền thống vốn chỉ tập trung vào giáo dục, đào tạo và nghiên cứu. Trong kỷ
nguyên số, đại học khởi nghiệp là xu hướng cần thiết và tất yếu cho các trường đại học
công lập muốn bước ra khỏi vùng an toàn và đạt được các thành tựu khởi nghiệp vượt
bậc bên cạnh việc duy trì và củng cố vai trị giảng dạy và nghiên cứu vốn có. Để chuyển
đổi từ mơ hình đại học truyền thống sang đại học khởi nghiệp, một trường đại học công
lập thường phải trải qua ba bước: lên kế hoạch; “thương mại hóa” các tài sản sở hữu trí
tuệ của các trường; và nâng cao hiệu quả của các hoạt động chuyển đổi sang đại học
khởi nghiệp, tạo ra môi trường đại học khởi nghiệp với những lợi thế cạnh tranh riêng.
Trong tiến trình thực hiện khởi nghiệp sáng tạo, các trường đại học Việt Nam sẽ
phải đối mặt với một số thử thách và khó khăn nhất định, trong đó nâng cao nhận thức
và thống nhất tư duy của tất cả các chủ thể tham gia vào tiến trình đại học khởi nghiệp
là một yêu cầu tất yếu. Nếu thực hiện đại học khởi nghiệp thành cơng, các trường đại
học khơng chỉ có thêm nguồn tài chính, gia tăng thu nhập cho đội ngũ cán bộ, giảng
viên, nhân viên, sinh viên tham gia vào việc chuyển giao công nghệ và sản phẩm tri
thức mà còn làm mạnh lên, phát triển năng lực nội sinh cho nhà trường, tạo dựng những
cơ hội phát triển mới. Các sinh viên tốt nghiệp, được trạng những kiến thức và kỹ năng
đáp ứng được nhu cầu xã hội sẽ có cơ hội việc làm phù hợp đúng chuyên ngành, cũng
như tiếp tục phát triển năng lực bản thân trong mơi trường thực tiễn. Những kết quả
mong đợi này chính là sự hoàn thành nhiệm vụ thứ ba của các trường đại học trong xu
thế giáo dục hiện đại ngày nay.
Nghiên cứu này, còn một số hạn chế về minh chứng thực tiễn, góp phần làm rõ xu
thế mơ hình đại học khởi nghiệp trong kỷ nguyên số, đáp ứng nhu cầu xã hội và tham
gia trực tiếp vào phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Nghiên cứu cũng làm rõ bản
15
chất, cấu trúc cơ bản của mơ hình đại học khởi nghiệp, cũng như quy trình chuyển đổi
từ mơ hình đại học truyền thống, cùng với những thách thức đi kèm và một số đề xuất
giải pháp, kiến nghị với các trường và cơ quan quản lý nhà nước trong q trình chuyển
đổi sang mơ hình đại học khởi nghiệp hiện đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Aronowitz S. (2000), The Knowledge Factory: Dismantling the Corporate
University andCreating True Higher Learning. Beacon Press, Boston.
[2]. Compagnucci Lorenzo, Spigarelli Francesca (2020), “The Third Mission of the
university: A systematic literature review on potentials and constraints”, Technological
Forecasting and Social Change, vol. 161, 120284.
[3]. Đinh Văn Toàn (2020), “Entrepreneurial University and Development Model
for Public Universities in Vietnam”, International Journal of Entrepreneuship, Volume
24 issue 1, pp. 1-16.
[4]. Đinh Văn Tồn (2021), “Nghiên cứu mơ hình trường đại học khởi nghiệp và quản
trị đại học tiên tiến: những gợi ý chính sách cho các trường đại học cơng lập ở Việt Nam”,
VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No.1, 62-73.
[5]. Etzkowitz Henry (2004), “The evolution of the entrepreneurial university”,
International Journal of Technology and Globalisation (IJTG), Vol. 1, No. 1, 64-77.
[6]. Feola R., Parente R., Cucino V. (2020), “The Entrepreneurial University: How
to Develop the Entrepreneurial Orientation of Academia”, Journal of the Knowledge
Economy (2020).
[7]. Hannon Paul D. (2013), “Why is the Entrepreneurial University Important?”,
Journal of Innovation Management, Volume 1, Issue 2: 10-17.
