Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

Câu hỏi và trả lời môn lịch sử đảng 28 câu – có liên hệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.67 KB, 78 trang )

Câu hỏi và trả lời môn lịch sử đảng 28 câu – có liên hệ
Câu hỏi và trả lời mơn lịch sử đảng 28 câu – có liên hệ.............................................................................1
Câu 1: Phân tích vai trị của NAQ đối với sự thành lập Đảng. Nêu giải pháp để phát huy vai trò của
người đứng đầu cấp uỷ hiện nay..................................................................................................................1
Câu 2: Phân tích nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên? Giá trị lý luận và thực tiễn đối với
tiến trình cách mạng Việt Nam?...............................................................................................................4
Câu 3: Phân tích nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng
quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam”. Nêu suy nghĩ của bản thân về vai trị của Đảng trong
cơng cuộc đổi mới hiện nay......................................................................................................................... 6
Câu 4: Phân tích nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của CMT8 năm 1945........9
Câu 5: Phân tích sự chủ động, sáng tạo của Đảng trong quá trình bổ sung, phát triển đường lối
cách mạng đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc (giai đoạn 1930-1945)..............................................11
Câu 6. Phân tích nội dung đường lối của Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp? Làm rõ cơ
sở xây dựng đường lối chính trị đúng đắn trong cách mạng Việt Nam của Đảng?............................13
Câu 11. Phân tích ý nghĩa thắng lợi của cuộc cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay..............23
Câu 12. Phân tích những thành tựu và hạn chế của Đảng trong quá trình lãnh đạo xây dựng XHCN ở
Miền Bắc. Liên hệ với việc hoạch định xây dựng đường lối xây dựng CNXH trong bối cảnh hiện nay.....28
Câu 13: Phân tích q trình tìm tịi khảo nghiệm đổi mới từng phần (1979 - 1986).................................30
Câu 14: Phân tích thành tựu, hạn chế của Đảng trong q trình lãnh đạo cách mạng XHCN từ 19751986. Vận dụng liên hệ hoạch định đường lối xây dựng CNXH trong giai đoạn hiện nay?......................32
Câu 16: Phân tích những điểm mới về đặc trưng xây dựng CNXH của Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung và phát triển năm 2011) và nêu giải pháp để hiện thực hóa
những đặc trưng trên tại cơ quan, đơn vị đồng chí?..................................................................................37
Câu 17. Phân tích những thành tựu và hạn chế về kinh tế xã hội sau 30 năm tiến hành cơng cuộc đổi mới.
................................................................................................................................................................... 40
Câu 18. Phân tích quá trình Đảng lãnh đạo kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn
1954-1975? Trong bối cảnh hiện nay, Đảng tiếp tục phải làm gì để kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội?...................................................................................................................................... 42
Câu 20. Phân tích nội dung của mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới. Làm
rõ sự cần thiết phải kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong bối cảnh hiện nay.........................45
Câu 21: Phân tích chủ trương của Đảng về khối Đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn 1930-1945. Trong
bối cảnh hiện nay, Đảng phải làm gì để phát huy sức mạnh khối Đại đồn kết dân tộc?...........................50


Câu 22: Phân tích thành tựu chủ yếu trong quá trình Đảng lãnh đạo phát huy khối đại đoàn kết dân tộc
1930-1945. Từ thực tiễn tại địa phương nơi công tác, đề ra giải pháp xây dựng nâng cao hiệu quả khối đại
đoàn kết toàn dân tộc................................................................................................................................. 52
Câu 23. Phân tích chủ trương của Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc giai đoạn 1945-1975.
Làm gì để phát huy sức mạnh ĐĐK tồn dân tộc trong bối cảnh hiện nay................................................56
Câu 24: Phân tích q trình Đảng lãnh đạo kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại giai đoạn 1954
– 1975. Làm rõ sự cần thiết phải kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong bối cảnh hiện nay.
................................................................................................................................................................... 58
Câu 25: Phân tích q trình Đảng lãnh đạo kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong thời kỳ
đổi mới (1986-nay). Trong bối cảnh hiện nay, Đảng phải làm gì để tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức
nhằm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.............................................................................................64
Câu 26. Phân tích phương pháp dự báo và dự đoán trong chớp thời cơ trong cách mạng dân tộc dân chủ.
Làm rõ tầm quan trọng của phương pháp trên trong bối cảnh hiện nay...................................................68
Câu 27. Từ thực tiễn lịch sử VN trong thời kỳ kháng chiến chống TD Pháp, phân tích việc hoạch định
đường lối chính trị đúng đắn là một trong những điều kiện cơ bản để đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng.
Làm rõ tầm quan trọng của việc hoạch định đường lối của Đảng trong giai đoạn hiện nay.......................70
Câu 28. Phân tích việc hoạch định đường lối đúng và bản lĩnh chính trị vững vàng là một trong những
điều kiện cơ bản đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, cần phải có
những điều kiện cơ bản nào nhằm bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam..............................74

1


Câu 1: Phân tích vai trị của NAQ đối với sự thành lập Đảng. Nêu giải pháp để phát huy vai trò của
người đứng đầu cấp uỷ hiện nay.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đó là kết quả của sự chuẩn bị công phu và khoa học của lãnh tụ
NAQ trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.
1. Phân tích vai trị:
Xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1-9-1858) đến những thập niên
đầu thế kỷ XX, phong trào đấu tranh của các sĩ phu yêu nước đã liên tiếp nổi dậy chống ách thống trị tàn

bạo của chủ nghĩa thực dân, nhưng tất cả đều thất bại vì thiếu một đường lối đúng đắn, thiếu một phương
pháp đấu tranh thích hợp và nhất là chưa có một tổ chức lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc.
Ngày 5-6-1911, Người đã ra đi tìm con đường cứu nước.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc. Người
đã tham gia nhiều hoạt động ủng hộ, bảo vệ cách mạng Nga; tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Tháng 7- 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Luận cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang
trăn trở. Từ đây, Người đã tìm ra con đường cứu nước, cứu dân đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản'' 1. Đó là con đường giải phóng dân
tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy
ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới.
Để biến mục tiêu, lý tưởng cách mạng thành hiện thực vấn đề được Người quan tâm hàng đầu là sớm lập
ra Đảng Cộng sản, nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì theo Người, cách
mạng: “Trước hết phải có đảng cách mệnh”
Sau khi tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, Người vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng
Cộng sản Pháp, nghiên cứu học tập, bổ sung và hồn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị những điều
kiện cần thiết để thành lập một Đảng cách mạng chân chính ở Việt Nam.
Về tư tưởng: Người truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam qua các báo Người cùng khổ, Nhân
đạo, Đời sống công nhân và sau này là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) nhằm làm chuyển
biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin từng
bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến
lập trường của giai cấp công nhân. 
Nội dung truyền bá là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hóa cho phù hợp
với trình độ của các giai tầng trong xã hội.
Người đã sử dụng những phương pháp thích hợp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam: từ chỗ
thức tỉnh đến định hướng hành động, rồi đào tạo đội ngũ những người tuyên truyền thông qua một tổ chức
vừa tầm thích hợp. Những phương pháp tuyên truyền từ thấp lên cao, phù hợp với điều kiện một nước
thuộc địa nửa phong kiến. 

Về chính trị: Người phác thảo những vấn đề cơ bản của đường lối cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam, thể hiện tập trung trong những bài giảng của Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Năm 1927, được in thành sách lấy tên là “Đường
Cách mệnh”. Những vấn đề then chốt trong tác phẩm có tác dụng lớn khơng chỉ đối với Việt Nam, mà
cịn đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa Phương Đông. Những vấn
đề đó là: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chủ yếu là cơng nơng, vì vậy phải tổ chức quần chúng
lại; cách mạng muốn thành cơng phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải có đường lối và phương pháp
cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng vô sản thế giới…
Người nêu lên những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam như tính chất giải phóng dân tộc của cách
mạng, những động lực chủ yếu của nó - công nhân và nông dân là “gốc cách mệnh”, “học trị, nhà bn,
điền chủ nhỏ” là bầu bạn cách mệnh của cơng nơng. Người cịn nêu quan điểm cực kỳ quan trọng:  Đảng
Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. 
Người xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Luận điểm trên
là cụ thể hóa và phát triển quan điểm của Người đã nêu trước đây về tính chủ động và khả năng thắng lợi
trước của cách mạng thuộc địa đối với cách mạng chính quốc. Những nội dung đó đem đến cho quần
chúng niềm tin, quyết tâm chủ động đứng lên làm cách mạng cứu nước, cứu nhà. 
Tác phẩm Đường cách mệnh có giá trị rất lớn trên phương diện lý luận và thực tiễn. Nó là ngọn cờ dẫn
dắt cách mạng Việt Nam trong thời kỳ vận động thành lập Đảng, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối
2


của cách mạng Việt Nam, vạch ra phương hướng cho cách mạng nước ta đi vào quỹ đạo của cách mạng
vơ sản thế giới, góp phần chuẩn bị về chính trị, tư tưởng cho việc thành lập Đảng; là thành công nổi bật
của Người trong chuẩn bị về chính trị và tư tưởng. 
Về tổ chức: cùng với việc truyền bá lý luận chính trị để chuẩn bị cho sự ra đời của một chính Đảng, Người đã
dày cơng chuẩn bị về mặt tổ chức đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành
ở Quảng Châu (Trung Quốc) tiến tới thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6-1925) để vừa chuẩn bị
cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là một tổ chức tiền thân có tính chất q độ, vừa tầm, thích
hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam bấy giờ. Nó giúp cho những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ
các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành

công của Người trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời. 
Vì vậy, từ tháng 6/1929 đến tháng 1/1930 đã có 3 tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập, gồm: Đông
Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ,
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Do sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ
lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng đặt ra là cần có một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam.
Từ ngày 6-l đến ngày 7-2-1930, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp nhất ba tổ
chức cộng sản đã diễn ra tại Hương Cảng (Trung Quốc). Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất,
lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình
tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội thành lập
Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc
của lịch sử và của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách
mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người
sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
2. Giải pháp phát huy
2.1. Bối cảnh
Nhìn một cách tổng thể, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng,
88 năm qua Đảng ta ln giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học; kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; thường xuyên tự
đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh.
Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi
khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua khó
khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Giữ vững ổn định chính trị; phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường quốc phòng - an ninh; mở rộng quan hệ đối ngoại,
nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong thời gian qua, cơng tác xây dựng Đảng cịn khơng ít hạn chế,

