Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Câu hỏi và trả lời môn lịch sử đảng 12 câu – có liên hệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.17 KB, 98 trang )

Câu hỏi và trả lời môn lịch sử đảng 18 câu – có liên hệ

Câu 1. Vai trị của Đảng trong xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946)?
Câu 2. Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử cuộc Kháng chiến chống thực dân Pháp (19451954)?
Câu 3. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với vận động thành lập Đảng?
Câu 4. Vai trò của Đảng trong đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)?
Câu 5: Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử cuộc Kháng chiến chống Mỹ(1954-1975)?
Câu 6. Vai trị của Đảng với tìm tịi đường lối đổi mới (1979 - 1986)?
Câu 7. Những thành tựu chủ yếu của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 -1975)?
Câu 8. Những thành tựu chủ yếu của cơng cuộc đổi mới tồn diện (1986 - nay)?
Câu 9: Vai trò của Đảng trong lãnh đạo10 nãm đầu đổi mới (1986 - 1996)?
Câu 10: Kinh nghiệm của Đảng về công tác vận động quần chúng (1930 – 1975)? Vận dụng
trong giai đoạn hiện nay?
Câu 11. Những kinh nghiệm của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại (1930
– 1945)? Vận dụng kinh nghiệm trong giai đoạn hiện nay?
Câu 12. Bài học kinh nghiệm về gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội trong cách mạng dân
tộc dân chủ (1930 – 1975)? Vận dụng trong giai đoạn hiện nay?
Câu 13. Những nguy cơ, thách thức đặt ra với công cuộc đổi mới của Việt Nam hiện nay? Đề
xuất giải pháo trong chỉ đạo ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ thách thức đó?
Câu 14. Kinh nghiệm của Đảng trong gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội thời kỳ 1954 –
1945? Vận dụng trong giai đoạn hiện nay?
Câu 15. Đặc điểm mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (1986 – 2011)? Mơ hình và bước đi của
CNXH ở nước ta hiện nay cần phải tiếp tục điểu chỉnh và bổ sinh như thế nào?
Câu 16. Vai trò của Đảng với những thành tựu có ý nghĩa lịch sử ở Việt Nam trong 20 năm đầu
đổi mới (1986 – 2006)? Giải pháp nâng cao chất lượng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng
hiện nay?
Câu 17. Quá trình đổi mới đường lối phát triển nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam (1986 đến
nay)? Đảng cần tập trung chỉ đạo những vấn đề gì để đạt mục tiêu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
nơng nghiệp, nơng thơn?
Câu 18. Những thành tựu chủ yếu của Việt Nam trên lĩnh vực đối ngoại trong thời kỳ đổi mới
(1986 đến nay)? Cần đổi mới đường lối đối ngoại như thế nào trong hội nhập quốc tế giai đoạn


hiện nay?

1


Câu 1. Vai trò của Đảng trong xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946)?
1. Bối cảnh lịch sử sau Cách mạng Tháng Tám 1945
- Những thuận lợi cơ bản
Cuộc Cách mạng tháng Tám nǎm 1945 do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, "dân ta
đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 nǎm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập Dân ta
lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hồ" Thắng lợi đó đã
mở ra kỷ ngun mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên đất nước được độc lập, thống nhất,
nhân dân lao động làm chủ xã hội và tạo ra những tiền đề cần thiết, từng bước đưa đất nước phát triển
theo con đường xã hội chủ nghĩa. Cách mạng nước ta có những thuận lợi lớn. Hệ thống chính quyền
cách mạng được xây dựng từ Trung ương tới cơ sở trên cả nước. Từ hoạt động bí mật, Đảng ta đã trở
thành Đảng lãnh đạo chính quyền. Đảng, Mặt trận Việt Minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh có uy tín lớn
trong dân tộc, chính quyền cách mạng được tồn dân ủng hộ. Phong trào cách mạng tinh thần yêu
nước của nhân dân dấy lên từ cao trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tiếp tục phát triển với
những hình thức và nội dung mới nhằm xây dựng, bảo vệ chính quyền, giữ vững thành quả cách mạng.
- Những khó khăn, thách thức
Bên cạnh những thuận lợi do thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đem lại, nhân dân ta và
chính quyền cách mạng phải đương đầu với những khó khǎn, thử thách nặng nề. Ngay từ những ngày
đầu của chính quyền cách mạng, các thế lực đế quốc, phản động quốc tế đã cấu kết, báo vây, chống
phá hòng thủ tiêu mọi thành quả cách mạng của nhân dân ta, đặt lại ách thống tri của chúng, xoá bỏ
nền độc lập mà dân tộc ta vừa giành được.
Ngay sau cách mạng thành công, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động đã bao vây,
chống phá hòng tiêu diệt chính quyền cách mạng non trẻ. Gần 20 vạn quân Tưởng, đồng minh của đế
quốc Mỹ cùng bọn tay sai kéo vào miền Bắc nước ta với ý đồ tiêu diệt Đảng ta, lật đổ chính quyền
cách mạng, lập nên chính quyền tay sai của chúng. Ở miền Nam, quân đội Pháp được đế quốc Anh che
chở đã đánh chiếm Nam Bộ hòng lập lại chế độ thực dân của chúng. Nhiều đảng phái phản động (Việt

Quốc, Việt Cách, Đại Việt...) cơng khai hoạt động chống chính quyền. Chính quyền cách mạng tiếp
thu một đất nước đổ nát với nạn đói và sự kiệt quệ về kinh tế, tài chính và biết bao hậu quả khác mà
chế độ phong kiến, thực dân để lại. Với những thử thách nặng nề đó, sự mất - cịn của chính quyền đặt
trong thế "ngàn cân treo sợi tóc".
2. Vai trị của Đảng trong xây dựng thực lực cách mạng
- Lãnh đạo nhân dân xây dựng chính quyền từ Trung ương đến địa phương, phát triển lực lượng
vũ trang.
2


Trước tình hình khó khăn trên, nhiệm vụ xây dựng, củng cố chính quyền được Đảng ta đặt lên
hàng đầu. Vấn đề cấp bách đặt ra là "chúng ta phải có ngay một hiến pháp dân chủ". Đảng chủ trương
phải xúc tiến nhanh việc bầu cử Quốc hội, lập chính phủ chính thức và soạn thảo Hiến pháp. Ngày 61-1946, lần đầu tiên ở nước ta tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội của một nhà nước dân chủ. Ngày 23-1946, Quốc hội họp, cử ra chính phủ tiêu biểu cho ý chí, lợi ích của tồn dân. Hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được công bố ngày 9-11-1946.
Để tǎng cường hiệu lực quản lý đất nước, chính quyền cách mạng đã ban hành hàng loạt sắc
lệnh và những quy định cần thiết nhý: sắc lệnh giải tán các đảng phái phản động, sắc lệnh thay đổi chế
độ thuế và bãi bỏ thuế thân, sắc lệnh cấm không được hợp tác với quân Pháp, sắc lệnh bầu cử, v.v.
Xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền các cấp là một nhiệm vụ bức bách. Chính phủ đã
xem xét các vǎn bản của Uỷ ban nhân dân các xứ và có kế hoạch "cải cách chính quyền nhân dân ở
các địa phương và thanh trừng những phần tử xấu trong Uỷ ban nhân dân địa phương và cải tiến cách
làm việc của những Uỷ ban ấy".
Đồng thời, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm chỉnh đốn bộ máy và đội ngũ cán
bộ chính quyền, ngǎn chặn nguy cơ quan liêu hố, cán bộ chính quyền trở thành những "quan cách
mạng". Trong Thý gửi Uỷ ban nhân dân các cấp, tháng 10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra
những cǎn bệnh xuất hiện trong bộ máy chính quyền mới nhý: trái phép, cậy thế, hủ hoá, tý túi, chia
rẽ, kiêu ngạo. Những hành vi đó là trái với bản chất của chính quyền nhân dân, làm giảm uy tín, làm
suy yếu chính quyền. Người vạch rõ: Các cơ quan của Chính phủ từ tồn quốc cho đến các làng đều là
đầy tớ của nhân dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân.
- Lãnh đạo nhân dân xây dựng kinh tế: chống "giặc đói", khơi phục sản xuất, khắc phục tài
chính khó khăn...

