Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Đặc trưng cơ bản của triết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.85 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.....................................................................................................1
B. NỘI DUNG..................................................................................................2
CHƯƠNG I: NGUỒN GỐC VÀ LÝ LUẬN VỀ TRIẾT HỌC...............2
1.1. Khái niệm...........................................................................................2
1.2. Đối tượng của Triết học.....................................................................3
1.3. Phương pháp nghiên cứu....................................................................3
CHƯƠNG II: MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG CỦA TRIẾT HỌC....................3
2.1. Tính thống nhất..................................................................................3
2.2. Xây dựng duy vật biệt chứng.............................................................4
2.3. Mối liên hệ giữ triết học và khoa học.................................................4
2.4. Tính thực tiễn.....................................................................................5
CHƯƠNG III: MỘT SỐ CHỨC NĂNG CỦA TRIẾT HỌC..................5
3.1. Chức năng thế giới quan.....................................................................5
3.2. Chức năng phương pháp luận.............................................................6
3.3. Sự liên hệ của thế giới quan và phương pháp luận............................7
C. KẾT LUẬN.................................................................................................8


A. MỞ ĐẦU
Triết học là một trong những khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử
văn minh, trí tuệ của nhân loại. Từ thời cổ đại sơ khai, con người đã bắt đầu
có những ham muốn khám phá thế giới, tìm hiểu nguồn gốc thế giới và biến
đổi thế giới ấy. Triết học ra đời khơng nhằm điều gì khác bởi những lý do ấy,
vì vậy triết học đã trở thành một bộ môn khoa học được đánh giá cao về tính
uyên bác và chiều sâu trí tuệ. Những tư tưởng triết học trong suốt lịch sử hình
thành và phát triển qua bao thế kỷ vẫn còn nguyên giá trị và ln thơi thúc sự
khám phá tìm tịi cũng như đam mê hiểu biết của con người.
Triết học giúp cho con người tìm ra lời giải khơng chỉ cho những thách
đố mn thuở, mà cịn cho những vấn đề hồn tồn mới do q trình tồn cầu
hóa đặt ra. Triết học không chỉ giúp con người nhận thức rõ địa vị của mình,


lối sống xứng đáng với con người, mà còn giúp họ xác định mục tiêu và lý
tưởng sống để từ đó, góp phần biến đổi hiện thực nhằm phục vụ cho chính
mình. Khơng chỉ thế, trong giai đoạn tồn cầu hóa hiện nay, triết học cịn giúp
cho con người có được sự định hướng đúng đắn trong hành động và củng cố
quyết tâm hành động, đánh giá đúng những biến động đang diễn ra, gợi mở
cách đi, hướng giải quyết các vấn đề mà cuộc sống đang đặt ra. Trong công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, với các chức năng cơ bản của triết học cũng
đang thực hiện chính những vai trị to lớn đó. Chính vì vậy em đã chọn đề tài :
“Đặc Trưng Của Triết Học Mác Lên Nin” làm đề tài cho bài tiểu luận của
mình.
Vì thời gian hồn thành có hạn cũng như vốn hiểu biết cịn nơng cạn và
ít ỏi của mình, bài tiểu luận của em khó tránh khỏi những sai sót và khuyết
điểm cịn phải sửa đổi và bổ sung. Vì vậy em rất mong và trân trọng mọi ý
kiến đóng góp của thầy để từ đó em có thể củng cố được vốn hiểu biết của
mình. Em xin chân thành cảm ơn.


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NGUỒN GỐC VÀ LÝ LUẬN VỀ TRIẾT HỌC
1.1. Khái niệm
Triết học ra đời gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến
thế kỷ VI TCN) tại một số trung tâm văn minh cổ đại như Trung Hoa, Ấn Độ,
Hy Lạp.
Theo người Ấn Độ, triết học đọc là darshana, có nghĩa là sự chiêm
ngưỡng, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. Còn ở
Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc ngơn ngữ là chữ "triết". Đó khơng
phải là sự miêu tả, mà là quá trình tranh luận để tìm bản chất của đối tượng.
Ở phương Tây, thuật ngữ "Triết học" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp
"Philơsơphia", nghĩa là "yêu mến sự thông thái". Triết học được xem là hình
thái cao nhất của tri thức, có thể làm sáng tỏ bản chất của mọi vật.

Khái quát lại, triết học là một hình thái ý thức xã hội; là hệ thống tri
thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trị của con
người trong thế giới ấy.
Triết học cịn là bộ mơn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản
của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan,
những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý
thức, và ngôn ngữ. Triết học được phân biệt với những mơn khoa học khác
bằng cách thức mà nó giải quyết những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán,
phương pháp tiếp cận có hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc của nó vào tính
duy lý trong việc lập luận.