khuyết điểm. Cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, giảng dạy và học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa đáp ứng yêu cầu. Nội dung sinh hoạt đảng ở nhiều nơi cịn
đơn điệu, hình thức, hiệu quả chưa cao. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của khơng ít tổ chức đảng cịn thấp,
thậm chí có nơi mất sức chiến đấu. Công tác tổ chức, cán bộ và quản lý cán bộ, đảng viên còn yếu kém. Nhiều
cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu...
Trong khi đó, các thế lực thù địch vẫn đang đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hồ bình", thúc đẩy "tự diễn
biến", "tự chuyển hố", "phi chính trị hố" Qn đội. Tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp, cuộc đấu
tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo cịn lâu dài, khơng ít khó khăn.
2.2 Vận dụng:
Để xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, thực sự "là đạo đức, là văn minh" như tâm nguyện
của Bác Hồ, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh các nhiệm vụ trọng tâm, trong đó nhiệm vụ hàng
đầu là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ,
nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
Nhằm thực hiện nhiệm vụ ấy, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị có vai trị quan trọng
đặc biệt. Để người đứng đầu phát huy hết vai trị tích cực cũng như trách nhiệm của mình trong cơng tác
cán bộ, thiết nghĩ cần phải triển khai những biện pháp sau:
3


Trước hết, người đứng đầu phải nhận thức được vai trò, trách nhiệm bản thân mình trong thực thi nhiệm
vụ được giao, từ đó khơng ngừng học tập, rèn luyện để có những phẩm chất, năng lực và uy tín cần thiết
phục vụ công tác lãnh đạo, quản lý.
Nghiêm túc thực hiện Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của BCH TƯ Đảng về “Quy định trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên
Ban Chấp hành Trung ương”.
Hai là, cần phân công, phân cấp mạnh hơn về công tác cán bộ, tạo điều kiện cho người đứng đầu có vai
trò, quyền hạn và trách nhiệm nhiều hơn nữa trong công tác cán bộ.
Ba là, trong công tác cán bộ, người đứng đầu phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, qua đó giữ
vững sự lãnh đạo thống nhất của cấp uỷ trong cơng tác cán bộ; bảo đảm tính dân chủ, khách quan, chọn

được cán bộ đủ tiêu chuẩn khi bổ nhiệm vào vị trí cơng tác.
Bốn là, cùng tập thể cấp uỷ xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức, cán bộ đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Năm là, quan tâm bồi dưỡng đội ngũ những người đứng đầu cả về trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp
vụ và năng lực quản lý, tổ chức thực tiễn.
Sáu là, cấp uỷ, người đứng đầu cấp trên cần thường xuyên kiểm tra, giám sát cấp uỷ, người đứng đầu cấp
dưới trong thực hiện công tác cán bộ; tạo điều kiện cho họ phát huy vai trò, trách nhiệm của mình cũng
như kịp thời khắc phục những lệch lạc, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Câu 2: Phân tích nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên? Giá trị lý luận và thực tiễn đối với
tiến trình cách mạng Việt Nam?
1. Nội dung của Cương lĩnh chính trị đầu tiên
1.1. Hồn cảnh ra đời:
Đầu năm 1930, trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, Nguyễn Ái Quốc với tư
cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản đã triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản lại thành một
chính đảng duy nhất của Việt Nam tại Hương Cảng (Trung Quốc).
Hội nghị đã thông qua các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là các văn kiện: Chánh
cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng đã phản
ánh về đường hướng phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt
Nam. Vì vậy, có thể khẳng định rằng Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng là
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh ấy có giá trị lý luận và thực tiễn
to lớn đối với tiến trình cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu lên các nội dung cơ bản sau:
1.2 Nội dung
*) Khẳng định mục tiêu và con đường của cách mạng Việt Nam: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”.
*) Lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam là Đảng Cộng sản Việt Nam, “đội tiên phong của đạo quân vô
sản”, “đội tiên phong của vô sản giai cấp”. “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao
khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”.
*)Về lý luận dẫn đường, Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong Điều lệ, khi đặt ra “lệ vào Đảng”, vấn đề
này được diễn đạt là phải “tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng và Quốc tế Cộng sản”.

*)Lực lượng cách mạng gồm toàn bộ những người Việt Nam yêu nước. Cụ thể là:
- Công nhân, Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh
đạo được dân chúng”, “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công
nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”;
- Nông dân, “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo”;
- Trí thức, tiểu tư sản, “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân
Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”, “Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí thức và trung nơng về phía
giai cấp vơ sản”;
- Trung, tiểu địa chủ; tư bản bản xứ, “Đảng tập hợp hoặc lôi kéo phú nông, tư sản và tư sản bậc trung”, “Đối
với...tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”;
*)Về phương pháp cách mạng, Đảng chủ trương dùng phương pháp cách mạng bạo lực, “đánh trúc bọn
đại địa chủ và phong kiến”, đánh đổ ách tư bản, làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập;
*)Về xây dựng xã hội mới, Đảng chủ trương:
- Về phương diện xã hội: (1) Dân chúng được tự do tổ chức; (2) Nam nữ bình quyền,v.v.; (3) Phổ thơng
giáo dục theo cơng nơng hóa.
4


- Về phương diện chính trị: (1) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; (2) Làm cho nước
Nam được hoàn toàn độc lập; (3) Dựng ra Chính phủ cơng nơng binh; (4) Tổ chức ra qn đội công nông.
- Về phương diện kinh tế: (1) Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; (2) Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp,
vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ cơng nơng binh quản lý;
(3) Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo (người cày có ruộng); (4)
Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; (5) Mở mang công nghiệp và nông nghiệp; (6) Thi hành luật ngày làm 8 giờ.
*)Về quan hệ quốc tế, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng nêu rõ:
- “Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên
lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”.
- “Đảng phổ biến khẩu hiệu “Việt Nam tự do” và đồng thời Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và
quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp”.
2. Giá trị lý luận và thực tiễn

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn:
2.1. Giá trị lý luận
*) Cương lĩnh đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam.
- Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng tuy vắn tắt nhưng đã thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự
chủ, sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ
XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá
đúng đắn, sát thực thái độ các giai cấp, tầng lớp của xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó,
Cương lĩnh đã xác định đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam, đồng thời xác định
phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến
lược và sách lược đã đề ra.
*) Lần đầu tiên, cách mạng Việt Nam có một văn kiện chính trị phản ánh đúng quy luật khách quan
của xã hội Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp
bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình
phát triển của cách mạng Việt Nam.
*) Cương lĩnh là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của
một nước thuộc địa - phong kiến.
Đó chính là giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cốt lõi trong cách mạng Việt Nam: kết hợp đúng
đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc; kết hợp truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng của nhân
dân với những kinh nghiệm của cách mạng thế giới; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng; đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng tạo đặc điểm thực tiễn, yêu cầu của cách
mạng Việt Nam với tư tưởng cách mạng tiên tiến của thời đại, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn, sáng tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới.
*) Con đường cách mạng vô sản mà Cương lĩnh đã khẳng định là con đường thắng lợi của cách
mạng Việt Nam từ năm 1930.
Trong bối cảnh những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, trước sự khủng hoảng trầm trọng của
CNXH trên thế giới, ĐCS Việt Nam vẫn tiếp tục kiên định con đường cách mạng mà Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng đã nêu: “Đối với nước ta, khơng cịn con đường nào khác để có độc lập dân tộc thật sự
và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn
đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng”.
Sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã được khẳng định bởi quá trình khảo nghiệm

của lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc
Việt Nam. Từ khi Đảng ra đời đến nay, tinh thần của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng vẫn là ngọn
cờ dẫn dắt nhân dân Việt Nam đi lên trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2. Giá trị thực tiễn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay đã khẳng định sự đúng đắn của Cương lĩnh
chính trị đầu tiên. Đi theo Cương lĩnh ấy, trong suốt 85 năm qua dân tộc Việt Nam đã thay đổi cả vận mệnh của
dân tộc, thay đổi cả thân phận của người dân và từng bước khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Những thắng lợi đó chứng tỏ đường lối quan điểm cơ bản của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; các
Cương lĩnh chính trị của Đảng có giá trị to lớn và có sức sống mãnh liệt; con đường đi lên của cách mạng
nước ta là phù hợp với quy luật khách quan và đáp ứng đúng yêu cầu của thực tiễn Việt Nam.
Khi đánh giá quá trình cách mạng Việt Nam hơn 80 năm thực hiện Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng,  Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ( bổ sung, phát triển
năm 2011) đã nhận định: “Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt
5


qua mn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm
lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của cơng cuộc
đổi mới, tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.”
Thực hiện đường lối chiến lược được hoạch định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Việt
Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con
đường XHCN; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã
hội; đất nước ta ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, từng bước đẩy mạnh CNH, HĐH, có quan
hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Vận dụng những giá trị lý luận và thực tiễn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng trong giai đoạn