Đảng ta nhận thức rằng chính quyền cách mạng trước mắt phải chǎm lo đời sống nhân dân, đưa
đất nước nhanh chóng thốt khỏi nạn đói. Do vậy, việc cứu đói thật sự cần kíp nhý đánh giặc ngồi
mặt trận. Trên cơ sở khơi phục, phát triển kinh tế để ổn định đời sống nhân dân, chính quyền cách
mạng phải từng bước mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân trong điều kiện, hoàn cảnh cho phép. Sự
nghiệp kiến thiết đất nước đặt ra trước chính quyền không chỉ nhằm mục tiêu cụ thể trước mắt về cơm
ǎn, áo mặc cho dân, mà còn làm sao cho chúng ta theo kịp các nước khác trên thế giới. Nhiều chính
sách kinh tế, đặc biệt là chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp đã mang lại hiệu quả thiết thực.
Nạn đói bị đẩy lùi, nhân dân tin tưởng gắn bó với chính quyền cách mạng. Xác định rõ chức nǎng,
nhiệm vụ ban đầu của chính quyền là rất cần thiết cho hoạt động thực tiễn.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn phát động “Tuần lễ vàng” và xây dựng “Quỹ độc lập”
để phát huy sự ủng hộ của nhân dân nhằm giải quyết khó khăn về tài chính. Trong thý gửi đồng bào
3


toàn quốc nhân dịp “Tuần LễVàng”, Hồ Chủ Tịch nhấn mạnh: “Muốn củng cố nền tự do độc lập,
chúng ta cần sức hy sinh, phấn đấu của toàn quốc đồng bào, cần sức quyên góp của nhân dân, nhất là
những nhà giàu có”. “Tuần Lễ Vàng” đã thu được nhiều kết quả to lớn. Chỉ trong 1 tuần, từ ngày 1724/9/1945, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào cả nước đã ủng hộ cho “Quỹ
Độc Lập” khá nhiều vàng, bạc, tiền Đông Dương.
Những kết quaÒ thu được từ “Tuần Lễ Vàng” cuối mùa thu Ất Dậu 1945 khơng chỉ có ý nghĩa
to lớn về tài chính mà cịn mang ý nghĩa chính trị sâu sắc. Lượng tiền, vàng mà nhân dân cả nước ủng
hộ cho “Quỹ Độc Lập” là tiền đề tài chính quan trọng giúp Đảng và Chính quyền cách mạng tháo gỡ
tình thế “nghìn cân treo sợi tóc”, tạo thế và lực để giải quyết từng bước các nhiệm vụ cách mạng tiếp
theo. Đồng thời, đây còn là cơ sở để cuối tháng 1/1946 chúng ta phát hành đồng tiền Việt Nam, bước
đầu xây dựng một nền tiền tệ độc lập.
- Phát triển vãn hoá-giáo dục: Chống "giặc dốt", phát động phong trào Bình dân học vụ và
xây dựng đời sống mới; phát triển báo chí cách mạng...
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" Vì vậy, cùng với
chống giặc đói và giặc ngoại xâm phải chống giặc dốt: Chiến dịch diệt giặc dốt được thực hiện rộng
rãi khắp cả nước. Chỉ trong một nǎm, đã có 2,5 triệu người biết chữ. Việc xoá bỏ phong tục cổ hủ và tệ
nạn xã hội của chế độ cũ và từng bước xây dựng đời sống vǎn hố mới đã mang lại hiệu quả tích cực,

tạo nên sức mạnh chính trị, tinh thần của chế độ xã hội mới.
Đảng ta cũng chủ trương phát triển mạnh mẽ báo chí cách mạng. Từ tháng 8/1945 trở đi, dýới
chế độ dân chủ nhân dân, báo chí cách mạng xuất bản công khai, in ty-pô với số lượng lớn. Báo Cứu
quốc xuất bản hàng ngày là tờ báo lớn nhất cả nước. Thành lập hai cơ quan báo chí mới: Đài phát
thanh Tiếng nói Việt Nam và Việt Nam Thông tấn xã (nay là Thông tấn xã Việt Nam). Cuối năm
1945, Đảng chuyển vào bí mật, báo Cờ giải phóng ngừng xuất bản; báo Sự Thật ra đời với danh nghĩa
cơ quan của Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đơng Dương. Trong năm đầu của chính quyền cách
mạng, báo chí phục vụ tích cực cho nhiệm vụ bảo vệ chính quyền non trẻ.
3. Vai trị của Đảng trong đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài
Để giữ vững được chính quyền trong hồn cảnh bị nhiều kẻ thù bao vây và chống phá, địi hỏi
Đảng phải phân tích, đánh giá đúng âm mýu, thủ đoạn, thể và lực của từng kẻ thù, để có đối sách thích
hợp, khõi sâu và lợi dụng mâu thuẫn giữa chúng, làm thất bại từng âm mýu, thủ đoạn của chúng.
- Thực hiện sách lược hịa hỗn với qn Tưởng ở phía Bắc, tập trung chống Pháp ở phía Nam
(từ 9-1945 đến tháng 3-1946)
Nhận rõ âm mýu của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng ta cho rằng, các
thế lực đế quốc sẽ đi đến dàn xếp với nhau để cho thực dân Pháp trở lại Đông Dương. Trước sau chính
4


quyền Tưởng Giới Thạch cũng "sẽ bằng lịng cho Đơng Dương trở về tay Pháp, miễn là Pháp nhượng
cho Tưởng nhiều quyền lợi quan trọng". Nhý vậy, việc tập trung chống thực dân Pháp lúc này là hoàn
toàn đúng.
Để tập trung đối phó với thực dân Pháp, cần phải hồ hỗn, nhân nhượng với Tưởng. Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ quân Tưởng vào nước ta với ý đơ lật đổ Chính phủ ta, lập nên chính
quyền tay sai của chúng nhýng lại dýới danh nghĩa quân Đồng minh làm nhiệm vụ tước vũ khí quân
Nhật, nên Đảng ta đề ra chính sách "Hoa - Việt thân thiện", có những nhân nhượng nhất định, chính là
chủ động ngǎn chặn và làm thất bại âm mýu lật đổ của chúng, tỏ rõ thiện chí của Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà là sẵn sàng hợp tác, giúp đỡ quân Đồng minh trong việc giải giáp quân Nhật, không
để họ kiếm cớ lật đổ chính quyền của ta.
Từ sự phân tích khách quan chỗ mạnh, chỗ yếu của từng kẻ thù, tin vào sức mạnh của cách