[8]. Jacob Merle, Lundqvist Mats, Hellsmark Hans (2003), “Entrepreneurial
transformations in the Swedish University system: the case of Chalmers University of
Technology”, Research Policy, Volume 32, Issue 9, Pages 1555-1568.
[9]. Nelles Jen, Vorley Tim (2010), “Entrepreneurial by Design: Theorizing the
Entrepreneurial Transformation of Contemporary Universities”, Industry and Higher
Education, Vol 24, Issue 3, 157-164.
[10]. Nguyễn Xuân Phong, Võ Minh Sáng (2020), “Phát triển đại học khởi nghiệp
sáng tạo - Giải pháp thúc đẩy hợp tác đại học và doanh nghiệp” , VNU Journal of
Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 3, 44 - 57.
[11]. O’Reilly Noel M., Robbins Peter,&Scanlan John (2019), “Dynamic
capabilities and the entrepreneurial university: a perspective on the knowledge
transfer capabilities of universities”, Journal of Small Business & Entrepreneurship,
Volume 31, Issue 3.
[12]. Perkin N., Abraham P. (2017), Building the Agile Business through Digital
Transformation. London, Kogan Page Stylus.
16
[13]. Zhao Yu, Llorente Ana María Pinto, GómezMaría Cruz Sánchez (2021),
“Digital competence in higher education research: A systematic literature review”,
Computers & Education, Volume 168, 104212
17
“NỎ THẦN” TRÍ TUỆ NHÂN TẠO (AI)
ĐỊNH HÌNH LẠI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM
PGS.TS. Ngô Tứ Thành1, ThS.NCS. Vũ Thị Kim Nhung2
Tóm tắt
Muốn trường đại học thực hiện chuyển đổi số, trước hết phải đầu tư phát triển hạ
tầng viễn thông băng thông rộng. Tiếp đến, yếu tố quan trọng không kém là nhận thức
của các cấp quản lý. Trong bài viết này sẽ phân tích tác động của Trí tuệ nhân tạo (AI)
trong hệ thống giáo dục và từ đó đưa ra những định hình mới của Giáo dục Đại học
trong tương lai khi triển khai AI trong giáo dục.
Từ khóa: Cá nhân hóa, đổi mới phương pháp dạy học, Giáo dục đại học, Trí tuệ
nhân tạo (AI).
Abstract: Broadband telecommunications infrastructure must be invested first to
develop digital transformation in universities.Next, the perception of the management
levels is an equally important factor. In this article, the impact of Artificial Intelligence
(AI) in the education system will be analyzed and thereby new shapes of Higher
Education in the future when implementing AI in education will be proposed.
Keywords: Personalization, innovation of teaching methods, Higher education,
Artificial intelligence (AI).
Người Việt ai cũng từng nghe chuyện “nỏ thần” của An Dương Vương, khi bắn, có
hàng nghìn mũi tên bay ra, hay Tơn Ngộ Khơng có phép “phân thân” tạo ra nhiều Tôn Ngộ
Không…
Hai câu chuyện trên trong tuyền thuyết, nhưng được các nhà khoa học Trường Đại
học Bách khoa Hà Nội sử dụng ý tưởng đó để nghiên cứu sử dụng AI (trí tuệ nhân tạo)
tạo thành nhiều giảng viên ảo.
Khi làm chủ AI, thì bề dầy truyền thống trăm năm cùng đội ngũ đông đảo giáo sư,
tiến sĩ danh tiếng của đại học truyền thống sẽ khơng cịn là ưu thế. Ưu thế và chiến thắng
sẽ thuộc về những ai chấp nhận từ bỏ cái cũ, biết sử dụng AI làm chiếc “nỏ thần” trong
giáo dục, để thay đổi thứ hạng đưa giáo dục đại học Việt Nam nhanh chóng hội nhập với
giáo dục tồn cầu.
Do khn khổ hội thảo có hạn, trong bài viết này tác giả sẽ trình bày ngắn gọn việc
sử dụng AI làm chiếc “nỏ thần” định hình lại tồn bộ giáo dục đại học Việt Nam.
1. Tổng quan nghiên cứu
Trước khi tìm hiểu giá trị ứng dụng của AI trong giáo dục, chúng ta làm quen 2 “từ
khóa” mới: Giảng viên thật và giảng viên ảo.