hiện nay, chúng ta cần phải nắm vững và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, coi đây
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta; xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc ln
ln là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu cơ với nhau.
Phải huy động được mọi nguồn lực và sức mạnh tổng hợp của tất cả các tầng lớp nhân dân trên cơ sở liên
minh giữa công nhân, nơng dân và trí thức, bởi chính nhân dân là người làm nên lịch sử.
Phải bảo đảm và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng; chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính
trị, tư tưởng và tổ chức trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác- Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở
nguyên tắc tổ chức là tập trung dân chủ và gắn bó chặt chẽ với nhân dân, đây là nhiệm vụ then chốt, có ý
nghĩa sống cịn của Đảng, nhân tố hàng đầu quyết định sự thành công của cách mạng. Phải phòng và chống
nguy cơ sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thối hóa biến chất của cán bộ, đảng viên.
Hiện nay, nhân dân ta đang tiến hành công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở
cửa, hội nhập, xây dựng và bảo vệ đất nước trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc.
Tình hình thế giới và trong nước, bên cạnh mặt thuận lợi, cũng có những khó khăn, thách thức; thậm chí
có những diễn biến phức tạp, khó lường. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là con đường
mới mẻ, chưa có tiền lệ, chúng ta phải vừa đi vừa dị đường, vừa làm vừa rút kinh nghiệm; khơng ít vấn
đề mới nảy sinh cần được nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ. Với tinh thần đó mà Đại hội XI của Đảng
(tháng 7-2011) đã xem xét, chỉnh sửa, bổ sung Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân
trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hy vọng rằng, với những thành tựu và kinh nghiệm đã có, kế thừa và phát triển những di sản tư tưởng lý
luận của Đảng ta trong 80 năm qua, tiếp thu, bổ sung những giá trị và nhận thức mới, chúng ta sẽ từng
bước hồn thiện quan điểm, đường lối chính trị của Đảng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng
trong giai đoạn mới./.
Câu 3: Phân tích nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô
cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam”. Nêu suy nghĩ của bản thân về vai trò của Đảng
trong cơng cuộc đổi mới hiện nay.
Phân tích nhận định
a Đảng ra đời là sự tất yếu lịch sử:
- Đó là kết quả chín muồi của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp trong thời đại lịch sử mới.
- Đó là kết quả của sự chuẩn bị công phu và khoa học của lãnh tụ NAQ trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.

- Đó là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa M-L với phong trào đấu tranh của GCCN và phong
trào yêu nước của nhân dân VN trong đầu thế kỷ XX. Sự ra đời của ĐCSVN vừa thể hiện quy luật phổ
biến của sự hình thành chính đảng CM của GCCN chủ nghĩa M-L kết hợp với phong trào công nhân vừa
thể hiện quy luật đặc thù VN chủ nghĩa ML kết hợp với phong trào CN và p/trào yêu nước VN .
b Đảng CSVN ra đời đánh dấu một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng VN
- Chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đƣờng lối gpdt "tƣởng chừng khơng có lối ra" ở VN. Mở ra 1
thời kỳ mới: thời kỳ CMVN đi theo con đƣờng CMVS, sự nghiệp gpdt gắn liền với giải phóng GCCN và
giải phóng tồn xh, độc lập dt gắn liền với CNXH.
- Kết thúc thời kỳ đấu tranh tự phát để chuyển sang thời kỳ đấu tranh tự giác của GCCN. Chứng tỏ GCCN
VN đã đến độ trƣởng thành đủ sức nắm vai trò lãnh đạo cách mạng thơng qua đội tiên phong cách mạng của mình.
- Mở đầu 1 thời kỳ mới CMVN, đã có 1 nhân tố cơ bản nhất, quyết định nhất, để liên tục
dấy lên các cao trào cách mạng, đƣa CMVN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
6


Phân tích
Đảng ra đời là bước ngoặt đối với cách mạng Việt Nam, tư tưởng đường lối của Đảng là ngọn lửa soi
đường đưa Cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc
ta đã giành chiến thắng vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ và thu được
những thành quả đáng kể trong công cuộc xây dựng nước nhà phát triển bền vững và giàu mạnh. 
l. Tình hình quốc tế và trong nước trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
a. Hoàn cảnh quốc tế:
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa và mâu thuẫn trong thế giới TBCN ngày càng trở nên gay gắt. Mâu thuẫn này tạo ra tính tất yếu của
cách mạng vơ sản thế giới.
Năm 1917, cuộc cách mạng vô sản đầu tiên nổ ra và giành thắng lợi tại Nga đã cổ vũ phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, đặc biệt là nhân dân các nước thuộc địa.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản II được thành lập. Sự ra đời của Quốc tế cộng sản có ý nghĩa thúc
đẩy phong trào đấu tranh của cộng sản và công nhân các nước trên thế giới.
Năm 1920, tại Đại hội của Quốc tế Cộng sản III, trong bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương vấn

đề dân tộ và vấn đề thuộc địa của Lênin, đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộ thuộc
địa, mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức, bóc lột trên lập trường của cách mạng vơ sản.
b. Trong nước: Sự khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp đã làm gay gắt thêm các mâu thuẫn
cơ bản trong lòng xã hội Việt Nam.
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo,
phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.
Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, thi hành chính sách
cai trị chuyên chế, biến một bộ phận của giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc
lực, tạo nên sự cấu kết giữa chủ nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai, đặc trưng của chế độ thuộc địa.
Về kinh tế, chúng thực hiện chính sách độc quyền, đặt ra hàng trăm thứ thuế vơ lý, vơ nhân đạo, kể cả duy
trì bóc lột kiểu phong kiến... đẩy nhân dân ta vào cảnh bần cùng, làm cho nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc
vào kinh tế Pháp, để lại hậu quả nghiêm trọng, kéo dài.
Về văn hóa - xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích văn hố nơ dịch, sùng Pháp,
nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vịng tăm tối, dốt nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng.
Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có những biến đổi
lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển
sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Trong xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn
thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân
với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ nghĩa thực dân
Pháp. Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai
không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân
chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt ra, cần được giải quyết.
2. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời
Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo
nhiều khuynh hướng khác nhau, như khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần
Vương, phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng,
Hồng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo. Các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vơ cùng
anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và đều thất bại.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do những người đứng đầu các cuộc
khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã

hội Việt Nam. Cách mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm
một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và thời đại là nhu
cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.
3. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và sự ra dời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, ngày 5-6-1911,
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) đã ra đi tìm con đường cứu
nước. Người đã qua nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các
cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích cực tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp.
Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Nguyễn Ái
Quốc. Người rất ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục V.I.Lênin và đã tham gia nhiều hoạt động ủng
hộ, bảo vệ cách mạng Nga; tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
7


Tháng 7- 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Luận cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang
trăn trở. Từ đây, Người đã tìm ra con đường cứu nước, cứu dân đúngđắn: “Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản''; xác định những vấn đề cơ bản của
đường lối giải phóng dân tộc. Đó là con đường giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập
dân tộc gắn với chủ nghĩa xãhội, giai cấp vơ sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng
dân tộc từng nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới.
Đối với Nguyễn Ái Quốc, đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ
một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, phong trào cách mạng thuộc địa; nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam qua các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và sau này là tác
phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925).
Sau một thời gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, tháng 1l1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người sáng lập và trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh
niên, sáng lập và viết bài cho báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)... nhằm tuyên
truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước. Người tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục

chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai cấp cơng nhân và nhân dân
Việt Nam đón nhận như''người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn''. Nó lơi cuốn
những người u nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản; làm dấy lên cao trào đấu tranh mạnh
mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp cơng nhân ngày càng trở thành một lực lượng chính trị độc lập, địi
hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy, các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập:
- Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
- Mùa Thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
- Ngày l-l-1930, Đơng Dương Cộng sản Liên đồn được thành lập ở Trung Kỳ.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản tuyên bố thành lập. Điều đó
phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam, đồng thời sự tồn tại của ba tổ
chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết
của cách mạng đặt ra là cần có một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam.
Từ ngày 6-l đến ngày 7-2-1930, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp nhất ba tổ
chức cộng sản đã diễn ra tại Hương Cảng (Trung Quốc). Hội nghị nhất trí thành lập một đảng thống nhất,
lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình
tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội thành lập
Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân
tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc
của lịch sử và của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách
mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ
khủng hoảng về đường lối cứu nước.Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định: cách mạng Việt
Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp
công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người
sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
Đảng CSVN ra đời với ngọn cờ cứu nước theo con đường vô sản đã được nhân dân, lịch sử ủng hộ, đón nhận.
Đảng ra đời đã đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng củng cố truyền thống đồn kết , trí tuệ kỷ
cương cho cả quá trình hoạt động về sau của Đảng. Trước khi Đảng CSVN ra đời đã có nhiều tổ chức
cộng sản nhưng giữa các đảng đó khơng thống nhất với nhau, tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng,
8


chia rẽ nhau. Đó là tình trạng nguy hiểm ảnh hưởng không tốt tới phong trào cách mạng VN. Do vậy sự
thống nhất các tổ chức cộng sản o VN thành một ĐCS duy nhất là một điều kiện cực kỳ quan trọng trong
thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho đồng bào để tiến lên trên con
đường của chủ nghĩa cộng sản.
Gần 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước; tiến hành cơng cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.
II. Suy nghĩ bản thân về vai trị của ĐCS trong tình hình hiện nay
Hiện nay, trong giai đoạn cách mạng mới, thế giới đã có nhiều thay đổi và diễn biến phức tạp, khó lường.
Trong nước, tuy đã có thành tựu và kinh nghiệm của 30 năm đổi mới, tạo ra thế và lực mới cho đất nước,
nhưng "nước ta vẫn phải đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức
tạp. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng
suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí cịn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" có diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện "diễn biến hịa bình", gây bạo loạn
lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta".
Trong bối cảnh, thời cơ và thách thức đan xen như hiện nay, Văn kiện Đại hội Đảng XII xác định việc
Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; Xây dựng văn hóa con người là nền
tảng tinh thần; Tăng cường quốc phòng an ninh.
Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tăng cường bản chất