mạng, của chính nghĩa, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sự nhân nhượng với quân Tưởng trên
một số mặt. Về kinh tế, Chính phủ Việt Nam nhận cho quân Tưởng tiêu tiền "quan kim" mặc dù điều
đó làm cho tài chính và thương mại của ta càng thêm nguy ngập . Chính phủ và nhân dân ta nhận cung
cấp lương thực, thực phẩm cho quân Tưởng trong hoàn cảnh đất nước chưa ra khỏi nạn đói. Về quân
sự, Đảng chủ trương tránh xung đột với quân Tưởng, tỉnh táo để khơng rõi vào âm mýu và hành động
khiêu khích lật đổ của chúng. Về chính trị, Đảng chủ trương mở rộng Chính phủ lâm thời thành Chính
phủ liên hiệp lâm thời, để cho một số nhân vật của Việt Quốc, Việt Cách (tay sai của Tưởng) tham gia
Chính phủ. Quốc hội khố I, kỳ họp đầu tiên ngày 2-3-1946 thơng qua đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí
Minh mở rộng thêm 70 ghế trong Quốc hội cho bọn Việt Quốc, việt Cách và để họ nắm gần một nửa
số Bộ trong Chính phủ liên hiệp chính thức.
Sách lược của Đảng ta đối với Tưởng đã góp phần quan trọng ổn định miền Bắc và mọi mặt để
tập trung sức chống lại thực dân Pháp xâm chiếm Nam Bộ.
- Tạm thời hịa hỗn với Pháp để đẩy nhanh qn Tưởng về nước, tranh thủ thời gian chuẩn bị
lực lượng (từ tháng 3 đến tháng 12-1946)
Ngày 28-2-1946, Tưởng và Pháp đã ký Hiệp ước Hoa - Pháp, thoả thuận để quân Pháp vào
miền Bắc thay thế quân Tưởng "canh giữ tù binh Nhật" và "giữ trật tự theo "hiệp ước quốc tế". Thực
chất đây là sự mua bán chính trị giữa các thế lực đế quốc, phản động, một sự áp đặt nhý "việc đã rồi",
bất kể Chính phủ và nhân dân Việt Nam có thừa nhận hay khơng. Tình hình phức tạp trên đây đi hỏi
Đảng ta phải nhanh chóng quyết định tiếp tục đánh hay tạm thời hoà với Pháp?
Chỉ thị "Tình hình và chủ trương" của Trung ương Đảng chỉ rõ, tạm thời hoà với Pháp, cho
quân Pháp vào miền Bắc sẽ tránh được tình thế bất lợi cùng một lúc phải chiến đấu với nhiều kẻ thù,
bảo toàn được thực lực, có thời gian củng cố chính quyền và thành quả cách mạng, tǎng thêm tiềm lực
5


để đưa cách mạng tiến lên bước phát triển mới,tranh thủ thời gian hồ hỗn với Pháp để sớm gật được
quân Tưởng và loại trừ bọn tay sai.
Từ đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định tạm thời hồ hỗn và có
nhân nhượng cần thiết để cho quân Pháp vào miền Bắc, nhýng không phải hoàn toàn theo Hiệp ước
Hoa - Pháp, mà phải theo những điều kiện đàm phán ký kết giữa ta và Pháp. Sự nhân nhượng của ta là

có nguyên tắc. Trước hết là Pháp phải công nhận quyền tự chủ (chứ không phải tự trị) của nhân dân
Việt Nam được ghi trong Điều 1 của Hiệp định sõ bộ ký ngày 8-3-1946 tại Hà Nội giữa đại diện Chính
phủ Cộng hồ Pháp và đại diện Chính phủ Việt Nam. Hai bên đã thoả thuận về các điều khoản sau
đây:
1. Chính phủ Pháp cơng nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hồ là một quốc gia tự do, có chính
phủ của mình, nghị viện của mình, qn đội của mình, tài chính của mình, và là một phần tử trong
Liên bang Đơng Dương và trong khối Liên hiệp Pháp. Về việc hợp nhất ba kỳ, chính phủ Pháp cam
đoan thừa nhận những quyết định của nhân dân trực tiếp phán quyết.
2. Chính phủ Việt Nam tuyên bố sẵn sàng thân thiện tiếp đón quân đội Pháp khi quân đội ấy
chiếu theo các hiệp định quốc tế đến thay thế quân đội Trung Hoa. Một hiệp định phụ khoản đính theo
Hiệp định sõ bộ này sẽ định rõ cách thức thi hành công việc thay thế ấy.
3. Các điều khoản kể trên sẽ được tức khắc thi hành sau - khi ký hiệp định. Hai chính phủ lập
tức quyết định mọi phương sách cần thiết để đình chỉ ngay cuộc xung đột, để giữ nguyên quân đội hai
bên tại vị trí hiện thời và để gây một bầu khơng khí êm dịu cần thiết cho việc mở ngay cuộc điều đình
thân thiện và thành thực.
Ngày 9-3-1946, Trung ương Đảng ra bản chỉ thị Hồ để tiến. Chỉ thị phân tích rõ thắng lợi và ý
nghĩa quan trọng của bản Hiệp định sõ bộ, thống nhất nhận thức và hành động trong Đảng và nhân dân
ta.
- Thực hiện hồ hỗn có ngun tắc, đồng thời luôn tỉnh táo, cảnh giác và chuẩn bị tinh thần,
lực lượng kháng chiến
Cuộc đấu tranh bảo vệ thành quả và phát triển thực lực cách mạng của nhân dân ta từ sau Hiệp
định sõ bộ diễn ra hết sức phức tạp và gay gắt. Một mặt, ta kiên trì đấu tranh ngoại giao, duy trì khả
nǎng hồ hỗn, tỏ rõ lập trường hồ bình, hữu nghị với nước Pháp; đồng thời, kiên quyết đấu tranh đẩy
lùi những âm mýu, hành động khiêu khích, xung đột, lấn tới của bọn thực dân Pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thǎm nước Pháp với tý cách là thượng khách của Chính phủ Pháp từ
ngày 31-5-1946. Cuộc đàm phán chính thức ở Pari giữa đồn đại biểu Chính phủ ta và Chính phủ Pháp
bắt đầu từ ngày 6-7-1946, nhýng không đạt được kết quả. Trước khi rời nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký với Chính phủ Pháp bản Tạm ước Việt - Pháp ngày 14-9-1946, thể hiện thiện chí hồ bình
6