1
2
Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Email:
Trường Đại học Hải Dương. Email:
18
Giảng viên thật là người (bằng xương bằng thịt). Giảng viên ảo (không phải là
người) là bản sao của giảng viên thật. Giảng viên ảo giao tiếp, tương tác với sinh viên
trên nền tảng số qua phương tiện số.
Những giảng viên thật có trình độ chun mơn và kỹ năng sư phạm tốt, thông qua
AI chatbot sẽ dạy giảng viên ảo những kiến thức để giảng viên ảo truyền đạt kiến thức
đó đến với sinh viên.
Mức độ "thơng minh", "trình độ", "khả năng sư phạm"… của giảng viên ảo phụ
thuộc vào trình độ và cách dạy của giảng viên thật đối với giảng viên ảo. Theo thời
gian, nhờ giảng viên thật, giảng viên ảo ngày một thông minh.
Nghiên cứu này xuất phát từ ý tưởng trong truyền thuyết, Tôn Ngộ Khơng có 72
phép biến hố, trong đó có phép “phân thân” tạo ra nhiều Tôn Ngộ Không.
Tại cùng một thời điểm, trên lớp học truyền thống (face to face) hay lớp học online,
rất nhiều sinh viên cùng lắng nghe bài giảng của một giảng viên thật. Nhưng khi tương
tác với sinh viên, tại một thời điểm, một giảng viên thật chỉ có thể trao đổi tương tác
giải đáp thắc mắc cho một sinh viên, gọi là tương tác theo ánh xạ 1-1.
Trong khi đó giảng viên ảo có thể "phân thân” như Tôn Ngộ Không thành N giảng viên
ảo để tương tác trả lời các câu hỏi của N sinh viên tại cùng một thời điểm theo ánh xạ N-N.
Giảng viên ảo có 2 đặc điểm quan trọng:
- Thứ nhất, khác các thiết bị điện tử phần cứng, các phương tiện dạy học hiện đại…
càng dùng nhiều càng bị hao mịn, chóng hỏng… thì giảng viên ảo càng sử dụng, càng
hồn thiện, theo thời gian sẽ ngày càng thơng minh, càng có giá trị và được khai thác
khơng giới hạn như “nồi cơm Thạch Sanh” trong chuyện cổ tích Việt Nam.
- Thứ hai, độ thông minh của giảng viên ảo phụ thuộc vào sự phát triển của công
nghệ số, công nghệ AI và đẳng cấp giảng viên thật.
Như vậy, giảng viên có thể sử dụng AIChatbot để tạo giảng viên ảo, giống như các
doanh nghiệp mua bán online sử dụng AIChatbot tạo trợ lý ảo thay thế nhân viên chăm
sóc khách hàng. AIchatbot được ứng dụng nhiều trong mọi lĩnh vực, khi được ứng dụng
trong giáo dục sẽ định hình lại toàn bộ hệ thống giáo dục đại học
2. AI Chatbot định hình lại phương pháp dạy học theo hướng cá nhân hóa
người học
Như đã giới thiệu ở mục trên, nhờ AI Chatbot, một giảng viên thật khi dạy online
cũng đồng thời “phân thân” tạo ra N giảng viên ảo thay thế giảng viên thật để tương
tác giao tiếp, giải đáp thắc mắc, trả lời câu hỏi cho N sinh viên.
AI tích hợp trong Chatbot giúp giảng viên ảo dần dần trở thành người khổng lồ
chứa đựng nhiều tri thức của cả nhân loại, có thể thay thế giáo sư trong chương trình
truyền hình “hỏi gì đáp nấy”, làm việc không biết mệt mỏi, không kể ngày đêm nhằm
thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu của sinh viên.
19
Nhờ hỗ trợ của giảng viên ảo, sinh viên có thể dễ dàng tìm ra câu trả lời nhanh hơn
bất cứ giáo sư nào và lúc này tri thức cơ bản không phải là những sự kiện biệt lập cần
phải ghi nhớ.
Khi “nhúng” AI vào các website dạy học, AI Chatbot thu thập thông tin sinh viên
thông qua các phần mềm Skype, YouTube, Zalo, Facebook, Messenger… trang web cá
nhân, dịch vụ nhắn tin tức thời, Skype, YouTube… từ đó phân tích số liệu để biết sở
thích, thói quen và phương pháp học của từng sinh viên. Qua đó, giảng viên ảo có cơ sở
để điều chỉnh nội dung trao đổi hướng dẫn bài dạy và giao bài tập online phù hợp cho
từng sinh viên.