giai cấp cơng nhân và tính tiền phong để xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, có tầm trí tuệ
cao, có phương thức lãnh đạo khoa học...
Xây dựng Đảng tập trung 4 nội dung: Chính trị, tư tưởng, văn hóa, đạo đức trong đó vai trị cá nhân chủ
yếu trong xây dựng Đảng về đạo đức ngay từ đh 11 đã xác định trong NQ 04 khóa 11 và NQ 04 khóa 12
quy định 08 HNTW 8 khóa 12 trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu
Để làm tốt được các nhiệm vụ trên, cần tập trung vào một số vấn đề trọng tâm sau:
Một là, Đảng ta cần tiếp tục nâng tầm trí tuệ và đổi mới tư duy để lãnh đạo toàn diện đất nước phù hợp với
diễn biến nhanh chóng, mau lẹ của thực tế; phù hợp với đường lối đổi mới của cách mạng Việt Nam. Mỗi
đảng viên phải nhận thức đúng, đầy đủ trách nhiệm của mình khi tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng.
Hai là, nêu cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, nhất là người đứng đầu cấp ủy.
Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội một cách toàn diện trên các
mặt phong cách, nội dung, phương pháp.
Bốn là, mở rộng dân chủ ngoài xã hội; thực hành dân chủ thật sự trong Đảng. Việc thực hành dân chủ
trong nội bộ Đảng rất quan trọng. Trong Đảng có thật sự dân chủ thì mới có điều kiện mở rộng và phát
huy dân chủ của nhân dân.
Năm là, tăng cường giữ gìn kỷ luật, tạo sự đồn kết nhất trí của Đảng là sức mạnh vơ địch của Đảng.
Đảng điều chỉnh hành vi của các tổ chức đảng, đảng viên bằng kỷ luật của mình. Bng lỏng kỷ luật, sớm
hay muộn Đảng sẽ bị suy yếu, tan rã.
Câu 4: Phân tích nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của CMT8 năm 1945
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, đối với dân tộc ta cũng như đối với thời đại.
1. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm
a.     Nguyên nhân thắng lợi:
- ĐCS ĐD là người tổ chức và lãnh đạo CM tháng 8 thắng lợi. Đảng có đường lối CM đúng đắn, dày dặn kinh
nghiệm đấu tranh, bắt rễ sâu trong quần chúng, đoàn kết và thống nhất, quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi
nghĩa giành chính quyền. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cơ bản nhất, quyết đinh thắng lợi của CMT8
- Thắng lợi của CMT8 là kết quả của 15 năm đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dung của nhiều đảng viên
công sản và quần chúng cách mạng đã hy sinh oanh liệt cho đọc lập, tự do của tổ quốc.
- CMT8 nổ ra trong hoàn cảnh khách quan thuận lợi: kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã
bị Liên xơ và lực lượng đồng minh đánh bại, quân đội nhật ở đông dương mất hết tinh thần chiến đấu,

chính phủ Trần Trọng Kim rệu rã. ĐCSĐD đã chớp thời cơ đó phát động nhân dân nổi dậy nên đã giành
thắng lợi nhanh chóng và ít đổ máu.
b.     Ý nghĩa lịch sử:
- CMT8 1945 là một cuộc CM giải phóng dân tộc điển hình do ĐCSĐD lãnh đạo, lần đầu tiên giành
thắng lợi ở một nước thuộc địa. Với thắng lợi của CMT8, nhân dân VN đã đập tan xiền xích nơ lệ của chủ
nghĩa thực dân trong gần một thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế gần một nghìn
năm, lập nên nước VNDCCH, nhà nước do nhân dân lao động làm chủ.
9


- Thắng lợi của CMT8 đánh dấu bước phát triển nhảy vọt trong lịch sử của dân tộc CN, mở ra một kỷ
nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và xây dựng chế độ XH mới.
- Về mặt quốc tế, CMT8 thắng lợi đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuojc địa của chủ
nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã khơng gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ, góp
phần chống hiến lớn lao vào sự nghiệp giải trừ chủ nghĩa thực dân và giải phóng dân tộc trên thế giới.
- Thắng lợi của CMT8 đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước
thuộc địa trên thế giới.
- CMT8 là thắng lợi của tư tưởng độc lập, tư do của HCM và đường lối CM giải phóng dân tộc đúng đắn,
tự chủ, sáng tạo của Đảng. Nó chứng tỏ rằng: trong thời đại chúng ta, cuộc CM dân tộc dân chủ nhân dân
ở một nước thuộc đại do toàn dân nổi dậy dưới sự lãnh đạo của ĐCS, có đường lối CM đúng đắn, phù
hợp với xu thế phát triển của thời đại thì hồn tồn có khả năng thắng lợi.
c.      Một số kinh nghiệm:
CMT8 thắng lợi để lại cho Đảng và nhân dân VN nhiều kinh nghiệm có giá trị, góp phần làm phong phú
thêm kho tàg lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc, đó là:
- Giương cao ngọn cờ đọc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
- Đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất
- Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực
cách mạng một csach thích hợp.
- Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ.
- Xây dựng một đảng Mác-Lênin đủ sức lãnh đạo cách mạng.

2. Vận dụng kinh nghiệm đó vào cơng cuộc đổi mới
Công cuộc đổi mới của nước ta bắt đầu từ năm 1986 đến nay đã giành được những thắng lợi quan trọng:
đất nước thoát khỏi khủng hoảng, trở thành nước có thu nhập trung bình; tiếp tục hội nhập ngày càng sâu
rộng và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại như Nghị quyết ĐHĐB toàn quốc lần thứ XII xác định.
Trong quá trình đổi mới, những bài học kinh nghiệm rút ra từ CMT8/1945 vẫn còn phát huy giá trị:
 *) Bài học về giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta
tiếp tục khẳng định giá trị bài học này. Đảng ta xác định: CNXH chỉ có thể được thực hiện trong điều
kiện độc lập dân tộc (ĐLDT) thực sự được đảm bảo. Do đó, để đi lên CNXH trước hết phải ra sức củng
cố, bảo vệ vững chắc và phát huy cao độ giá trị của ĐLDT. Coi đây là yếu tố tiên quyết, quyết định. Mọi
xu hướng đi ngược lại hoặc ảnh hưởng đến ĐLDT là không thể chấp nhận. Mặt khác, giá trị của ĐLDT
chỉ có thể được phát huy trong điều kiện CNXH được thực hiện. Do đó, gắn liền ĐLDT với CNXH là con
đường tất yếu và xuyên suốt. Mọi mưu toan tách rời hai giá trị này chỉ có thể bắt nguồn từ động cơ chống
phá. Đảng khẳng định tiếp tục giương cao ngọn cờ ĐLDT gắn liền với CNXH là khẳng định lập trường
kiên định, nhất quán của chúng ta. Mọi chiến lược, sách lược được xây dựng trong thời kỳ mới phải xoay
quanh cái trục nhất quán ấy.
Về mối quan hệ lợi ích Tổ quốc, dân tộc và lợi ích giai cấp, bộ phận phải được giải quyết hài hòa, đúng
đắn với nguyên tắc bất biến là “Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết”. Lợi ích các giai cấp, tầng lớp, bộ phận
được đối xử, giải quyết dân chủ, công bằng trong tương quan chung và phục tùng lợi ích dân tộc.
Bản thân là cán bộ, đảng viên hiện nay (tùy vị trí cơng tác để liên hệ thêm) cần: nắm vững đường lối, chủ
trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia tuyên truyền để nhân dân hiểu, cảnh giác và
chống lại các âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch bằng diễn biến hịa bình, bạo loạn lật
đổ; tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ, từ đó các thế lực thù địch lợi dụng can thiệp vào công việc
nội bộ của đất nước, làm mất độc lập dân tộc. Về vấn đề giai cấp, không ngừng nâng cao hiểu biết, cung
cấp thông tin định hướng kịp thời để người lao động, đặc biệt là giai cấp cơng nhân đấu tranh chống lại
chiêu trị dân chủ hình thức, „mị dân“ của các nước TBCN....
*) Bài học về Đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Văn kiện ĐH XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc đóng vai trị nịng cốt trong tập hợp,

vận động nhân dân, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc,
thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng,
Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bản thân là cán bộ, đảng viên hiện nay (tùy vị trí cơng tác để liên hệ thêm) cần: phát huy vai trị tiên
phong, gương mẫu của CBĐV tích cực tham gia và vận động người thân, gia đình, nhân dân tích cực
tham gia các phong trào thi đua yêu nước ở cơ quan, địa phương, đơn vị như: phong trào toàn dân đoàn
10


kết xây dựng đời sống văn hóa (phấn đấu đạt các danh hiệu gia đình VH, dịng họ VH, cơ quan đạt chuẩn
VH ...bền vững); tham gia xây dựng NTM; tự giác, gương mẫu trong việc góp ý xây dựng, chỉnh đốn
Đảng bằng cách tự phê bình và phê bình theo NQTW4-XII, tạo sự thống nhất đoàn kết trong Đảng, cơ
quan, đơn vị; thực hiện Quyết định 217, 218 của BCT về giám sát, phản biện xã hội của MTTQ và các
đồn thể chính trị - xã hội, tạo sự đồn thuận trong xã hội thực hiện thắng lợi nghị quyết ĐH Đảng các cấp
đề ra cũng như các nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị.....
*) Về vấn đề sử dụng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp để
giành và giữ chính quyền
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hơm nay đang địi hỏi chúng ta tiếp tục vận dụng sáng tạo bài học
về sử dụng bạo lực cách mạng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, thực hiện tốt mục tiêu,
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ
vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ
vững ổn định chính trị, trật tự, an tồn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động
chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống
mang tính tồn cầu, khơng để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống
Bản thân là cán bộ, đảng viên hiện nay (tùy vị trí cơng tác để liên hệ thêm) cần: không ngừng học tập
nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ vững vàng, trên cương vị công tác tham mưu đúng, trúng trong
việc sử dụng lực lượng chức năng trong xử lý các tình huống xảy ra tại địa phương như xử lý điểm nóng,
hoạt động gây rối, âm mưu bạo lạo lật đổ...
*) Về nghệ thuật chọn đúng thời cơ.
Bài học này cần tiếp tục được quán triệt, vận dụng trong điều kiện hiện nay khi đất nước ta đang hội nhập sâu