trước sau nhý một của Chính phủ và nhân dân Việt Nam. Mặt khác, để Đảng và Chính phủ ta có thời
gian xúc tiến nhanh việc chuẩn bị lực lượng, cảnh giác và sẵn sàng đối phó với sự bội ước của thực
dân Pháp và sự phá hoại của bọn việt gian thân Pháp.
Việc thực dân Pháp đem quân chiếm đóng trái phép Phủ tồn quyền cũ ở Hà Nội ngày 25-61946, âm mýu làm đảo chính lật đổ Chính phủ ta vào ngày 14-7-1946 và lập ra "Chính phủ Nam Kỳ tự
trị" v.v. ngày càng lộ rõ dã tâm xâm lược của thực dân Pháp.
Đến cuối tháng 11 năm 1946, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng, thị xã Lạng Sõn và đổ bộ lên
Đà Nẵng. Tại Hà Nội, quân đội thực dân Pháp liên tiếp nổ súng, ném lựu đạn vào nhiều nõi ở Hà Nội
trong các ngày 15, 16-12-1946 nhý đốt nhà thông tin ở phố Tràng Tiền, chiếm cơ quan Bộ Tài chính
và Bộ Giao thơng cơng chính. Ngày 18-12-1946, tướng Mc-li-e gửi cho ta hai tối hậu thý địi chiếm
đóng Sở Tài chính, địi ta phải phá bỏ mọi công sự chướng ngại trên các đường phố, giải tán lực lượng
tự vệ chiến đấu và giao quyền kiểm sốt an ninh trật tự ở Thủ đơ Hà Nội cho chúng. Pháp tuyên bố
nếu các yêu cầu trên khơng được Chính phủ Việt Nam chấp nhận thì chậm nhất vào sáng 20-12-1946
quân Pháp sẽ hành động.
Trước tình hình đó, ngày 18 và 19-12-1946, tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung
ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, quyết định phát động cuộc kháng chiến trên
phạm vi toàn quốc.
Xây dựng và bảo chính quyền nhân dân ở nước ta trong những nǎm 1945-1946 làm nổi bật
kinh nghiệm về cách mạng biết tự bảo vệ trong bối cảnh lịch sử cực kỳ khó khǎn, phức tạp. Dýới sự
lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng một lúc nhân dân ta phải thực hiện nhiều nhiệm vụ
lớn: kháng chiến chống xâm lược giữ vững nền độc lập; trấn áp các thế lực phản động, xây dựng và
củng cố chính quyền, xây dựng chế độ mới; phát triển kinh tế, vǎn hoá để từng bước ổn định đời sống
nhân dân v.v.. Những chủ trương, biện pháp đúng đắn đó đã khõi dậy sức mạnh to lớn của cả dân tộc,
do đó chẳng những đã bảo vệ được chính quyền, mà cịn đưa cách mạng tiếp tục phát triển vững chắc
và giành thế chủ động ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

7


Câu 2. Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử cuộc Kháng chiến chống thực dân Pháp

(1945-1954)?
1. Nguyên nhân thắng lợi
- ĐCSVN đã sớm đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với yêu cầu và thực tiễn cách
mạng Việt Nam
Khi phát động kháng chiến Đảng ta đã xác định rõ tình hình. Về thuận lợi, ta tiến hành kháng
chiến chính nghĩa và tại chỗ và có sự chuẩn bị về mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài. Về khó khăn,
tương quan lực lượng khơng có lợi cho ta; bị bao vây cô lập; Pháp đã chiếm được Lào, Campuchia và
một số thành phố, thị xã.
Từ đó, Đảng đưa ra đường lối kháng chiến tồn dân, tồn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính (1946-1950), với nội dung cơ bản:
+ Mục đích của cuộc kháng chiến: Đánh thực dân Pháp, giành độc lập thống nhất.
+ Tính chất của cuộc kháng chiến: trường kỳ kháng chiến, tồn diện kháng chiến.
+ Chính sách kháng chiến: Đồn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hịa bình.
Liên hiệp với dân tộc Pháp chống phản động thực dân Pháp. Đoàn kết toàn dân. Thực hiện toàn dân
kháng chiến… phải tự cấp, tự túc về mọi mặt.
+ Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến: Đồn kết tồn dân thực hiện qn, chính, dân nhất
trí… Động viên nhân lực, vật lực, tài lực, thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến,
trường kỳ kháng chiến. Giành quyền độc lập, bảo toàn lãnh thổ, thống nhất Trung, Nam, Bắc. Củng cố
chế độ dân chủ cộng hòa… Tãng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc.
+ Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân,
toàn diên, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
+ Về triển vọng của kháng chiến: mặc dù lâu dài và gian khổ nhýng thắng lợi nhất định sẽ về
ta.
Sau chiến thắng Biên giới 1950, tình hình có sự thay đổi, Đảng ta lại chủ tương phát triển
đường lối theo phương châm hồn thành giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến
lên chủ nghĩa xã hội (1951-1954)
- Tập hợp và phát huy được cao độ tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh cuộc chiến
tranh nhân dân trong tiến trình kháng chiến
- Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại phù hợp và có hiệu quả
Khi cách mạng còn ở thế cố lập, Đảng ta chủ trương kháng chiến tồn dân, tồn diên, dựa và

sức mình là chính. Khi thế bao vây đối với cách mạng bị phá vỡ, Đảng ta ra sức tãng cường đoàn kết
8


quốc tế, coi đó là một bộ phận hợp thành của đường lối chống pháp góp phần tạo nên sự výợt trội về
thế và lực của nhân dân ta; tạo nên một mặt trận rộng lớn của nhân dân ba nước Đơng dương và thế
giới đồn kết với Việt Nam và ủng hộ Việt Nam chống Pháp. Trong đó, các nước XHCN và phong
trào cộng sản quốc tế là nòng cốt, đặc biệt sự giúp đỡ to lớn có hiệu quả của Liên Xô, Trung Quốc, tạo
ra một tập hợp lực lượng mạnh mẽ tiến công thực dân Pháp từ mọi phía.
- Sáng tạo trong chỉ đạo phương châm tác chiến cho phù hợp với từng giai đoạn, từng chiến
dịch
Ta đã xây dựng được 1 lực lượng vũ trang nhân dân 3 thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương, dân quân du kích gan dạ, mýu trí dũng cảm, có được chiến thuật của cuộc chiến tranh nhân
dân phong phú, sáng tạo đi từ du kích chiến lên vận động chiến. Lực lượng quân đội ta luôn gắn bó với
nhân dân, được nhân dân yêu thương đùm bọc, che trở.
3. Ý nghĩa lịch sử
- Giải phóng hồn tồn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội; Tãng
thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp ta đã bảo vệ và phát triển thành quả của cách
mạng tháng 8, miền bắc hoàn tồn giải phóng, hàn thành cơ bản cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ,
nhân dân, mở ra thời kỳ mới xây dựng CNXH, ở Miền Bắc trở thành cãn cứ địa cách mạng của cả
nước là hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống mĩ cứu nước; tạo điều kiện để giải phóng
nửa nước cịn lại ở Miền Nam, hoàn thành thống nhất đất nước.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp
mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ là một trong những đỉnh cao chói lọi, một kỳ tích vẻ vang
nhất trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta thật xứng đáng “được ghi vào lịch sử dân
tộc nhý một Bạch Đằng, một Chi Lãng hay Đống Đa trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới nhý
một chiến cơng chói lọi, đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.
Trên thế giới, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, mở
rộng địa bàn, tãng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới. Qua đó, góp phần nâng

cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới; Tãng thêm lực lượng cho
chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới; Mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ là một
sự kiện chấn động địa cầu, là một mốc vàng của thời đại, đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân
cũ trên phạm vi thế giới, thức tỉnh các dân tộc bị áp bức khắp các Châu lục Á, Phi, Mỹ Latin đứng lên
giành độc lập, tự do. Đây không chỉ là chiến thắng của nhân dân Việt Nam, mà là chiến thắng của
9