1.2. Đối tượng của Triết học.
Theo Ph.ăngghen: "Triết học là khoa học về các quy luật chung nhất sử
sự vận động và phát triển của thế giới; từ tự nhiên, xã hội và cả tư duy", (Ph.
ăng ghen, "chóng Đuy-rinh")
Như vậy có thể coi đối tượng của Triết học là tự nhiên, xã hội và tư duy
của con người: nhưng Triết học không phải là khoa học tự nhiên, khoa học về
xã hội, khoa học về tư duy (logic học) mà là khoa học chung nhất, nó coi thế
giới là "một chỉnh thể thống nhất " các mặt trên.
1.3. Phương pháp nghiên cứu.
- Có một điều đặc biệt của khoa Triết học, đó là, với khoa học này thì sự
khác nhau về phương pháp luật là cơ sở để phân biệt các trường phái Triết
học (siêu hình hay biện chứng), thể hiện tính khoa học hay phản động của một
hệ thống Triết học. Nguyên nhân của hiện tượng này xuất phát từ đối tượng
của Triết học: Coi thế giới như là một chỉnh thể, nghiên cứu bao trùm thế
giới: tự nhiên, xã hội, tư duy.
- Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình khác
với mọi khoa học cụ thể: Nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách
đưa ra một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Điều đó chỉ có thể thực

hiện được bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và lịch sử của bản
thân Triết học
CHƯƠNG II: MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG CỦA TRIẾT HỌC
2.1. Tính thống nhất
Thứ nhất, triết học Mác – Lênin có sự thống nhất giữa thế giới quan
duy vật và phương pháp biện chứng. Điều đó nghĩa là triết học Mác – Lênin
khơng những thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, thế giới vật chất tồn
tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức, mà còn thừa nhận thể giới vật chất
vận động, phát triển không ngừng, các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật


chất quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động, chuyển hố lẫn nhau và thơng qua
đó xác định xu hướng vận động đi lên của các sự vật trong thể giới vật chất.
2.2. Xây dựng duy vật biệt chứng
Thứ hai, triết học Mác – Lênin đã xây dựng được quan điểm duy vật
biện chứng về lịch sử xã hội, làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành toàn diện
và triệt để nhất, khắc phục được tính chất duy tâm về xã hội trong các hệ
thống triết học trước đây. Các hệ thống triết học trước Mác, khi giải quyết các
vấn đề xã hội đều đứng trên quan điểm duy tâm, không thừa nhận quá trình
vận động và phát triển của xã hội tuân theo những quy luật khách quan, không
thừa nhận vai trò chủ thể lịch sử của con người, của quần chúng nhân dân,
không thừa nhận hoạt động sản xuất vật chất là nền tảng của toàn bộ đời sống
xã hội. Họ cho các quá trình xã hội là do một lực lượng siêu tự nhiên nào đó
quyết định, hoặc do ý muốn chủ quan của một cá nhân nào đó quyết định. Họ
khơng tìm nguồn gốc của q trình xã hội trong những điều kiện vật chất của
hoạt động của con người. Điều này làm cho con người không nhận thức đúng
vai trò của nhũng hoạt động sản xuất vật chất và những điều kiện vật chất cho
hoạt động của con người, từ đó con người khơng phát huy được năng lực sáng
tạo của mình trong quá trình hoạt động.
2.3. Mối liên hệ giữ triết học và khoa học

Thứ ba, triết học Mác – Lênin xác định rõ đối tượng nghiên cứu của
triết học là những mối liên hệ chung, những quy luật phổ biến của sự vận
động phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, phân biệt với đổi tượng nghiên
cứu của các khoa học cụ thể. Nhờ vậy đã khắc phục được quan niệm sai lầm
cho rằng triết học là khoa học của mọi khoa học, chỉ ra một cách đúng đắn
mối quan hệ giữa triết học và hoa học cụ thể. Triết học không phải là khoa
học của mọi khoa học, không thay thế cho các khoa học cụ thể, mà triết học
phải dựa vào những nghiên cứu của các khoa học cụ thể để xây dựng các
quan điểm lý luận của mình, đồng thời những quan điểm lý luận của triết học
lại là cơ sở phương pháp luận cho các khoa học cụ thể. Giữa triết học và khoa