Nhờ những tính năng trên, AI Chatbot sẽ định hình lại tồn bộ giáo dục đại học.
Trước đây, khi bước vào thời đại công nghiệp, trường học cũng tổ chức theo cách thức
của nhà máy sản xuất: tập trung một nơi, dạy theo một chương trình, cùng một phương
pháp và sản phẩm là các sinh viên (chỉ số IQ khác nhau) đều có kiến thức cơ bản chuyên
ngành như nhau.
Nhờ sự trợ giúp của công nghệ AI và giảng viên ảo, phương pháp giảng dạy bậc đại
học sẽ thay đổi hoàn toàn. Lý luận & Phương pháp giảng dạy mới không xây dựng trên
nền tảng lý luận dạy học hàn lâm cũ mà dựa trên tốc độ phát triển công nghệ AI theo
tư duy mới “công nghệ nào phương pháp đó”.
Đại dịch COVID-19 trong 2 năm qua đã làm cho ngành giáo dục thức tỉnh. Do không
được chuẩn bị trước, các thầy cô áp đặt lối dạy truyền thống “phấn trắng bảng đen”
mang lên dạy online, chẳng khác gì đem phương pháp điều khiển xe đạp lên điều khiển
máy bay.
Lý luận & Phương pháp giảng dạy dựa trên AIChatbot đang được khai phá, cịn tiếp
tục hồn thiện và sản phẩm được công bố chi tiết trên các tạp chí trong và ngồi nước.
Trong khn khổ hội thảo, chỉ giới thiệu phương pháp mới đơn giản dễ hiểu.
Ví dụ dạy học Toán cao cấp ở Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Theo phương
pháp dạy học truyền thống, sinh viên học theo lịch mỗi tuần học 2 buổi, theo ánh xạ 1N, tức là 1 giảng viên dạy N sinh viên, với N từ 40 đến 200 sinh viên. Bốn tháng sau
nghe giảng, sinh viên mới đủ kiến thức để thi cuối kỳ.
Theo lịch học trực tiếp cũng như online, một tiết nghe giảng lý thuyết, sinh viên
chưa đủ kiến thức để làm bài tập cuối chương. Khi có giảng viên ảo, sinh viên có thể
tự học tùy theo tiến độ tiếp thu của mình, chủ động nghe các video clip tồn bộ chương
trình đào tạo. Những chỗ chưa hiểu, sinh viên sẽ đặt câu hỏi để giảng viên ảo giải đáp
theo ánh xạ 1-1, một thầy - một trò. Khi nhận câu hỏi từ sinh viên, giảng viên ảo sẽ xử
lý dữ liệu từ hàng nghìn thơng tin trong Big data để đưa ra câu trả lời tối ưu nhất thỏa
mãn nhu cầu tìm hiểu của sinh viên. Do ln có giảng viên ảo hỗ trợ bất cứ lúc nào,
sinh viên có thể chủ động hồn thành mơn Tốn cao cấp trong vịng một tháng, thay vì
phải đợi 4 tháng như dạy học truyền thống.
20
Kết quả nghiên cứu trên đã đưa ra kết luận quan trọng trong giáo dục: “Nếu trí tuệ
nhân tạo (AI) được xem là nền tảng cơ bản tạo nên Cách mạng cơng nghiệp lần thứ 4 thì
AI Chatbot là nền tảng đổi mới giáo dục. Nhờ AI Chatbot, giáo dục đại học 4.0 sẽ hướng
tới mỗi sinh viên một chương trình, giáo dục cho một người (Education of One)”.
3. AI Chatbot định hình lại số lượng giảng viên trong trường đại học
Thông thường, với lớp học đông, dạy học theo phương pháp truyền thống hay
Blearning, một giảng viên dạy lý thuyết kèm theo giảng viên trợ giảng chữa bài tập hoặc
hỗ trợ giải đáp thắc mắc cho sinh viên. Cùng một mơn học, nhiều lớp học khác nhau sẽ có
nhiều giảng viên khác nhau. Khi có giảng viên ảo thay thế và bài giảng được số hóa, thì
khơng cần giảng viên trợ giảng. Các sinh viên ở các lớp học khác nhau được nghe một
giảng viên giỏi nhất giảng online. Một nghìn sinh viên có thể nghe một giảng viên giảng
online sẽ tương ứng có một nghìn giảng viên ảo hỗ trợ sinh viên. Nhờ giao diện nhắn tin
đến các bot chủ động để bắt đầu và duy trì hội thoại nên giảng viên ảo có thể hỗ trợ sinh
viên bất kể thời gian và địa điểm. Do đó cơ sở đào tạo không cần một khoản tiền lớn để trả
lương cho nhiều giảng viên như trước.