rộng vào các mối quan hệ quốc tế, đất nước đang đứng trước nhiều vận hội phát triển mới đồng thời cũng đối
mặt với nhiều nguy cơ, thách thức khó lường. Nắm vững những nguyên lý lý luận về cách mạng không ngừng
và cách mạng phải biết tự bảo vệ, phát triển tư duy biện chứng, khoa học về mối quan hệ giữa sức mạnh dân
tộc và sức mạnh thời đại, nhận thức sâu sắc những dự báo tình hình thế giới và trong nước những năm sắp tới
mà Đảng ta đã xác định tại Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, phân tích thấu đáo thực tiễn đất nước và những chuyển
biến mới của tình hình khu vực, thế giới để nhận diện đúng xu thế vận động phát triển từ đó chủ động thực
hiện chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới một cách phù hợp.
*) Bài học về xây dựng Đảng vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng
khơng có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận
dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng ngừng làm
giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các
vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra....
Với trọng trách to lớn đó của Đảng, ĐH XII xác định 4 nguy cơ: chệch hướng XHCN, tụt hậu về kinh tế, bệnh
quan liêu và sự thối hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên vẫn còn tồn tại đe dọa sự tồn vong của Đảng, chế độ.
Để xây dựng Đảng vững mạnh, đủ sức cầm quyền và lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới, mỗi cán bộ, đảng viên:
- Phải thực sự kiên quyết, kiên trì thực hiện NQTW4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tích cực
học tập và làm theo Chủ tịch HCM về tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người một cách tự giác, thường
xuyên, thiết thực, hiệu quả nhằm khắc phục 1 trong 4 nguy cơ lớn mà Đảng ta xác định: sự suy thoái về
đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; củng cố sự thống nhất, đoàn kết trong
Đảng và niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng...
- Tích cực tham mưu có chất lượng việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng để lãnh đạo thực
hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị
- Không ngừng tự tu dưỡng, rèn luyện, tự học tập lý luận chính trị, Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị số 23 của BCT nhằm xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định
con đường, mục tiêu mà Đảng, nhân dân, dân tộc đã lựa chọn: đi lên CNXH với dân giàu, nước mạnh dân
chủ, cơng bằng, văn minh...
Có thể nói, hơn bảy thập niên trôi qua, những bài học kinh nghiệm mà Cách mạng Tháng Tám để lại cần
tiếp tục được phổ biến, quán triệt, vận dụng sáng tạo trong thực tiễn, coi đó như những mẫu mực của
chiến lược, sách lược lãnh đạo cách mạng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hơm nay.

Câu 5: Phân tích sự chủ động, sáng tạo của Đảng trong quá trình bổ sung, phát triển đường lối
cách mạng đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc (giai đoạn 1930-1945)
1. Sự chủ động, sáng tạo của Đảng trong quá trình bổ sung, phát triển đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc:
11


Sau khi được thành lập và sau phong trào đấu tranh dân chủ (1936-1939), Đảng ta đã chủ động, sáng tạo
để bổ sung, phát triển đường lối cách mạngvà dành được những thắng lợi nhất định trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc (giai đoạn 1939-1945):
Ở giai đoạn này, bối cảnh tình hình trong nước và ngồi nước có nhiều điểm thay đổi mới so với trước
đây như: Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức; Sau khi Nhật xâm
lược Trung Quốc (1937), chính phủ Pháp phải ký với chính phủ Nhật một Hiệp ước (30/8/1940) cho phép
Nhật đưa 25.000 quân vào Đông Dương. Mặc dù thực dân Pháp cố ý trì hỗn, nhưng Nhật đã tiến công
quân Pháp (22/9/1940) và từng bước đặt Đơng Dương vào khu vực chiếm đóng của Nhật, đã biến nước ta
rơi vào tỉnh cảnh “Một cổ hai tròng”.Nhân dân ta đã nổi dậy đấu tranh với ba cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ
ra như: Khởi nghĩa Bắc Sơn(1940); Nam Kỳ (1940); Cuộc nổi dậy của binh lính Đơ Lương (1941).
Trước tình hình trên, Đảng ta đã nhận định trong thơng cáo cho các đồng chí cấp bộ (9/1939) như sau:
“Hồn cảnh Đơng Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng, hồn tồn vấn đề ấy mau hay chậm
là tùy theo tình hình thế giới và năng lực của các đồng chí”. Sự chủ động, sáng tạo của Đảng trong việc
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được thể hiện rõ nét thông qua kết quả của ba Hội nghị BCH
Trung ương, đó là: Hội nghịTrung ương (11/1939) tại Bà Điểm (Hóc Mơn, Gia Định), Hội nghị Trung
ương (11/1940) tại làng Đình Bảng (Bắc Ninh) và Hội nghị Trung ương (5/1941) tại Pác Bó (Cao Bằng).
Các cuộc hộinghị trên đây đã hoạch định chủ trươngvà nhiệm vụ cách mạng mới với những nội dung
chính như sau: 1) Đặt nhiệm vụchống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàngđầu; 2) Đoàn kết rộng rãi lực
lượngtoàn dân tộc trong Mặt trân dân tộc thống nhất;3) Giải quyết vấn đề dân tộctrong khuôn khổ từng
nước; 4) Đặt công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang làmnhiệm vụ trung tâm của cách mạng Đông Dương;
5) Coi trọng nhiêm vụ xâydựng Đảng.Những chủ trương đúng đắn của Trung ương Đảng thể hiện rõ sự
trưởng thành vượt bậc của Đảng về tư duy cách mạng, về lãnh đạo chính trị, độc lập, tự chủ trong xác
định đường lối, vượt qua những bệnh ấu trĩ, tả khuynh, giáo điều trong những năm trước đó; đặt nền tảng

cho thành cơng của cơng cuộc vận động, chuẩn bị khởi nghĩa và Tổng khởi nghĩa.
Sau khi xác định những chủ trương, nhiệm vụ trong giai đoạn mới, Đảng khẩn trương lãnh đạo chuẩn bị
lực lượng mọi mặt, trước hết là xây dựng các đoàn thể Việt Minh trên toàn quốc.Mặt trận Việt Minh ra
đời (19/5/1941), với tơn chỉ, mục đích:làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập và làmcho nhân
dân được sung sướng, tự do nên phù hợp với ý nguyện và nhanh chóng thu hút nhân dân tham gia, tạo
nên đội qn cách mạng đơng đảo. Tiếp đó, là việc xây dựng, nhân rộng các đoàn thể cứu quốc ra cả
nước,xây dựng lực lượng vũ trang. Đội cứu quốc quân,đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quânđược
thành lập và sau đó trở thànhđội Việt Nam giải phóng quân. Đồng thời,Đảng tạo lập các chiến khu, căn cứ
địacách mạng, tiêu biểu là căn cứ địa Việ Bắc.
Trên cơ sở xây dựng lực lượng cách mạng, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, Đảng phát
động quần chúng đấu tranh chính trị tiến lên kếthợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.Phong trào
đấu tranh của nông dân cùng với phong trào đấu tranh của công nhânvà phong trào của trí thức, tiểu tư
sản, thanh niên,học sinh hướng tới mục tiêu cứu quốc,giải phóng dân tộc, đã tạo nên khơng khí cách
mạng sơi nổi trên cả nước. Đảng cịn đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên mặt trận văn hoá - tư tưởng.Cùng với
lãnh đạo phong trào cứu quốc, Đảng coi trọng củng cố sựthốngnhất trong Đảng, giữ vững sự thống nhất
về tư tưởng và hành động trong hàngngũ Đảng, bảo vệ và đấu tranh chống lại mọi âm mưu đánh phá của
kẻ thù; tăngcường đội ngũ cán bộ, phát triển đảng viên bảo đảm đủ lực lượng lãnh đạo cách mạng đi đến
thắng lợi. Trước thời cơ thay đổi của tình hình thế giới với những thắng lợi của quân đội Liên Xô và
Đồng Minh, quân phiệt Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp mở rộng (tạiTừ
Sơn, Bắc Ninh vào đêm 9-3-1945), phân tích tình hình và quyết định phát động cao trào khángNhật, cứu
nước làm tiền đề cho Tổng khởi nghĩa. Tinh thần Hội nghị được thể hiện trong Chỉ thị Nhật - Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta, với những nội dung chính: Xác định kẻ thù chính, cụthể, trước mắt của
nhân dân Đơng Dương là phátxít Nhật; Đơng Dương đang ở vào "một cuộc khủnghoảng chính trị sâu
sắc", tuy nhiên, "những điều kiện khởi nghĩa chưa thực chín muồi"; "Phát động một cao trào kháng Nhật,
cứu nước mạnh mẽ để làm tiềnđề cho cuộc tổng khởi nghĩa và "sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi
nghĩa mộtkhi đã đủ điều kiện".Với tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong Chỉ thị là "phải hành động ngay,
hànhđộng cương quyết nhanh chóng, sáng tạo chủ động, táo bạo". Do đó, cao trào kháng Nhật, cứu nước và
lànsóng khởi nghĩa từng phầndâng lên mạnh mẽ, diễn ra sôi nổi.Cùng với khởi nghĩa từng phần, Đảng phát
độngphong trào "Phá kho thócgiải thốt nạn đói", thổi bùng lên ngọn lửađấu tranh và khởi nghĩa trong nhân
dân, là cuộc đấu tranh rộng lớn và sâu sắctập dượt quần chúng đi từ hình thức đấu tranh thấp đến những

hình thức đấu tranh cao, kết hợp đấu tranh kinh tế, chính trị, vũ trang chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa.
Trong khi chú trọng đẩy nhanh tập hợp và tập dượt cho lực lượng chính trị, Đảng xúc tiến mạnh hơn những
hoạt động vũ trang hỗ trợ, hình thành khu giải phóng, phát triển các chiến khu, tăng cường lực lượng vũ trang
12


chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Đồng thời với việc tích cực chuẩn bị thực lực với tinh thần chủ động, dựavào sức
mình là chính, Đảng cịn chú trọng liên lạc, hợp tác quốc tế với Đồng Minh chống phátxít Nhật.Giữa lúc cao
trào kháng Nhật của nhân dân ta đang phát triểnthì Nhật Bản chính thức tun bố đầu hàng Đồng minhvào
ngày 15-8-1945.Ngay sau đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp quyết định phát động toàn dântiến hành
Tổng khởi nghĩa và giành chính quyền trên phạm vi tồn quốc (Hà Nội: 19/8; Huế: 22/8; Sài Gòn: 15/8); Cách
mạng tháng Tám thành công, cùng với sự kiện Bảo Đại tuyên bố thối vị ở Huế ngày 30/8/1945 đã chính thức
xóa bỏ Nhà nước phong kiến lập lên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vào ngày 02/9/1945.
2. Bối cảnh hiện nay, Đảng phải làm gì để phát huy sự chủ động, sáng tạo trong hoạch định đường
lối cách mạng.
Thực tiễn cũng cho thấy trong quá trình hoạch định đường lối cách mạng ở nước ta, cứ khi nào Đảng ta
chủ động, sáng tạo thì khi đó đều đạt được những thắng lợi nhất định trên một số lĩnh vực.
* Bối cảnh hiện nay (Trích trong Văn kiện đại hội XII)
Thuận lợi - thời cơ
Khó khăn, thách thức của tình hình thế giới và trong nước
* Những việc cần làm của Đảng để phát huy sự chủ động, sáng tạo
Tranh thủ thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức;Việc hoạch định đường lối cần phải chủ động
sáng tạo phù hợp với bối cảnh lịch sử, thực tiễn đất nước, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, trách dập khn
máy móc.Tránh các sai lầm như trước đây, ví dụ: trước đổi mới thì kinh tế đất nước khó khăn, niềm tin
của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước chạm đáy do lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất chưa phù
hợp. Trong khi nhân dân cịn nghèo, đói như vậy mà đường lối lúc đó lại hoạch định chủ trương là ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng tiến lên CNXH là khơng phù hợp.Nhân dân có cuộc sống của một nước độc
lập mà vẫn nghèo, đói, nên niềm tin của nhân dân giảm sút.
Câu 6. Phân tích nội dung đường lối của Đảng trong kháng chiến chống thực dân Pháp? Làm rõ cơ
sở xây dựng đường lối chính trị đúng đắn trong cách mạng Việt Nam của Đảng?

Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược được Đảng đề ra ngay từ đầu cuộc kháng chiến và
không ngừng được bổ sung hồn chỉnh trong q trình tiến hành lãnh đạo kháng chiến.
Đường lối kháng chiến của Đảng hình hành, từng bước hồn chỉnh thơng qua các văn kiện, nghị quyết
của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc (22/11/1945) chủ động xác định
nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Trong Chỉ thị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh “Cuộc cách
mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng, chỉ rõ “Kẻ thù chính của ta lúc này
là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”. Nghị quyết Hội nghị quân sự
toàn quốc của Đảng (19/10/1946) nhận định “nhất định không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình
cũng nhất định phải đánh Pháp”. Văn kiện Công việc khẩn cấp bây giờ (5/11/1946) của Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu rõ phương hướng và nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định lịng tin vào thắng lợi cuối cùng, cổ vũ toàn Đảng, toàn quân và dân ta “Cố rán sức qua
khỏi mùa đơng lạnh lẽo, thì ta sẽ gặp mùa xn”. Trong Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12/12/1946),
Đảng xác định rõ các giai đoạn, nhiệm vụ của cuộc kháng chiến. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
(19/12/1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi (9/1947) của Tổng Bí
thư Trường Chinh... nêu rõ lý do phải tiến hành kháng chiến, quyết tâm kháng chiến, xác định các nội
dung kháng chiến về chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, xây dựng Đảng..., dự kiến các giai đoạn cuộc
kháng chiến sẽ trải qua. Nội dung cốt lõi của đường lối và tư tưởng chỉ đạo kháng chiến là “toàn dân, toàn
diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính”.
Mục đích của cuộc kháng chiến là giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân, góp phần bảo vệ hịa bình thế giới.
Tính chất của kháng chiến lúc này vẫn là cuộc cách mạng giải phóng, “cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn,
nó chưa hồn thành, vì nước chưa được hoàn toàn độc lập.
Nhiệm vụ của cuộc kháng chiến được xác định ngay từ đầu “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”
Kháng chiến toàn dân: Huy động toàn thể dân tộc và các tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến. Chủ
tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: Bất kỳ đàn ơng, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo,
đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc, nhằm
xây dựng một thế trận chiến tranh nhân dân sao cho mỗi làng xóm là một pháo đài, mỗi đường phố là một
mặt trận, mỗi quốc dân là một chiến sĩ, đánh địch mọi lúc, mọi nơi, làm cho địch bị động, lúng túng, cuối
cùng phải chịu thất bại.
Kháng chiến toàn diện: Đánh địch bằng cả quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, coi

quân sự là mặt trận đấu tranh chủ yếu, đấu tranh vũ trang đóng vai trị quyết định... nhằm tạo nên sức
mạnh tổng hợp lớn hơn địch để chiến thắng kẻ thù.
13


Kháng chiến lâu dài: Xuất phát từ sự so sánh lực lượng, ban đầu địch mạnh, ta yếu, nên Đảng chủ
trương đánh lâu dài. Vừa đánh vừa xây dựng, phát triển lực lượng, đồng thời tích cực tiêu hao, tiêu diệt
địch để so sánh lực lượng dần dần có lợi cho ta và ta sẽ chuyển từ yếu thành mạnh, tiến tới đánh thắng kẻ
thù. Đảng khẳng định đánh lâu dài về chiến lược nhưng phải tạo thế chủ động để phát triển thế và lực, tạo
thời cơ giành thắng lợi nhanh chóng trong từng giai đoạn kháng chiến, tiến lên giành thắng lợi quyết định.
Dựa vào sức mình là chính: Là dựa vào sức lực của tồn dân, vào đường lối đúng đắn, độc lập, tự chủ
của Đảng, vào các điệu kiện thiên thời, địa lợi, nhân hòa của đất nước, đồng thời ra sức tranh thủ đồng
tình, ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế để chiến thắng kẻ thù.
Về chính trị, phải đồn kết tồn dân chống thực dân Pháp xâm lược, phải thống nhất toàn dân, làm cho
mặt trận dân tộc thống nhất mỗi ngày một vững, mỗi ngày một rộng. Phải củng cố chế độ cộng hoà dân
chủ, xây dựng bộ máy kháng chiến vững mạnh, thống nhất qn, chính, dân trong tồn quốc, phát triển
các đoàn thể cứu quốc, củng cố bộ máy lãnh đạo kháng chiến tồn dân. Phải cơ lập kẻ thù, kéo thêm
nhiều bạn, làm cho nhân dân Pháp và nhân dân các dân tộc thuộc địa Pháp tích cực ủng hộ ta, chống lại
thực dân phản động Pháp.
Về quân sự, triệt để dùng “du kích vận động chiến”, tiến cơng địch ở khắp nơi, vừa đánh địch vừa xây
dựng lực lượng; tản cư nhân dân ra xa vùng chiến sự.
Về kinh tế, xây dựng nền kinh tế kháng chiến theo nguyên tắc vừa kháng chiến vừa kiến quốc, toàn dân
tham gia tăng gia sản xuất, tự túc tự cấp về mọi mặt, xây dựng kinh tế theo hướng “vừa kháng chiến vừa
kiến quốc”; ra sức phá kinh tế địch, không cho chúng lấy chiến tranh nuôi chiến tranh. Kinh tế kháng
chiến về hình thức là kinh tế chiến tranh, về nội dung là dân chủ mới, chú trọng phát triển nông nghiệp,
thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp.
Về văn hoá, thực hiện hai nhiệm vụ: xoá bỏ nền văn hố nơ dịch, ngu dân, xâm lược của thực dân Pháp
và xây dựng nền văn hoá dân chủ mới, dựa trên ba nguyên tắc: dân tộc hoá, khoa học hoá, đại chúng hoá.
Tất cả mọi hoạt động văn hoá lúc này phải nhằm thực hiện khẩu hiệu “yêu nước và căm thù”
Về ngoại giao, kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng và tương trợ”.

Triệt để cô lập kẻ thù, tranh thủ thêm nhiều bầu bạn, làm cho nhân dân thế giới, kể cả nhân dân Pháp
hiểu, tán thành và ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Đồng thời, đẩy mạnh hoạt động biểu dương
thực lực để đưa hoạt động ngoại giao giành thắng lợi.
Làm rõ cơ sở xây dựng đường lối chính trị đúng đắng trong cách mạng Việt Nam của Đảng?
Đảng CS Việt Nam đã sớm xác định đường lối kháng chiến đúng đắn và khơng ngừng bổ sung, hồn
chỉnh trong quá trình tiến hành kháng chiến.
Xây dựng hệ thống tổ chức Đảng vững mạnh và đội ngũ cán bộ, đảng viên trung kiên, luôn đổi mới và
chỉnh đốn Đảng về mọi mặt.
Kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc và vẻ vang của Đảng.
Đường lới của Đảng được xây dựng, phát triển và từng bước hồn chỉnh qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo
cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đó là đường lối kháng
chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Trên cơ sở xem xét, đánh giá khách quan, toàn diện tình hình quốc tế, trong nước, địch, ta, Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định lực lượng kháng chiến là toàn dân, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân
ba thứ quân, gồm: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích làm nòng cốt.
Để phát huy tối đa sức mạnh của toàn dân tộc, Đảng tổ chức, động viên mọi tầng lớp nhân dân, không
phân biệt giai cấp, tôn giáo, đảng phái; đồng thời, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. 
Phương pháp cách mạng là nhiệm vụ kháng chiến được đặt lên hàng đầu; thực hiện vừa kháng chiến, vừa
kiến quốc. Phương thức tiến hành kháng chiến là kết hợp chặt chẽ chiến tranh nhân dân địa phương với chiến
tranh bằng các đơn vị bộ đội chủ lực. Đây thực sự là một sáng tạo của đường lối chiến tranh nhân dân Việt
Nam – đường lối kháng chiến – mà Đảng ta với tư cách chủ thể. Bởi lẽ, chiến tranh của ta là chiến tranh nhân
dân, do nhân dân tiến hành (mỗi người dân là một chiến sĩ), với lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt.
Một trong những cơ sở xây dựng đường lối kháng chiến nữa đó là sự kế thừa truyền thống, kinh nghiệm
chống giặc ngoại xâm của dân tộc, nắm vững và vận dụng đúng quy luật chiến tranh trong điều kiện “lấy
nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều”. Đảng ta đã xác định, đây phải là cuộc kháng chiến toàn diện. Bởi thực
dân Pháp tiến hành xâm lược, nơ dịch nhân dân ta cả chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quân sự,... do đó
ta phải đấu tranh toàn diện, lâu dài với địch, trong khi phải dựa vào sức mình là chính để giành thắng lợi
cho cuộc kháng chiến vĩ đại.
Trong bối cảnh chúng ta vừa giành được độc lập, chính quyền từ Trung ương đến địa phương vừa được
thiết lập; chính trị, kinh tế, văn hóa và quân sự,... của chế độ mới đang từng bước hình thành; quan hệ