nhân dân Lào, nhân dân Campuchia – những người bạn chiến đấu cùng chung chiến hào chống kẻ thù
chung là đế quốc xâm lược để tự giải phóng mình; là chiến thắng của các dân tộc bị áp bức trên thế
giới. Nó chứng tỏ rằng trong thời đại ngày nay, chiến tranh xâm lýõc của đế quốc nhất định thất bại,
cách mạng giải phóng dân tộc nhất định thắng lợi.
Thắng lợi của cuộc kháng chiên chống thực dân Pháp của Việt Nam mở đầu cho sự sụp đổ của
chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, đánh dấu thời kỳ mới trong cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới.
Nó cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, góp phần tích cực làm suy yếu chủ
nghĩa đế quốc, thu hẹp dinh lũy của chúng, góp phần giáng một địn đau vào chiến lược tồn cầu phản
cách mạng của đế quốc Mỹ, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh vĩ đại của nhân dân tiến bộ:
Vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa hiện nay
+ Kết hợp đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Nhiệm vụ chống phong
kiến phải tiến hành có kế hoạch, từng bước để vừa phát triển lực lượng cách mạng, vừa giữ vững khối
đoàn kết dân tộc.
+ Xác định và quán triệt đường lối chiến trang nhân dân: toàn dân, tồn diện, lâu dài và dựa
vào sức mình là chính. Đây là bí quyết thắng lợi của cuộc kháng chiến.
+ Vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ mới, xây dựng hậu phương vững mạng để đẩy mạnh
kháng chiến.
+ Kiên quyết kháng chiến lâu dài, đi từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy. Kết hợp

chặt chẽ giữa chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích.
+ Xây dựng Đảng vững mạnh và bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng với đường lối chiến
tranh nhân dân đúng đắn, có chủ trương và chính sách kháng chiến ngày càng hồn chỉnh, có ý chí
quyết chiến và quyết thắng kẻ thù. Có đội ngũ đảng viên dũng cảm, kiên cường, là những chiến sĩ tiên
phong trong chiến đấu và trong sản xuất.

10


Câu 3. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với vận động thành lập Đảng?
1. Bối cảnh xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu XX và yêu cầu đặt ra đối với cách mạng
Việt Nam
- Việt Nam bị Thực dân Pháp xâm lược và thống trị, mâu thuẫn dân tộc, xã hội gay gắt.
- Phong trào yêu nước cách mạng nổ ra mạnh mẽ với nhiều lực lượng tham gia và nhiều xu
hướng khác nhau nhýng đều thất bại, cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối cứu nước và giải
phóng dân tộc
2. Vai trị và hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với quá trình truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin, chuẩn bị về tý tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng
*Ở Pháp (1919-1923)
- Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Tháng 71920, Nguyễn Ái Quốc đọc Bản sõ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc
địa của Lênin, từ đây xác định con đường cứu nước theo khuynh vụ sản, bắt đầu quá trình truyền bá
chủ nghĩa Mỏc-Lênin vào trong nước.
-Tháng 7/1920 NAQ đã đọc sõ thảo của lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Luận cương đã chỉ
cho người con đường giành độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào và có tác động mạnh mẽ đến nhận
thức, làm chuyển biến tý tưởng của NAQ.
- Tháng 12/1920 tại đại hội Đảng xã hội Pháp lần thứ XVIII ở Tua Người đã bỏ phiếu tán thành
quốc tế III và tham gia sáng lập ĐCS Pháp Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động của
NAQ . Từ chủ nghĩa yêu nước chân chính Người đã đến với chủ nghĩa Lê nin tìm ra con đường cách mạng
đúng đắn cho nhân dân VN , con đường giải phóng DT với giải phóng người lao động . Mở đầu giải quyết
khủng hoảng về đường lối giải phóng DT ở nước ta.

- Năm 1921 được sự giúp đỡ của những người cộng sản Pháp người sáng lập ra " Hội liên hiệp các
DT thuộc địa " nhằm đoàn kết lực lượng chống đế quốc và truyền bá chủ nghĩa M Lê nin vào các nước
thuộc địa .
- Nam 1922 Hội xuất bản báo " Người cùng khổ " do Người làm chủ bút kiêm chủ soạn nhằm vạch
trần tội ác của CMĐQ nói chung và ĐQ Pháp nói riêng . Ngồi ra Người cịn viết nhiều cho báo " Nhân
đạo " , "Đời sống nhân dân" , hài kịch "Con rồng tre " , nổi tiếng là cuốn "Bản án chế độ thực dân Pháp .
- Những sách báo tiến bộ kể trên đều được các thuỷ thủ VN yêu nước bí mật chuyển về nước , qua
đó giúp những người VN hiểu rõ hõn về bản chất của CNĐQ , hiểu về Lê nin , về CMT10 và hướng về
CN M Lê nin.
* Ở Liên Xô (1923-1924)
11


-Tháng 6 / 1923 nhận lời mời của hôi nông dân quốc tế , Người bí mật rời Pháp sang Liên xô dự
hôi nghị nông dân quốc tế và được bầu vào BCH hội . Sau đó Người ở lại Liên xô một thời gian làm việc
trong quốc tế cộng sản để tiếp tục học tập lí luận CN M. Lê nin, kinh nghiệm CM của ĐCS Liên xô , tại
đây Người đã viết bài cho báo " Sự thật " , cho " Tạp chí thý tín quốc tế ", đặc biệt là Người đã dự đại hội 5
của quốc tế cộng sản tháng 7/1924 và được trình bày tham luận về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa
với CM chính quốc
-Thời gian hoạt động ở Mátxcơva cũng là thời gian Nguyễn Ái Quốc tham dự nhiều hội nghị quốc
tế lớn. Người đã tham gia Đại hội I Quốc tế Nông dân (họp từ ngày 12 đến ngày 15/10/1923), Đại hội V
Quốc tế cộng sản (họp từ ngày 17/6 đến ngày 8/7/1924), Đại hội III Quốc tế Công hội đỏ, Đại hội IV Quốc
tế Thanh niên… Tại các diễn đàn của các đại hội đó, Người đã nói lên tiếng nói của nhân dân thuộc địa
bảo vệ những luận điểm đúng đắn của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, và tuyên truyền những tý
tưởng cách mạng của mình trên lập trường Mácxít. Những lời phát biểu của Người đã để lại những ấn
tượng đẹp đẽ trong lòng các đại biểu, đặc biệt là những đại biểu từ các nước thuộc địa và phụ thuộc Á, Phi,
Mỹ Latinh. Qua đó, đặt nền móng cho sự liên minh, tình đồn kết vơ sản quốc tế giữa nhân dân Việt Nam
và những người lao động thế giới.
* Ở Trung Quốc (1925-1927)
- Những hoạt động của NAQ tại Pháp và Liên xô về Quảng châu TQ . Tại Quảng châu Người đã

gặp gỡ với nhiều người yêu nước VN trong đó có tổ chức " Tâm tâm xã " .
- T6/1925 trên cơ sở " Tâm tâm xã " cùng với Lê hông Phong , Hồ tùng Mậu , người đã sáng lập ra
" VN thanh niên CM đồng chí hội " với mục đích làm cách mệnh DT rồi sau làm cách mệnh thế giới .
- Sau khi thành lập Hội đã tích cực hoạt động thơng qua mở lớp huấn luyện , đào tạo cán bộ đưa về
nước để tuyên truyền CM. Lấy tờ báo " THanh niên " làm cơ quan ngôn luận hạt nhân hoạt động là cộng
sản Đoàn.
Từ 1925-1927 Hội đã đào tạo được 75 hội viiên trực tiếp giảng dạy các khoá huấn luyện là NAQ .
Hội còn xuấtbản sách báo , tuyên truyền lí luận chủ nghĩa M Lê nin .
- Năm 1927, tác phẩm "Đường kách mệnh" chuẩn bị về mặt lý luận cho sự ra đời của Đảng.
- Từ 1928 hội có chủ trương vơ sản hố , thực hiện 3 cùng (Cùng ãn, cùng ở, cùng làm ) đưa người của
CM vào hoạt động trực tiếp trong các đồn điền, xínghiệp, nhà máy, hầm mỏ … Nhờ đó mà chủ nghĩa M Lê nin
có điều kiện truyền bá sâu rộng vào quần chúng nhân dân và làm cho phong trào CN có sựchuyển biến về chất đã
dần đến sự lột xác của phong trào CN đó là sự xuất hiện của 3 tổ chức CS.
* Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong tổ chức Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt
Nam thành Đảng CSVN tại Hương Cảng (TQ)
12