Khi mơ hình giảng viên ảo trên nền AIchatbot trở nên ứng dụng phổ biến, nó sẽ tác
động mạnh đến tồn bộ hệ thống giáo dục Việt Nam. Hãy tưởng tượng đưa bài giảng
Toán cao cấp online của một giảng viên dạy hay nhất cả nước cho tất cả các sinh viên
khối kỹ thuật cùng được nghe. Có bao nhiêu sinh viên nghe một giảng viên dạy sẽ có
bấy nhiêu giảng viên ảo tương ứng luôn đồng hành với từng sinh viên để sẵn sàng lắng
nghe trả lời câu hỏi của sinh viên. Khi giảng viên ảo ngày một thơng minh thì sẽ khơng
cần nhiều giảng viên như hiện nay và việc đào tạo giảng viên sẽ đi vào nâng cao chất
lượng mà không cần tăng số lượng.
4. AI Chatbot và công nghệ “ATM giáo dục” để bình đẳng hướng thụ giáo dục
Lấy ví dụ ngành Công nghệ thông tin, số sinh viên đông nhất cả nước, được nhiều
trường đại học đào tạo… Điểm sàn đầu vào từ thấp nhất: 13 điểm đến cao nhất gần
tuyệt đối: 29,04 điểm. Công nghệ thông tin là ngành khó, địi hỏi cả thầy và trị phải có
chỉ số IQ nhất định mới tiếp thu được kiến thức để hành nghề khi tốt nghiệp.
Cùng học ngành công nghệ thơng tin, nhưng sinh viên bình thường chỉ đỗ vào trường
đại học top dưới, học bởi những giảng viên bình thường, còn sinh viên giỏi thường
được học ở trường đại học top trên với những giảng viên giỏi. Sinh viên giỏi được học
với giảng viên giỏi lại càng giỏi, ra trường dễ tìm được việc làm lương cao. Sinh viên
kém vốn đã thiệt thòi về chỉ số IQ phải học với giảng viên bình thường khi ra trường
khó xin được việc làm vì năng lực có thể chưa đáp ứng cơng việc thực tiễn.
Mơ hình giáo dục trên đã tồn tại hơn 50 năm, lúc đầu được xem là lý tưởng, là công
bằng, nhưng bản chất là nghịch lý không phù hợp với xã hội tri thức… Câu hỏi đặt ra:
Làm thế nào để sinh viên bình thường cũng được học với thầy giỏi nhất? Câu hỏi này
đến nay vẫn chưa có lời giải tường minh.
21
Khi chưa dịch bệnh Covid -19, các trường đại học top trên rất khó mở rộng “cánh
cửa” đón sinh viên ở đại học top dưới đến nghe đội ngũ giảng viên giỏi của trường
giảng dạy trực tiếp (Offline).
Covid ập đến, mọi thứ đã thay đổi, xuất hiện công nghệ “ATM gạo” miễn phí cho
người nghèo, thì đồng thời trong giáo dục cũng xuất hiện công nghệ “ATM giáo dục”.
Chỉ khác là để duy trì “ATM gạo”, các mạnh thường quân phải mất tiền mua gạo để phân
phát cho người nghèo, cịn để duy trì “ATM giáo dục”, các đại học top trên sở hữu “của
nhà trồng được” chỉ cần gửi đường link và mật khẩu là các sinh viên ở các trường đại
học top dưới được học online với các giảng viên giỏi nhất. Có bao nhiêu sinh viên học sẽ
có bấy nhiêu giảng viên ảo hỗ trợ. Trong mùa dịch covid, các trường đại học top dưới
hồn tồn có thể không mất kinh phi chi trả cho giảng viên dạy sinh viên trường mình.
