Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Quần thể tượng ở Thánh địa La Vang: Nơi nghệ thuật mỹ thuật thăng hoa pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.47 KB, 6 trang )





Quần thể tượng ở Thánh địa La Vang: Nơi nghệ thuật
thăng hoa


Một quần thể điêu khắc có giá trị nghệ thuật vào bậc nhất trong lịch sử điêu khắc ở
Việt Nam nhưng ít được biết đến nằm trong khuôn viên nhà thờ La Vang, huyện
Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
Trải qua nhiều thăng trầm, La Vang nhiều lần phải tái thiết. Trong các cuộc tái
thiết đó, quần thể tượng ở thánh địa này là công trình sáng tạo của điêu khắc gia Lê
Ngọc Huệ (còn gọi là Bernard Huệ, sinh năm 1936 ở Huế) cùng với sự cộng tác
đắc lực của người học trò tài ba của ông là Mai Chửng. Khi ấy Lê Ngọc Huệ mới
tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Montpeller (Pháp), đang là giáo sư Trường
Cao đẳng Mỹ thuật Huế, ông đã thổi một luồng gió mới của chủ nghĩa hiện đại vào
điêu khắc Việt Nam.

Quần thể tượng được thực hiện từ năm 1961-1962, gồm 15 pho đặt trên bệ, chất
liệu tổng hợp từ xi măng trắng, nằm dọc cân xứng hai bên đường lát đá và rải thảm
cỏ từ cổng tam quan đi vào trong khuôn viên Công trường Mân côi. Diện tích công
trường 30 x 480 mét. Khuôn viên này dẫn đến đền thờ và lễ đài ngoài trời, cũng là
hình ảnh thu nhỏ của đàn tế Nam Giao ở Huế.


Toàn cảnh công trường Mân Côi

Mùa Hè năm 1972, công trường Mân Côi bị bom đạn cày xới lỗ chỗ, một số bức
tượng bị tan nát hoặc bị sứt mẻ trầm trọng. Chỉ còn ba cây đa nhân tạo nơi đài Đức
Mẹ là vẫn đứng vững, nguyên vẹn. Dấu tích hoang tàn kéo dài đến năm 1975. Từ


năm 1995, Công trường Mân Côi đã được tái thiết hầu như nguyên trạng ban đầu
với thành rào bao quanh, sân cỏ, trồng cây, đèn cao áp, lối đi được lát gạch chạy
thẳng từ cổng tam quan đến lễ đài, và quần thể tượng bị hư hại cũng đã được phục
chế.

Cuộc cách tân về tư duy điêu khắc

Chủ đề 15 pho tượng của Lê Ngọc Huệ tương ứng với sự chiêm ngắm 15 mầu
nhiệm Mân Côi gồm 5 sự vui, 5 sự thương và 5 sự mừng. Về mặt nghệ thuật, nhóm
tượng La Vang lần đầu tiên mang phong cách hiện đại trừu tượng vào điêu khắc
hiện đại Việt Nam, mà ở đây là sự kết hợp những khối hình học được tinh giản và
cách điệu hoá, đạt tới mức vừa trừu tượng vừa cụ thể, cũng là trào lưu của nghệ
thuật hiện đại phương Tây, vốn trở về việc tái tạo nghệ thuật nguyên thuỷ của các
nền văn hoá. Tuy vậy, quần thể tượng vẫn chủ ý giữ tính tượng trưng và biểu hiện
để gần gũi với quần chúng hơn.
Điều đáng kể ở đây, không chỉ có sự cách điệu hình khối, Lê Ngọc Huệ đã nỗ lực
đem đường nét vào trong điêu khắc để tạo hiệu quả về bóng sáng tối giữa các mảng
hoặc khối với tiết điệu đầy thi vị, vừa như phương tiện dẫn dắt thị giác tập trung
vào ý nghĩa hàm súc trong từng pho tượng khi chiêm ngắm.

Xem kỹ quần thể tượng với 3 bộ thì thấy mỗi bộ về hình thể điêu khắc súc tích
được cái ý tưởng cốt yếu của từng chủ đề. Ở bộ 5 sự vui điêu khắc chủ yếu dùng
những đường nét cong đầy nữ tính, hình khối tròn mềm mại, hài hoà, khi vận dụng
đường uốn lượn nhịp nhàng của cử động và y phục. Điều này phù hợp với những
chủ đề giàu tình cảm như cảnh thiên thần truyền tin hoặc tình cảm giữa người nữ
với nhau, việc sinh đẻ, tình mẹ con. Điêu khắc trong bộ 5 sự thương lại chủ yếu
dùng những mẫu khối hình học lập thể táo bạo và mãnh liệt thích hợp để diễn tả
nỗi khắc khoải và thống khổ vừa trong nội tâm và thể xác của Chúa trong cuộc khổ
nạn. Còn với bộ 5 sự mừng, những đề tài hân hoan, thăng hoa và tôn vinh, thì hình
khối điêu khắc hầu hết trở về với hình khối mang tính tượng trưng, với đường nét

tròn đầy của nữ tính để diễn tả trạng thái viên mãn, nhất là với các bức thể hiện
Đức Mẹ.

Quan trọng, dù ít người biết

Lê Ngọc Huệ từng ở trong uỷ ban chuyên môn về mỹ thuật trong cuộc Triển lãm
Mỹ thuật đệ nhất, gồm 22 quốc gia, tổ chức tại công viên Tao Đàn, Sài Gòn vào
tháng 10/1962. Tại cuộc triển lãm này, Lê Ngọc Huệ và Điềm Phùng Thị là hai nhà
điêu khắc quan trọng nhất của Việt Nam được mời gởi tác phẩm. Cả hai ngẫu
nhiên trùng phùng qua hình tượng trụ cột tâm linh hướng tới những khát vọng hoà
bình, gia đình và tổ tiên: Lê Ngọc Huệ vớiTrụ cột hòa bình, Điềm Phùng Thị với
Trụ thần vật, ví như những trụ vật tổ (totem poles) hay trụ tượng nhà mồ Tây
Nguyên ngày đêm đứng canh giữ giữa cõi sống và cõi bên kia là nơi cư ngụ của tổ
tiên. Chúng ta hầu như không có thông tin về hoạt động nghệ thuật của nhà điêu
khắc Lê Ngọc Huệ kể từ sau cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm năm 1963; ông đã
sang Pháp sau đó.

Tác phẩm của Lê Ngọc Huệ để lại tuy chỉ trong một giai đoạn ngắn nhưng có
những giá trị đóng góp lâu dài đối với nghệ thuật điêu khắc hiện đại Việt Nam.
Quần thể tượng là 15 đóa hồng mầu nhiệm chất chứa nhiều trạng thái cảm xúc từ
bi tráng đến thăng hoa của con người, vượt cảnh giới thế tục qua sự cứu chuộc của
tôn giáo và nghệ thuật, và nằm trong một không gian và thời gian kết tinh của tâm
linh qua những thăng trầm của lịch sử.

Có lẽ không tình cờ khi Quảng Trị là nơi 21 năm phân cách hai miền Nam - Bắc
với vĩ tuyến 17; nơi có dòng sông Thạch Hãn đẫm “mồ hôi của đá”; nơi trải qua
nhiều tang thương của hơn 200 năm phân tranh Trịnh - Nguyễn, “Mẹ thương con
ra cầu Ái Tử”; nơi được mệnh danh là “con đường buồn thiu” trong chiến tranh
1946-1954; và cuối cùng là nơi gánh chịu điêu tàn nhất của thời 1960-1975, lại trở
thành nơi kết tụ tinh hoa của những thăng hoa nghệ thuật.


×