- Sự xuất hiện của 3 tổ chức cộng sản vào nữa sau 1929 ở Việt Nam lúc bấy giờ là một xu thế
tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhýng vì cả 3 tổ chức đều hoạt động riêng lẻ, cơng kích lẫn nhau,
tranh giành địa bàn lẫn nhau nên đã gây trở ngại lớn cho phong trào cách mạng. Vì vậy, yêu cầu bức
thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải có một Đảng cộng sản thống nhất trong cả nước để lãnh
đạo cách mạng.
Đúng vào thời điểm khó khăn phức tạp đó, lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc đã xuất hiện nhý một vị
cứu tinh của cách mạng và phong trào cộng sản Việt Nam.
Với tý cách là phái viên của Quốc tế cộng sản. Nguyễn Quốc có quyền quyết định mọi vấn
đề của phong trào cách mạng Đông Dương. Người quyết tâm thống nhất các lực lượng cộng sản ở Việt
Nam để thành lập một Đảng cộng sản duy nhất. Được sự ủy nhiệm của Quốc tế cộng sản Nguyễn Aí
Quốc đã triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng cộng sản duy nhất ở Việt
Nam diễn ra từ ngày 03 – 07/02/1930 tại Hương Cảng (Trung Quốc)

Hội nghị gồm có 5 đại biểu, hai đại biểu của Đơng Dương Cộng sản đảng (Trịnh Đình Cửu,
Nguyễn Đức Cảnh), hai đại biểu của An Nam Cộng sản đảng (Châu Vãn Liêm, Nguyễn Thiệu) và
Nguyễn Aí Quốc đại diện cho Quốc tế cộng sản chủ trì cuộc họp.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, với uy tín của Người và yêu cầu của cách mạng Việt Nam,
các đại biểu tham gia hội nghị đã nhất trí tán thành việc hợp nhất Đông Dương Cộng sản đảng và An
Nam Cộng sản đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời thông qua Chính cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ tóm tắt của Đảng do Nguyễn Aí Quốc soạn thảo.
Sau hội nghị hợp nhất đảng, ngày 24/02/1930 Đơng Dương Cộng sản Liên đồn xin gia nhập
vào Đảng Cộng sản Việt Nam và đã được Ban chấp hành Trung Ương lâm thời đồng ý. Nhý vậy trên
thực tế đến ngày 24/02/1930 thì ba tổ chức cộng sản ở nước ta đã được thống nhất thành Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Bản Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam
“là đội tiên phong của vô sản giai cấp”. Đảng chủ trương tiến hành “tý sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin,
tý tưởng cách mạng tiên tiến của thời đại với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam…Sự ra đời của Đảng ngày 3/2/1930 đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng đường lối cứu nước ở
Việt Nam trong mấy chục năm qua. Đây là khâu chuẩn bị quan trọng đầu tiên cho một thời kỳ đấu
tranh mới trong lịch sử dân tộc.
Nhý vậy Nguyễn Ái Quốc là người đã đứng ra triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản
thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, nhýng cũng chính Nguyễn Aí Quốc là
13


người đã soạn thảo ra Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt và Điều lệ vắn tắt
của Đảng.
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do lãnh tụ Nguyễn Quốc khởi thảo và thơng qua tại
Hội nghị đã vạch ra phương hướng phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải
phóng dân tộc tiến lên cách mạng XHCN. Đường lối đó là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tý tưởng của chủ nghĩa cộng sản và thực tiễn

cách mạng Việt Nam. Những vãn kiện đó được xem là cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đặt nền móng vững chắc cho con đường cách mạng của dân tộc dýới sự lãnh đạo của Đảng.
Nhý vậy, có thể nói rằng cơng lao của Nguyễn Quốc đối với cách mạng Việt Nam là rất lớn,
nhất là giai đoạn trước năm 1930. Nguyễn Aí Quốc là người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn
cho dân tộc – con đường cách mạng vơ sản; tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào nước ta
nhằm chuẩn bị mọi mặt về tý tưởng chính trị cho việc thành lập chính đảng vơ sản ở Việt Nam, đặc
biệt chính Người đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam để thành lập nên Đảng
Cộng sản Việt Nam đồng thời xác định đúng đắn đường lối cách mạng, thể hiện trong Chính cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng do Người khởi thảo. Đó
dược xem là cương lĩnh cách mạng đúng đắn của Đảng có tác dụng chỉ đạo xuyên suốt đường lối cách
mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả sự kết hợp giữa 3 nhân tố: phong trào công nhân,
chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào yêu nước, gắn với vai trò, hoạt động của Nguyễn Ái Quốc.

14


Câu 4. Vai trò của Đảng trong đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)?
1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam
- Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược, trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến, Nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời tạo bước ngoặt cho cách mạng Việt Nam
2. Vai trò của Đảng trong xây dựng đường lối và chỉ đạo thành cơng mục tiêu đấu tranh
giành chính quyền và ý nghĩa lịch sử cách mạng Tháng Tám
- Bước đầu tập dýợt lực lượng cách mạng qua cao trào cách mạng 1930-1931
+Đã khẳng định trên thực tiễn vai trò và khả nãng lãnh đạo CM của giai cấp công
nhân Việt Nam thơng qua Đảng lãnh đạo.
+Đã khẳng định vai trị và sức mạnh to lớn của q/chúng nhân dân, công nông và hình thành
khối liên minh cơng nơng trong thực tế đấu tranh
+Qua các cao trào đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng và nhân dân ta được tôi luyện, trưởng

thành trong cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ thù. Rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý về xây
dựng lực lượng cách mạng, và kết hợp hình thức đấu tranh, quy luật giành giữ chính quyền.
+Qua thực tiễn đấu tranh nhân dân ta càng thấy được bộ mặt thâm độc, tàm bạo của kẻ thù đế
quốc, phong kiến. Đồng thời cũng xây dựng và củng cố được niềm tin vào thực lực của chính mình, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và tuõng lai, tiền đồ của cách mạng, để tiếp tục bền gan vững bước
tiến .
- Cao trào cách mạng 30-31 là cuộc tổng diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho thắng lợi của CMT8 ở
những bài học kinh nghiệm sau:
+ Muốn giành thắng lợi cho cách mạng phải có ĐCS được vũ trang bằng lý luận M-L lãnh đạo
+ Xây dựng đội quân chính trị của quần chúng mà nền tảng là khối liên minh công nông do
giai cấp công nhân lãnh đạo.
+ Phải sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để giành chính quyền và phải có đầy đủ
thời cơ.
- Tiếp tục chuẩn bị lực lượng qua cao trào cách mạng 1936-1939
+ Cao trào dân chủ 1936-1939 nói lên sức sống mãnh liệt của Đảng và nhân dân ta, sau thời kỳ
thoái trào, sau đợt khủng bố tào bạo của kẻ thù đã nhanh chóng khơi phục được lực lượng và phát
triển phong trào lên một quy mô mới.
+ Cao trào dân chủ 1936-1939, không phải là một cuộc vận động cải cách dân chủ thông
thường. Nội dung thực chất của của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, vì nó vì nó chống cả
15