Như vậy “ATM giáo dục” và AI Chatbot đã biến điều ước “ai cũng được học hành” trở
thành “ai cũng được học với thầy giỏi nhất”. Một công nghệ rất nhân văn trong xã hội tri
thức. Khi hết dịch covid, các đại học top dưới vẫn có thể liên kết hợp tác để sinh viên
trường mình học ở đại học top trên và kinh phí chi trả cũng rất rẻ so với chi trả lương cho
giảng viên cơ hữu.
5. Cơng nghệ AI Chatbot định hình quy mô xây dựng cơ sở vật chất Đại học
Hãy nghe Bill Gates, một người Mỹ đã thành danh phát biểu: "Các trường của chúng
ta được thiết kế cách đây 50 năm và chúng đã đáp ứng những nhu cầu nhất định của
thời đại ấy. Nhưng nếu như chúng ta không thiết kế lại những trường học đó để đáp
ứng những nhu cầu của thế kỷ XXI, chúng ta sẽ đánh hỏng cuộc đời của hàng triệu
người Mỹ mỗi năm...”
Peter Drucker [3], nhà tư tưởng, nhà quản lý được kính trọng nhất của thế kỷ XX,
năm 2000 đã nhận định: “Ba mươi năm nữa, các khuôn viên đại học sẽ chỉ cịn là di
tích. Chúng ta phải bắt đầu giảng bài cho các lớp học ở bên ngoài các trường đại học,
qua vệ tinh và video hai chiều, với chi phí thấp nhất”.
Những phát biểu trên có phần cực đoan nhưng khơng phải thiếu cơ sở.
Tiên đốn của Peter đã “ám” vào các trường đại học truyền thống Việt Nam. Do
dịch bệnh Covid-19, từ đầu năm đến nay, tất cả các khuôn viên, giảng đường, ký túc
xá của các đại học ở phía Nam đã phải tạm ngừng hoạt động, chưa làm khu “di tích”
nhưng đã làm khu cách ly đối tượng F0, F1 hay các bệnh viện dã chiến điều trị bệnh
nhân dương tính Covid.
AI là nền tảng CMCN 4.0 và chuyển đổi số, đang trở thành một xu thế tất yếu trên
phạm vi toàn thế giới. Chuyển đổi số tất yếu hình thành đại học số, là mục tiêu của các
trường đại học hàng đầu Việt Nam đang tiến đến. Thay vì tư duy tập trung mở rộng
khn viên Đại học, xây dựng nhiều giảng đường nguy nga hiện đại đắt tiền… thì đại
học số tập trung xây dựng hạ tầng viễn thông, hướng đến biến đại học thành một “Quốc
gia số”.
22
Trong đại học số, sinh viên năm thứ nhất được hướng dẫn cách học online một cách
bài bản chuyên nghiệp, được trải nghiệm bằng cách sử dụng nền tảng trực tuyến và các
kết nối doanh nghiệp. Khi vào học chính thức luôn được hỗ trợ bởi mạng lưới mentors
đến từ doanh nghiệp và giảng viên ảo.
Đại học truyền thống dù xây dựng hiện đại đến đâu thì giảng viên chỉ có thể đứng n
trên bục giảng hữu hình để thao giảng trực tiếp cho sinh viên ngồi trong giảng đường
nghe. Nhưng đại học số có thể vươn đến mọi quốc gia trên thế giới. Công nghệ “ATM
giáo dục” kết hợp AI Chatbot, giúp đại học số có thể thu hút các sinh viên nước ngoài
đến học. Giảng viên của đại học số có thể giảng cho hàng triệu sinh viên trên thế giới.
Kết luận và khuyến nghị
Thông thường để thực hiện một dự án lớn phải đầu tư rất nhiều tiền, nhưng để triển
khai AI làm chiếc “nỏ thần” trong giáo dục lại không cần nhiều tiền mà cần tư duy mới.
Câu nói của ơng bà ta xưa nay “tiền nào của nấy” sẽ khơng cịn đúng trong lĩnh vực
này nữa mà chuyển sang “tư duy nào của cải ấy”.
Uber grab - Cơng ty taxi lớn nhất thế giới có trụ sở chính ở nước ngồi, khơng có
xe taxi nào ở Việt Nam, người thuê xe và người lái xe đều là người Việt. Công ty này
không bỏ một xu đầu tư vào Việt Nam mà tận dụng cơ sở hạ tầng Viễn thông của Việt
Nam để thu tiền của người Việt Nam. Nghĩa là họ chủ yếu dùng tư duy để thu tiền
người Việt và nhờ tư duy đó, người Việt được hưởng thụ dịch vụ hữu ích này.