học cụ thể không tách rời nhau và cũng không thay thế được cho nhau, mà
quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau trong quá trình phát triển của cả
triết học và khoa học cụ thể.
2.4. Tính thực tiễn
Thứ tư, triết học Mác – Lênin là vũ khí tinh thần của giai cấp công
nhân, luôn gắn với thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công
nhân, cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi chế độ người bóc lột người,
xây dựng một xã hội trong đó con người có cuộc sống vật chất đầy đủ, cuộc
sống tinh thần phong phú, thật sự công bằng, dân chủ và văn minh. Đây là
một quá trình phát triển rất lâu dài và phức tạp, rất nhiều vấn đề mới nảy sinh
đòi hỏi phải được khái quát về mặt lý luận. Triết học Mác – Lênin với tư cách
là hệ thống lý luận phản ánh thực tiễn cuộc đấu tranh đó cũng phải khơng
ngừng phát triển, phải được bổ sung bằng những nội dung mới. Vì vậy triết
học Mác – Lênin khơng những có tính khoa học mà cịn có tính cách mạng,
tính nhân văn sâu sắc. Nội dung triết học Mác – Lênin không phải là những
khẳng định cứng nhắc như những giáo điều, mà nó thường xuyên được kiểm
nghiệm, mài sắc qua thực tiễn. Đây là một đặc điểm quan trọng đảm bảo cho
triết học Mác – Lênin trường tồn sức sống và ảnh hưởng sâu rộng đến đời

sống xã hội hiện nay.
Những đặc điểm trên đây của triết học Mác — Lênin quy định phương
pháp nghiên cứu môn học này là phải liên hệ thường xuyên với thực tiễn xã
hội, với quá trình phát triển của các ngành khoa học hiện đại cũng như với
quá trình phát triển của chính triết học trong lịch sử và các trào lưu triết học
trên thế giới hiện nay.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ CHỨC NĂNG CỦA TRIẾT HỌC
3.1. Chức năng thế giới quan
Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người
về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong
thế giới đó. Thế giới quan đóng vai trị định hướng cho toàn bộ cuộc sống của


con người, từ thực tiễn đến hoạt động nhận thức thế giới cũng như tự nhận
thức bản thân để từ đó xác định lý tưởng, hệ giá lối sống, nếp sống của mình.
Như vậy, thế giới quan đúng đắn, khoa học là tiền đề để xác lập nhân sinh
quan tích cực và trình độ phát triển của thế giới quan là một trong những tiêu
chí cơ bản để đánh giá sự trưởng thành của mỗi cánhân cũng như của mỗi
cộng đồng xã hội.
Hệ thống các quan niệm triết học, kinh tế và chính trị-xã hội là cơ sở
khoa học của thế giới quan duy vật biện chứng và thế giới quan duy vật biện
chứng trước hết thể hiện ở cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học; theo đó
vật chất có trước và quy định ý thức (duy vật), nhưng ý thức tồn tại độc lập
tương đối và tác động trở lại vật chất (biện chứng). Trong lĩnh vực kinh tế, thế
giới quan duy vật biện chứng thể hiện ở chỗ lực lượng sản xuất (cái thứ nhất)
quy định ý quan hệ sản xuất (cái thứ hai), cơ sở hạ tầng (cái thứ nhất) quy
định kiến trúc thượng tầng (cái thứ hai); nhưng cái thứ hai luôn tồn tại độc lập
tương đối và tác động trở lại cái thứ nhất. Trong lĩnh vực xã hội, tồn tại xã hội
(cái thứ nhất) quy định ý thức xã hội (cái thứ hai); nhưng ý thức xã hội tồn tại
độc lập tương đối và tác động trực tiếp hay gián tiếp trở lại tồn tại xã hội.

3.2. Chức năng phương pháp luận
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống quan điểm,
các nguyên tắc chỉ đạo con người tìm tịi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các
phương pháp trong nhận thức và thực tiễn. Phương pháp luận có nhiều cấp
độ; trong đó, phuơng pháp luận triết học là phương pháp luận chung nhất.
Chức năng phương pháp luận biện chứng duy vật thể hiện ở hệ thống
các nguyên tắc, phương pháp tổ chức và xây dựng hoạt động lý luận và hoạt
động thực tiễn, đồng thời cũng chính là học thuyết về hệ thống đó và là
phương pháp luận chung nhất của các khoa học chuyên ngành. Phương pháp
luận biện chứng duy vật là sự thống nhất biện chứng giữa các phương pháp
luận bộ môn, phương pháp luận chung đã được cụ thể hoá trong các lĩnh vực
của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Với tư cách là hệ thống tri