hai kẻ thù là đế quốc và phong kiến(nhýng tập trung chống kẻ thù trực tiếp nhất là bọn phát xít và bọn
phản động thuộc địa). Đó là nghệ thuật đánh lui từng bứõc, đánh đổ từng bộ phận kẻ thù, giành thắng
lợi từng bước thích hợp cho cách mạng.
+ Cao trào dân chủ 1936-1939 đã đưa lại cho nhân dân ta những thắng lợi nhất định, buộc giai
cấp thống trị phải thực hiện ít nhiều tự do, dân chủ và cải thiện đời sống cho nhân dân. Làm cho nhân
dân càng tin tưởng và đoàn kết dýới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng.
+ Phong trào CM 1936-1939 một lần nữa, đã làm cho cán bộ và nhân dân ta được tơi luyện
vững vàng, có thêm nhiều kinh nghiệm, bài học quý, nhất là kinh nghiệm kết hợp các nhiệm vụ trước

mắt và nhiệm vụ lâu dài, nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế; các bài học về sử dụng hình thức , các
phương pháp để lơi cuốn đông đảo quần chúng tham gia hoạt động đấu tranh; các bài học về liên minh
tầng lớp, các giai cấp, các tổ chức chính trị.
- Chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng qua các Hội nghị Trung ương 6, 7, 8.
* Hội nghị BCH Đảng Cộng sản Đông dương tháng 11/1939 ( Hội Nghị TW lần thứ 6).
Nội dung:
+ Nhiệm vụ trước mắt: đánh đổ đế quốc và tay sai, giành độc lập dân tộc.
+ Chủ trương: Tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và thành lập chính quyền Xô
viết công nông binh, đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của thực dân đế quốc, địa chủ phản động và
lập Chính phủ dân chủ cộng hịa.
+ Phương pháp: chuyển sang hoạt động bí mật
+ Thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân Phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ Đông
Dương.
>>>> Đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng- đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu
* Hội nghị TW Đảng 11/1940 ( Hội Nghị TW lần thứ 7 )
-Hội nghị cho rằng, chính sách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa tý bản trong điều kiện lao vào chiến
tranh, càng làm cho mâu thuẫn giai cấp càng sâu sắc, xô đẩy các tầng lớp nhân dân đi theo giai cấp vô sản.
-Hội nghị dự đoán: “ Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh
lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: lĩnh đạo (tức lãnh đạo - TG) cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ
trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập! ”.
-Hội nghị chủ trương: đi đôi với việc mở rộng Mặt trận phản đế, phải lựa chọn những người hang
há i nhất trong các đoàn thể của Mặt trận, tổ chức các đội tự vệ, trực tiếp vũ trang cho dân chúng, tổ chức
nhân dân cách mạng quân, tiến lên vũ trang bạo động.

16


-Hội nghị vạch rõ : kẻ thù chính của nhân dân Đơng Dương lúc này là phátxít Pháp -Nhật. Mặt trận
dân tộc thống nhất phản đế lúc này thực chất là Mặt trận dân tộc thống nhất chống phátxít Pháp - Nhật ở
Đơng Dương.

-Hội nghị đã phân tích, đánh giá : khởi nghĩa Bắc Sõn và quyết định duy trì đội du kích đội du kích
Bắc Sõn làm cơ sở cho xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, vừa chiến đấu chống địch bảo vệ nhân
dân, vừa phát triển lực lượng cách mạng, tiến tới thành lập khu cãn cứ, lấy vùng Bắc Sõn - Võ Nhai làm
trung tâm.
-Về việc xem xét đề nghị khởi nghĩa của Xứ uỷ Nam Kỳ, Hội nghị nhận định điều kiện khởi nghĩa
chưa chín muồi, nên khơng cho phép phát động khởi nghĩa. Đây là một chủ trương sáng suốt của Hội nghị
Trung ương tháng 11-1940, thể hiện việc nắm vững lý luận về khởi nghĩa vũ trang cách mạng.
*Hội nghị TW Đảng tháng 3/1941 ( Hội nghị TW lần thứ 8 )
-Hội nghị chỉ rõ: sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật, sẽ thành lập Chính phủ nhân dân của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hội nghị quyết định thay tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc,
thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc
phản đế Đông Dương và giúp đỡ việc lập mặt trận ở các nước Lào, Campuchia.
-Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh: công tác xây dựng Đảng nhằm làm cho Đảng có đủ nãng lực lãnh
đạo cuộc cách mạng Đơng Dương đi đến toàn thắng, chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, chú trọng cán bộ
lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự, tãng thành phần vô sản trong Đảng.
-Hội nghị Trung ương Đảng tháng 5/1941 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn chỉnh việc
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số 1 của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra
nhiều chủ trương sáng tạo thực hiện mục tiêu ấy.độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo thực
hiện mục tiêu ấy.
-Hội nghị có tác dụng quyết định trong cuộc vận động tồn Đảng tồn dân tích cực chuẩn bị tiến
tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
- Chuẩn bị lực lượng về chính trị, lực lượng vũ trang, cãn cứ địa cách mạng tiến tới Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền 1939-1945.
+ Xây dựng lực lượng chính trị:
-Ngày 19-5-1941 Mặt trận VM được thành lập. Cao bằng là nõi thí điểm xây dựng các” hội cứu
quốc” chỉ trong thời gian ngắn mặt trận đã có uy tín và ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân.
- Năm 1941-1942 9 châu ở Cao bằng đều có hội cứu quốc (có 3 châu hồn toàn).Tháng 11 - 1943
uỷ ban Việt minh Cao – Bắc – Lạng thành lập ra 19 ban xung phong “Nam tiến” để phát triển lực lượng
cách mạng xuống các tỉnh miền xuôi
17



- Ở các nõi khác Đảng tranh thủ tập hợp nhân dân vào các mặt trận cứu quốc, năm 1943 Nam” đưa
ra “Bản đề cương vãn hoá Việt Nam” và vận động thành lập “hội vãn hoá cứu quốc Việt vào cuối năm
1944, Đảng dân chủ Việt Nam 6/ 1944.
+ Xây dựng lực lượng vũ trang
- Cuối 1940, Đảng chủ trương xây dựng đội du kích Bắc Sõn thành những đội du kích hoạt động ở
Bắc Sõn – Vũ Nhai
- Đến năm 1941 thống nhất các đội du kích thành “Trung đội cứu quốc quân 1”, 9/ 1941 xây dựng
“Trung đội cứu quốc quân 2” và mở rộng địa bàn hoạt động ở Lạng Sõn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.
- Cuối 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định thành lập “Đội tự vệ vũ trang” để chuẩn bị xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân (đã tổ chức lớp huấn luyện về chính trị – quân sự).
+ Xây dựng cãn cứ cách mạng
- Bắc Sõn – Vũ Nhai và Cao Bằng là hai cãn cứ đầu tiên của cách mạng. 2/ 1944, cãn cứ cách
mạng được mở rộng ở những tỉnh Hà Giang, Bắc Kạn, Lạng Sõn.
- 7/ 5/ 1944, tổng bộ Việt minh ra chỉ thị chuẩn bị khởi nghĩa và kêu gọi nhân dân sắm sửa vũ khí
đuổi kẻ thù chung, khơng khí chuẩn bị khởi nghĩa sơi sục.
- 22/ 12/ 1944, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được
thành lập và hai ngày sau đã hạ được đồn Phay – Khắt và Nà Ngần làm địch hoang mang lo sợ.
- Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã đập tan xiềng xích nơ lệ của thực dân Pháp trong gần
một thế kỷ, lật nhào chế độ quân chủ hàng mấy nghìn năm và ách thống trị của phát xít Nhật, lập nên
nước Việt Nam dân chủ cơng hịa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông – Nam châu Á. Nhân
dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân của nước độc lập tự do, đứng lên làm chủ vận
mệnh của mình.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của lịch sử dân tộc
Việt Nam, đưa dân tộc nước ta bước vào một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã
hội.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta và nhân dân ta đã góp phần làm phong phú
thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; cung cấp thêm nhiều kinh nghiệm quý cho phong

trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giành quyền dân chủ.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã hỗ trợ, thúc đẩy phong trào đấu tranh giành độc lập
các dân tộc trên bán đảo Đông Dương và nhiều nước khác trên thế giới.

18


Câu 5: Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử cuộc Kháng chiến chống Mỹ(1954-1975)?
1. Nguyên nhân thắng lợi
- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng Sản Việt Nam với đường lối chính trị, quân sự độc lập,
tự chủ, sáng tạo.
Đảng ta nhận rõ sứ mạng, trọng trách lịch sử của mình trước giai cấp, trước dân tộc và phong
trào cách mạng thế giới, đã ra sức xây dựng mình vững mạnh cả về chính trị, tý tưởng và tổ chức, theo
đúng nguyên lý xây dựng đảng mácxít-lêninnít. Do vậy, đã đáp ứng ngày càng đầy đủ những yêu cầu
rất khắt khe về sức mạnh tiền phong chiến đấu của một đảng giữ vai trò quyết định thắng lợi của cuộc
kháng chiến vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc ta. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nhhĩa Mác-Lênin,
Tý tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã kịp thời đưa ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng
tạo, đồng thời kiên quyết chỉ đạo thực hiện bằng được mục tiêu, con đường, nhiệm vụ cách mạng đặt
ra.
Đảng ta đã đánh giá đúng chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, hiểu rõ những thuận lợi cơ bản cùng
những khó khăn của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến vĩ đại để định rõ bước đi, đánh bại kẻ thù rất
mạnh và vô cùng xảo quyệt. Trong cuộc đọ sức với đế quốc Mỹ, Đảng ta là Bộ tham mýu của giai cấp,
của dân tộc, lãnh đạo toàn dân và toàn quân tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh trên mọi trận
tuyến.
Đảng ta coi trọng nguyên tắc “Tập trung dân chủ” và vận dụng đúng đắn, sáng tạo ngun tắc đó
trong điều kiện chiến tranh. Trong q trình cuộc kháng chiến đầy biến động, toàn Đảng từ Trung
ương đến chi bộ, dù ở miền Nam hay miền Bắc, là một khối thống nhất vững chắc, toàn Đảng một ý
chí, một quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. BCHTW Đảng, Bộ Chính trị đã đưa ra những quyết định
chính xác, kịp thời, đúng thời cơ, tạo nên những chuyển biến cãn bản, đưa cuộc kháng chiến giành
thắng lợi từng bước, tiến tới thắng lợi hoàn toàn.

- Sự chiến đấu gian khổ của nhân dân và quân đội cả nước.
Nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân ta đã phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc,
đoàn kết một lòng đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, chiến đấu dũng cảm ngoan cường, bền bỉ, lao động
quên mình vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và vì quyền sống của con người
Đó là thắng lợi của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh, ngoan cường, bền bỉ và anh dũng;
thắng lợi của bản lĩnh và trí tuệ của nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân ta trong cả nước, của
hàng chục triệu đồng bào yêu nước trên tuyến đầu Tổ quốc đã nêu cao tấm gương kiên cường, bất
khuất. Người trước ngã, người sau tiến lên đạp bằng mọi chơng gai thử thách, quyết tìm Mỹ mà đánh,
tìm nguỵ mà diệt.
19


Các lực lượng vũ trang nhân dân ta đã phát huy truyền thống quyết chiến, quyết thắng trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã không ngại gian khổ, không sợ hy sinh, mýu trí sáng tạo,
dũng cảm chiến đấu, góp phần cùng tồn dân đánh thắng hồn tồn giặc Mỹ xâm lược.
- Miền Bắc xã hội chủ nghĩa vừa chiến đấu, vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của
hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn.
Đồng bào, chiến sĩ miền Bắc luôn hướng về miền Nam ruột thịt, động viên con em lên đường
“Xẻ dọc Trường Sõn đi cứu nước”, lao động quên mình, tạo ra cơ sở vật chất xây dựng CNXH, thực
sự là hậu phương lớn chi viện toàn diện, liên tục cho cuộc kháng chiến ở miền Nam. Đồng thời trực
tiếp đánh thắng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của địch, bảo vệ vững chắc miền
Bắc XHCN.
- Tình đồn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia và sự ủng hộ, giúp
đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em; sự ủng hộ nhiệt tình của chính phủ và nhân dân tiến
bộ trên toàn thế giới kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ.
Phát huy truyền thống láng giềng anh em gắn bó với nhau từ xa xưa, Đảng và nhân dân ta đã chủ
động đoàn kết, liên minh chiến đấu với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia. Sự đồn kết liên minh đó
được thể hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, lợi ích của mỗi nước, cùng nhau đồn kết
chống kẻ thù chung, bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia cho cả ba dân tộc; thể hiện sự hiệp đồng chiến
đấu của quân đội ta với quân đội Lào, Campuchia, cho nên đã tạo ra thế chiến lược tiến công chung

cho cả 3 nước, đánh bại từng kế hoạch, từng biện pháp chiến lược lớn của địch trên toàn Đơng Dương,
giải phóng ba nước trong cùng một thời gian tương đối gần nhau (Campuchia: 17/4/1975; Việt Nam:
30/4/1975; Lào: 2/12/1975), mở đường cho từng nước bước vào giai đoạn lịch sử mới.
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta ra sức tãng cường đoàn kết quốc tế,
coi đó là một bộ phận hợp thành của đường lối chống Mỹ, cứu nước và đặt hoạt động đối ngoại, đấu
tranh ngoại giao thành một mặt trận có tầm quan trọng chiến lược, góp phần tạo nên sự výợt trội về thế
và lực của nhân dân ta; tạo nên một mặt trận rộng lớn của nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam và
ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược, trong đó có cả nhân dân Mỹ. Trong đó, các nước XHCN và
phong trào cộng sản quốc tế là nòng cốt, đặc biệt sự giúp đỡ to lớn có hiệu quả của Liên Xơ, Trung
Quốc, tạo ra một tập hợp lực lượng mạnh mẽ bao vây cô lập và tiến cơng đế quốc Mỹ từ mọi phía.
2. Ý nghĩa lịch sử
Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội
lần thứ IV đã đánh giá: “Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào
sử sách dân tộc ta một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của
20



×