Cơng nghệ AI Chatbot trình bày ở trên mới được nghiên cứu và thử nghiệm trong
phạm vi hai năm ở Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội. Để phổ biến rộng rãi rất cần
đến tư duy đổi mới của các cấp lãnh đạo khi xây dựng và ban hành các chính sách về
giáo dục nói chung, đại học nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ thay đổi vai trị giảng viên thật, Báo Dân trí
(dantri.com.vn)
[2] Ngơ Tứ Thành, Đinh Thị Mỹ Hạnh, Ứng dụng trí tuệ nhân tạo đổi mới phương
pháp dạy học, Tạp chí Thiết bị giáo dục, Số 209 kỳ 2, 1-2020, Vol 4, ISSN 1859-0810.
[3] "Nhờ" Covid sinh viên được học thầy giỏi nhất, giảng viên giỏi thu nhập tốt hơn,
Giáo dục Việt Nam (giaoduc.net.vn).
23
LIÊN KẾT GIỮA TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ DOANH NGHIỆP
TRONG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC ĐÁP ỨNG NHU CẦU CHUYỂN ĐỔI SỐ
PGS.TS. Giang Thị Xuyến1
Tóm tắt
Cuộc cách mạng cơng nghiêp 4.0, nền kinh tế số hóa, chuyển đổi số đã trở thành
những chủ đề bàn luận sôi nổi trong suốt những năm gần đây và càng đặc biệt nóng
hơn trong bối cảnh toàn cầu ảnh hưởng của đại dịch Covid 19. Có thể nói, chuyển đổi
số đang là mối quan tâm của đại đa số các doanh nghiệp (DN), tổ chức trong tất cả
các lĩnh vực kinh tế, xã hội hiện nay. Đã có rất nhiều nghiên cứu, hội thảo, bài viết
thảo luận về cơ hội, thách thức, khó khăn, vướng mắc và các giải pháp nhằm giúp các
DN thực hiện chuyển đổi số thành cơng. Tuy nhiên vẫn có nhiều ý kiến trái chiều và
khơng ít DN đang gặp nhiều khó khăn, lúng túng, đặc biệt thiếu hụt về nguồn nhân lực
có khả năng đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số. Đào tạo nguồn nhân lực chuyển đổi số
đang là vấn đề quan tâm của Chính phủ, các cơ quan quản lý Nhà nước và các cơ sở
đào tạo. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã ký Quyết định số 146/QĐ-TTg ngày 28/1/2022
phê duyệt Đề án “Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực
chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Bài viết sau đây sẽ
phân tích rõ hơn về chuyển đổi số, các yêu cầu của chuyển đổi số nói chung, nguồn
nhân lực nói riêng, qua đó đưa ra ý kiến trao đổi về sự liên kết giữa trường đại học và
DN trong đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số.
Từ khóa: đào tạo nguồn nhân lực.
1.1. Tổng quan về chuyển đổi số
Chuyển đổi số là một quá trình trọng yếu trong cuộc cách mạng 4.0. Chính phủ các
nước và mọi thành phần trong nền kinh tế, trong đó có các DN các nước đều quan tâm.