thức chung nhất về thế giới và về vai trò, vị trí của con người trong thế giới
đó cùng với việc nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội
và tư duy, chủ nghĩa duy vật biện chứng thực hiện chức năng phương pháp
luận chung nhất. Mỗi luận điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng đồng thời
là một nguyên tắc trong việc xác định, lý luận về phương pháp. Những chức
năng trên tạo ra khả năng cải tạo thế giới của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
trở thành công cụ hữu hiệu trong hoạt động chinh phục tự nhiên và sự nghiệp
giải phóng con người.
3.3. Sự liên hệ của thế giới quan và phương pháp luận
Như mọi khoa học khác, triết học Mác – Lênin có nhiều chức năng.
Tuy nhiên, với tính cách là một khoa học triết học, triết học Mác – Lênin thực
hiện hai chức năng cơ bản là thế giới quan và phương pháp luận.
Thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy
vật triết học là cơ sở lý luận nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Nắm vững
chúng chẳng những là điều kiện tiên quyết để nghiên cứu tồn bộ hệ thống lý
luận chủ nghĩa Mác-Lênin, mà cịn là cơ sở để vận dụng sáng tạo và phát triển

chúng vào hoạt động nhận thức; giải thích, nhận thức và giải quyết những vấn
đề cấp bách của thực tiễn đất nước và thời đại đặt ra.
Với tính cách là khoa học về hệ thống những quan niệm chung nhất về
thế giới và về vai trị, vị trí của con người trong thế giới, triết học Mác –
Lênin là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học – thế giới quan của giai
cấp vơ sản. Với tính cách là khoa học về hệ thống những nguyên tắc, những
cách thức chung nhất cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, triết học Mác –
Lênin trở thành lý luận về phương pháp triệt để cách mạng của con người.
Trong triết học Mác – Lênin, hai chức năng trên đây ln gắn bó hữu
cơ với nhau, làm cơ sở, tiền đề của nhau. Hệ thông quan điểm chính xác về
thế giới của triết học Mác – Lênin sẽ góp phần cổ vũ, hướng dẫn chúng ta
hành động cải tạo thế giới, do đó cũng đồng thời có ý nghĩa phương pháp
luận. Tương tự, hệ thơng những nguyên tắc, cách thức chính xác cho hành


động đó triết học Mác – Lênin cung cấp sẽ góp phần kiểm nghiệm vị trí, vai
trị của con người trong thế giới, do đó cũng đồng thời mang ý nghĩa thế giới
quan.


C. KẾT LUẬN
Triết học Mác Lênin vừa có chức năng thế giới quan vừa có chức năng
phương pháp luận bởi vì mỗi quan điểm của triết học đồng thời là một nguyên
tắc trong việc xác định phương pháp. Hệ thống các quan điểm triết học Mác
Lênin đem lại cho con người hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận như
nguyên tắc khách quan, nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử - cụ thể,
nguyên tắc phát triển, nguyên tắc thực tiễn… Triết học Mác Lênin là thế giới
quan và phương pháp luận khoa học bởi vì thực chất của nó là sự thống nhất
giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Đặc điểm này làm cho chủ nghĩa
duy vật mang tính triệt để và phương pháp biện chứng trở thành lý luận khoa

học. Nhờ đó triết học Mác Lênin phản ánh đúng đắn về thế giới, nó trở thành
“cơng cụ nhận thức vĩ đại” cho con người.
Như vậy, cũng như trong q khứ, trong kỷ ngun tồn cầu hóa, triết
học khơng mất chỗ đứng của nó dù là trong phạm vi một dân tộc hay trên
bình diện nhân loại. Triết học khơng chỉ giúp con người có được cách nhìn
nhận đúng đắn thế giới, mà cịn giúp con người có được khả năng đánh giá
những biến động đang diễn ra, gợi mở cách đi, hướng giải quyết các vấn đề
mà cuộc sống đặt ra liên quan đến từng cá nhân cũng như đến toàn xã hội và
trong quan hệ với thiên nhiên.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đoàn Quang Thọ (chủ biên), Giáo Trình Triết Học, Bộ Giáo Dục
và Đào Tạo, Nhà xuất bản Chính Trị - Hành Chính (2018).
[2] Nguyễn Hữu Vui, Nguyễn Ngọc Long (đồng chủ biên), Giáo
Trình Triết Học Mác-Lênin, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Nhà xuất bản Chính
Trị Quốc Gia (2013).
[3] Nguyễn Hữu Vui, Vũ Ngọc Pha, Nguyễn Ngọc Long (đồng chủ
biên), Triết Học (tập 1), Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, Nhà xuất bản Chính Trị
Quốc Gia (1997).



×