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về chuyển đổi số, tuy nhiên khó có một định nghĩa rõ
ràng, đầy đủ vì mỗi đơn vị, DN hoạt động ở một lĩnh vực khác nhau. Trên giác độ
chung nhất có thể định nghĩa như sau: Chuyển đổi số là việc tích hợp các cơng nghệ số
vào tất cả các khía cạnh của một đơn vị, tổ chức. Chẳng hạn đối với một DN thì chuyển
đổi số là việc tích hợp cơng nghệ số vào các khía cạnh như: Quản lý nhân sự, quy trình
sản xuất, bán hàng, hàng tồn kho, chi phí, marketing, quản lý dịng tiền… Nói một cách
khác, chuyển đổi số trên cơ sở vận dụng công nghệ làm thay đổi mọi khía cạnh của một
DN như: Cơ cấu tổ chức, phương thức vận hành, mơ hình kinh doanh, quy trình làm
việc, văn hóa DN…
Hiện nay có nhiều DN đã chuyển đổi số thành cơng, số hóa các hoạt động quản lý
bán hàng, quản lý hàng tồn kho, quản lý dịng tiền, quản lý doanh thu, chí phí, thu thập
và phân tích dữ liệu trên nền tảng số nên sản xuất kinh doanh phát triển, tăng doanh
1
Trường Đại học Hải Dương. Email:
24
thu, giảm chi phí, tăng lợi nhuận và thị phần do hiểu rõ nhu cầu khách hàng từng phân
khúc thị trường. Chuyển đổi số đã giúp những DN này phát triển bền vững ngay cả
trong bối cảnh rủi ro toàn cầu, bởi vì mọi quyết định của DN đều dựa trên phân tích cơ
sở dữ liệu từ thực trạng kinh doanh (“nói có sách”) nên DN nhanh chóng đưa ra quyết
định phù hợp như: Phát triển sản phẩm mới, loại bỏ những hoạt động khơng hiệu quả,
tiết kiệm chi phí lưu kho, mở rộng khách hàng… Tuy nhiên cũng không ít DN đã thua
lỗ do những sai lầm trong nhận thức và hành động đối với chuyển đổi số. Đồng thời
cũng khơng ít DN đang đứng ngồi cuộc chơi, nguy cơ thua lỗ, phá sản cao và cũng
khơng ít DN đã phá sản.
Chúng ta đều hiểu kết quả hoạt động của một DN phụ thuộc nhiều yếu tố, tuy nhiên
trong bài viết này chúng ta chỉ bàn tới chuyển đổi số (coi như các yếu tố khác đều tác
động tương đối ổn định với các DN). Có thể nói, chuyển đổi số thành công giúp DN
(trực tiếp là lãnh đaọ) có thể thấu hiểu được hệ thống của mình, hiểu thị trường, thấu
hiểu khách hàng…, từng quyết định của lãnh đạo được dựa trên số liệu thực của DN và
các nguồn thông tin khác đã được thu thập và phân tích… Tuy nhiên cũng khơng ít
người hiểu khơng đầy đủ về chuyển đổi số, nhiều người đồng nghĩa giữa “công nghệ số hóa” và “ chuyển đổi số”. Thực ra trong chuyển đổi số thì việc vận dụng cơng nghệ
để số hóa - các thuật tốn để thu thập thơng tin chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ (một số chuyên
gia cho rằng chỉ chiếm 15%), quan trọng là phân tích dữ liệu trên các phần mềm dữ
liệu đã thu thập được để cung cấp thông tin phù hợp, đầy đủ, kịp thời cho lãnh đạo ra
quyết định đồng thời lãnh đạo DN có thể quan sát tiến độ hoạt động hàng ngày của DN
trên các biểu đồ trực quan… (một số chuyên gia cho rằng chiếm tới 85%).
2. Doanh nghiệp nào cần chuyển đổi số
Chuyển đổi số là một quá trình thiết yếu trong nền kinh tế số, giúp DN cải thiện trải
nghiệm khách hàng, tăng doanh số, tăng thị phần, tiết kiệm chi phí vận hành, tăng lợi
nhuận, giúp DN phát triển bền vững trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh. Do vậy,
chuyển đổi số là cần thiết, quan trọng đối với mọi DN, bất kể qui mô - nếu như DN
không muốn đối thủ vượt mặt, kinh doanh thua lỗ, thậm chí phá sản… Do vậy, chuyển
đổi số là cơ hội của lịch sử để các DN vươn lên trong nền kinh tế số, mọi DN nên tận
dụng cơ hội này.
Tuy nhiên, làm thế nào chuyển đổi số thành cơng đang là vấn đề mà nhiều DN đang
tìm câu trả lời? Đó cũng là mối quan tâm của nhiều đơn vị, tổ chức trong nền kinh tế
quan tâm, trong đó có các trường đại học - nơi đào tạo nguồn nhân lực mới bổ sung
cho DN trong nền kinh tế số.
3. Yêu cầu đối với nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số
Các chuyên gia có kinh nghiệm tư vấn chuyển đổi số DN đã chỉ ra rằng: Để chuyển
đối số thành công, DN cần hiểu rõ: công nghệ không phải là “then chốt” mà nhân tố
con người “mới là quan trọng” (không phải công nghệ dẫn dắt con người mà là con
người vận dụng công nghệ trong vận hành DN mình) - chuyên gia cho rằng “công nghệ
4.0 cần con người 4.0”…
25