14


ngoại giao mới chỉ có một số nước, như: Liên Xơ, Trung Q́c. Để bảo tồn lực lượng, kháng chiến lâu
dài, Đảng quyết định chọn Việt Bắc để xây dựng thành căn cứ địa của cuộc kháng chiến.
Theo đó, các cơ quan của Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Quân đội, các ngành, đoàn thể Trung ương lần lượt
chuyển lên An toàn khu (ATK)[1] để chỉ đạo kháng chiến. Đảng ta chủ trương kết hợp hai nhiệm vụ chiến
lược: kháng chiến và kiến quốc; bởi hai nhiệm vụ này có mối quan hệ biện chứng, thúc đẩy nhau phát triển.
Thực hiện chủ trương đó, Trung ương Đảng chỉ đạo đảng bộ và chính quyền các địa phương khẩn trương xây
dựng kế hoạch, ổn định tư tưởng, chuẩn bị các phương án để duy trì sản xuất, sẵn sàng chiến đấu chống địch càn
quét, đánh phá. Nhiều căn cứ, nhiều chiến khu, cơ sở cách mạng ở Nam Bộ và các địa phương, kể cả địa bàn
địch tạm chiếm đã được xây dựng, duy trì hoạt động sản xuất và sẵn sàng chiến đấu.
Cùng với đó, các địa phương tích cực tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, đẩy mạnh xây dựng, phát
triển lực lượng vũ trang. Nhờ vậy, chủ trương, chính sách đúng đắn, sáng tạo của Đảng đi vào lòng dân, được
nhân dân phấn khởi đón nhận, nơ nức động viên con em xung phong gia nhập lực lượng vũ trang. Phong trào
tập luyện quân sự diễn ra sôi nổi, trên khắp các vùng, miền. Đến cuối năm 1947, quân số lực lượng vũ trang
đã đạt trên 12 vạn. Các hoạt động khác, như: giáo dục, văn hoá, văn nghệ cũng từng bước chuyển kịp với yêu
cầu của thời chiến phục vụ đắc lực sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của Đảng ta.
Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo, Đảng chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền, bồi dưỡng và phát
triển Đảng. Đến năm 1947, tổng số đảng viên cả nước đã có hơn 7 vạn. Việc nhanh chóng chuyển đất
nước sang thời chiến, xác định đường lối, tổ chức lực lượng kháng chiến toàn dân đã tạo tiềm lực, đủ để
đánh bại từng bước các chiến lược, kế hoạch của thực dân Pháp.
Câu 7: Phân tích ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống Pháp. Vận
dụng kinh nghiệm trong đổi mới hiện nay.
a. Ý nghĩa lịch sử
- Cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và can thiệp của Mỹ két thức thắng lợi đã khẳng định sức mạnh
và truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta. Sức mjanh của ý chí tự lực, tự cường của một dân tộc có
truyền thống văn hiến đã đánh thắng một trong những cường quốc của thế giới hiện đại. Chủ nghĩa yêu
nước và truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc VN đã phát huy trong thời đại mới, thời đại cách
majgn giải phóng dân tộc gắn liền với CNXH.

- Thắng lợi này là hiện thực hóa đầy sáng tạo của đường lối kháng chiến và năng lực lãnh đạo CM của
đảng, của chủ tịch HCM. Trước những sóng gió của lịch sử, chủ tịch HCM cùng với đảng ta đã chèo lái
con thuyền CM vượt qua mội khó khan đi tới thắng lợi. Từ thực tế sinh động đó, đường lối kháng chiến
được phát triển, bổ sung phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn trong suốt cuộc kháng chiến.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ đã nói lên sức sống mãnh liệt và tiềm năng to lớn của
một chế độ xã hội mới, một thể chế chính trị tiến bộ trong lịch sử phát triển cỉa dân tộc VN.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và sự can thiệp của đế quốc mỹ đã giải phóng
hồn tồn miền bắc, tạo enen căn cứ pháp lý cho sự nghiệp giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.
Đây là tiền đề to lớn nhất cho sự nghiệp CM của toàn đảng, toàn dân ta trong thời kỳ mới, thời kỳ cả nước
thực hiện cùng lúc hai nhiệm vụ chiến lược trên hai miền đất nước.
- Làm thay đổi so sánh lực lượng giữa hai hệ thống, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cữ trên phạm
vi thế giới. Việt nam – điện biên phủ - HCM đã trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng CM.
- Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là
thắng lợi vẻ vang của nhân dân việt nam, đồng thời cũng là thắng lợi của các lực lượng hịa bình, dân chủ và
CNXH trên thế giới.
b. Nguyên nhân:
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là kết quả tổng hợp của nhiều
nguyên nhân, trong đó nổi bật là:
- Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, với đường lối kháng chiến đúng đắn đã huy động được sức
mạnh tồn dân đánh giặc; có sự đoàn kết chiến đấu của toàn dân tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất
rộng rãi - Mặt trận Liên Việt, được xây dựng trên nền tảng khối liên minh cơng - nơng và trí thức vững chắc.
- Có lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân do Đảng ta trực tiếp lãnh đạo ngày càng vững mạnh, chiến
đấu dũng cảm, mưu lược, tài trí, là lực lượng quyết định tiêu diệt địch trên chiến trường, đè bẹp ý chí xâm
lược của địch, giải phóng đất đai của Tổ quốc.
- Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được giữ vững, củng cố và lớn
mạnh, làm cơng cụ sắcbén tổ chức tồn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới.
- Có sự liên minh đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia cùng
chống một kẻ thù chung; đồng thời có sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã
hội chủ nghĩa, các dân tộc uchuộng hịa bình trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp.
15



c. Bài học kinh nghiệm về hoạch định và chỉ đạo thực hiện, lường lối:
- Đảng phải sớm xác định đường lối kháng chiến đúng đắn và không ngừng bổ sung, hồn chỉnh trong
q trình tiến hành kháng chiến.
- Phải biết lấy nhở thắng lớn, lấy ít địch nhiều, phát huy sức mjan hcuar phương thức chiến tranh cách mạng và
nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, tổ chức toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang làm nòng cốt.
- Vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, tạo nên hậu phương vững chăc cho cuộc kháng chiến.
- Chú trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tranh thủ sự ủng hộ của các nước và nhân dân thế giới.
- Tăng cường công tác xây dựng đảng về mọi mặt, bảo đảm sự lãnh đạo tồn diện, trực tiếp, tuyệt đối của
đảng trong q trình kháng chiến, ngang tầm với những đòi hỏi của cuộc kháng chiến.
d. Vận dụng trong xây dựng CNXH hiện nay
Một là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh suốt q trình cách mạng Việt Nam.
Ngay từ trong quá trình đi tìm con đường cứu nước, sau khi khảo sát các cuộc cách mạng trên thế giới,
Nguyễn Ái Quốc đã phát hiện: “chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai
cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới”. Do vậy,
Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng đã xác định con đường cách mạng Việt Nam là "chủ trương làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Gắn mục tiêu giải phóng
dân tộc với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là thành quả lý luận cơ bản đã mở ra một trang sử mới cho
cách mạng Việt Nam. Xác định đúng vị trí của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng.
Sau khi đất nước thống nhất, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thể hiện ở nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời với cuộc đấu tranh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền
lãnh thổ quốc gia, làm thất bại mọi mưu toan của các thế lực phản động quốc tế, Đảng ta đã lãnh đạo toàn
dân khắc phục những khó khăn và hạn chế của lịch sử, từng bước cùng nhân dân tìm tịi, khảo nghiệm
con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn 10 năm cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội
(1975-1986), sự kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã góp phần quyết định vào q trình đưa đất
nước vượt qua mọi khó khăn, bước đầu tạo nên những tiền đề cho công cuộc đổi mới.

 Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) cùng với nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
về con đường cách mạng Việt Nam, vấn đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã có một bước phát triển
mới trong nhận thức của Đảng.
Giữ vững độc lập dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là bảo vệ chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh quốc gia, cảnh giác chống mọi âm mưu "diễn biến hồ bình" của các
thế lực thù địch, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời là quá trình phát huy ý chí tự lực tự cường,
phát huy nội lực, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc, xây dựng đất nước theo mục tiêu đã lựa chọn. Gắn độc lập dân tộc với những vấn đề toàn cầu,
với q trình đa phương hố, đa dạng hố các quan hệ quốc tế: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”3.
Trong giai đoạn cách mạng mới, chủ nghĩa xã hội cần được nhận thức và điều chỉnh để phù hợp với xu
thế của thời đại. Chủ nghĩa xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Từng bước đưa nước
ta thực hiện mục tiêu chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn này là việc xác định ngày càng rõ hơn về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện ở sự lựa chọn các bước đi, chặng đường, mơ hình chủ
nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn nước ta, gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
  Những thành tựu bước đầu có ý nghĩa lịch sử của hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới chính là thành
quả của q trình Đảng ta tiếp tục kiên định, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phù hợp
với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển chung của thế giới. Nghị quyết Đại hội X (4-2006) của Đảng đã
nhấn mạnh bài học lớn đầu tiên trong 20 năm đổi mới là: "Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh".
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là quy luật của cách mạng Việt Nam và của thời đại. Độc lập dân tộc
kết hợp với chủ nghĩa xã hội chính là tiền đề cho một nền hịa bình, độc lập và phát triển bền vững vì
những giá trị nhân văn cho con người. Đó là quy luật của cách mạng Việt Nam và của nhân loại trên hành
trình đi tới một xã hội văn minh.
Thực tế lịch sử của nhân loại đã khẳng định, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo cho độc lập dân tộc
thật sự bền vững và mới có đầy đủ các điều kiện đảm bảo tính chất triệt để cho độc lập dân tộc. Đó chính
là sự thống nhất biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,
16



giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trong thời kỳ mới, Đảng ta xác định độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội tiếp tục là kim chỉ nam cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những
thành quả của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới đã khẳng định giá trị của sự kết hợp
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta trong những năm tháng xuyên qua hai thế kỷ.
Hai là, tăng cường xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh làm chủ đất
nước của nhân dân.
Đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, tạo nên sức mạnh to lớn, trở thành động lực phát
triển của dân tộc trong suốt mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Kế thừa và phát huy truyền thống
của dân tộc, từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, coi đó là đường lối
chiến lược cơ bản, lâu dài; là nguồn sức mạnh và động lực to lớn trong sự nghiệp giải phóng, giành độc lập
dân tộc trước đây và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
 Ba là, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Trong quá trình đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta
tiếp tục nêu cao chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế với đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Từ Đại hội  Đảng
lần thứ VII (6-1991), Đảng ta đã tuyên bố: Việt Nam muốn là bạn của các nước trên thế giới, phấn đấu vì
mục tiêu hồ bình, độc lập và phát triển. Đến Đại hội Đảng lần thứ X (4-2006), với vị thế mới của Việt
Nam, Đảng đã tuyên bố Việt Nam là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trên thế giới, phấn đấu vì mục
tiêu hồ bình, độc lập và phát triển, tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Bốn là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng
trong từng thời kỳ lịch sử.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng thể hiện ở đường lối chính trị đúng đắn và bản lĩnh chính
trị của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được thơng
qua trong Hội nghị thành lập Đảng, do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt
cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay. Cương lĩnh cách mạng ấy là đường lối chính trị phản ánh
đúng quy luật khách quan, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân, đáp ứng đúng yêu cầu của
dân tộc, vạch ra được mục tiêu, phương hướng cơ bản của cách mạng. Trên cơ sở đó, Đảng tiến hành tập
hợp, tổ chức, động viên toàn thể nhân dân, biến đường lối của Đảng thành hành động cách mạng của
quần chúng. Tinh thần cơ bản của bản Cương lĩnh ấy từng bước được phát triển, cụ thể hoá đáp ứng

những nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử, đưa dân tộc Việt Nam hoàn thành cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ và vững bước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu
thế phát triển của thời đại.
Năng lực lãnh đạo của Đảng thể hiện ở bản lĩnh chính trị của Đảng cũng như của từng cán bộ, đảng
viên, đặc biệt trước những bước ngoặt khó khăn của cách mạng. Trước hết, đó là sự kiên định con đường
cách mạng, kiên trì thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Khơng bi quan, dao động
trước những khó khăn thử thách, giữ vững niềm tin vào lý tưởng cách mạng, con đường xã hội chủ nghĩa
và sự lãnh đạo của Đảng. Bản lĩnh chính trị cũng thể hiện ở sự dũng cảm thừa nhận sai lầm, khuyết điểm
và quyết tâm sửa chữa vì lợi ích của nhân dân. Bản lĩnh chính trị cịn là tinh thần đấu tranh để bảo vệ lý
luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phê phán và bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch nhằm
chống phá cách mạng Việt Nam. Bản lĩnh chính trị của Đảng cịn thể hiện ở quá trình lãnh đạo và tổ
chức thực hiện đường lối, nhất là ở những thời điểm khó khăn, thách thức của cách mạng.
Một trong nhân tố đảm bảo năng lực lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam cịn thể hiện ở chỗ trong
q trình lãnh đạo, Đảng đã biết kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc và của chính bản
thân Đảng. Đó là truyền thống đồn kết thống nhất, truyền thống quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân,
truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất, sẵn sàng chịu đựng hy sinh, gian khổ của nhiều thế hệ những
đảng viên cộng sản, truyền thống độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường trong hoạch định đường lối, nhằm
phát huy nội lực đất nước, nắm vững thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, khắc phục và vượt qua mọi khó khăn thử thách.
Cùng với truyền thống độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, Đảng ta còn nêu cao chủ nghĩa quốc tế trong sáng,
thủy chung trong quan hệ với bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Những truyền thống và bài học lớn của Đảng được bắt nguồn từ lịch sử đấu tranh lâu dài, gian khổ hy
sinh của Đảng, từ sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, từ q trình
khơng ngừng xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Những bài học và giá trị truyền thống đó góp phần làm nên
sức chiến đấu của Đảng và củng cố tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện lịch sử mới.
 Nhận thức sâu sắc rằng, phía trước cịn khơng ít thách thức, gian nan bởi những yếu kém vốn có của một
nền kinh tế đang chuyển đổi, những tiêu cực xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, những mưu toan thâm
độc của các thế lực thù địch… Song, trong hành trang của dân tộc bước vào thời kỳ mới - thời kỳ toàn
17



Đảng, tồn dân ta tích cực triển khai và thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X, với một đảng có bề dày
truyền thống và bản lĩnh cách mạng kiên cường, với tất cả những gì tồn Đảng và toàn dân ta đã tạo dựng
được trong tám thập kỷ qua là cơ sở cực kỳ quan trọng, bồi đắp niềm tin, cổ vũ toàn thể dân tộc ta vững
vàng tiến bước trong tiến trình đổi mới. Thực hiện quyết tâm: Nêu cao ý chí sắt đá của tồn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta, triệu người như một, năng động và sáng tạo, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức,
quyết tâm đổi mới toàn diện và mạnh mẽ đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện
thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, sánh vai cùng các nước
trên thế giới trong nhịp bước khẩn trương của thời đại.
Câu 8 – Phân tích nội dung cơ bản và ý nghĩa của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 BCH TƯ Đảng
khoá II (năm 1959)
Cuối năm 1958 đầu năm 1959, cách mạng miền nam đứng trước những thử thách ác liệt. Dưới ánh sáng
các nghị quyết của Ðảng, nhân dân miền nam đã từ đấu tranh chính trị, tiến lên đấu tranh chính trị kết hợp
vũ trang tự vệ, giành được nhiều thắng lợi. Song, với chính sách tố Cộng, diệt Cộng, Mỹ - Diệm đã gây
cho ta những tổn thất nặng nề. Chỉ tính từ tháng 7-1955 đến tháng 2-1956, chúng đã giết hại, giam cầm
93.362 cán bộ, đảng viên. Từ 1955 đến 1958, riêng ở Nam Bộ, địch đã giết hại khoảng 68.000 cán bộ,
đảng viên, bắt 446.000 người.
Tháng 12-1958, chúng đầu độc hàng nghìn tù chính trị ở trại giam Phú Lợi, làm chết nhiều chiến sĩ cách
mạng. Tháng 4-1959, Ngơ Ðình Diệm tun bố "đặt miền nam trong tình trạng khẩn cấp". Tháng 5-1959,
Quốc hội của chính quyền Sài Gịn thơng qua Luật 10/59 lê máy chém đi khắp các vùng nông thôn và
thành thị miền nam, công khai giết hại những người yêu nước, tàn sát đồng bào ta hết sức man rợ.
Tình hình trên chỉ ra rằng, với chính sách khủng bố, đàn áp tàn bạo của chính quyền phát-xít Ngơ Ðình
Diệm, nhất là với các biện pháp tố Cộng, diệt Cộng ngày càng quyết liệt, thì phương châm đấu tranh
chính trị đơn thuần cũng như đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang tự vệ như trước đó khơng cịn phù
hợp với thực tế tình hình. Ðiều này địi hỏi Ðảng phải có sự chuyển hướng chỉ đạo kịp thời để duy trì và
phát triển phong trào cách mạng, đáp ứng đòi hỏi bức xúc của cán bộ, đảng viên và đồng bào yêu nước
miền nam và cũng là đòi hỏi cấp bách của lịch sử đặt ra lúc bấy giờ, nhằm đưa sự nghiệp giải phóng miền
nam, thống nhất đất nước của nhân dân ta vượt qua thử thách hiểm nghèo.
Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng triệu tập Hội nghị lần thứ 15. Dưới sự chủ trì của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị đã kiểm điểm tình hình trong nước từ khi Hiệp định Genevơ được ký kết và
đề ra nhiệm vụ đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta.

Phân tích đặc điểm, tình hình nước ta từ khi hịa bình được lập lại, Hội nghị chỉ ra hai mâu thuẫn cơ bản
mà cách mạng Việt Nam phải giải quyết. Ðó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc, giai cấp địa chủ phong
kiến, tư sản mại bản ở miền nam với dân tộc Việt Nam, nhân dân cả nước Việt Nam và mâu thuẫn giữa
con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa ở miền bắc.
Nội dung cơ bản của Hội nghị:
Hội nghị cho rằng: "Cách mạng Việt Nam do Ðảng ta lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: Cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam". Hai nhiệm vụ
chiến lược đó tuy tính chất khác nhau nhưng quan hệ hữu cơ với nhau, song song tiến hành, ảnh hưởng
sâu sắc lẫn nhau, trợ lực mạnh mẽ cho nhau nhằm phương hướng chung là giữ vững hịa bình, thực hiện
thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội (1).
Về nhiệm vụ, hội nghị đề ra nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại là: "Tăng
cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh để giữ vững hịa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở
độc lập và dân chủ, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, ra sức củng cố
miền bắc và đưa miền bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh, tích cực góp phần bảo vệ hịa bình ở Ðơng-Nam Á và thế giới" (2).
Ðối với cách mạng Việt Nam ở miền nam, Hội nghị xác định: "Miền nam đã trở thành thuộc địa kiểu mới
và căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ. Chính quyền Ngơ Ðình Diệm là chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ,
chế độ thực dân và nửa phong kiến ở miền nam là một chế độ phản động, tàn bạo và đen tối" (3). Mâu
thuẫn chủ yếu ở miền nam trong giai đoạn hiện nay là mâu thuẫn giữa dân tộc ta, nhân dân ta ở miền nam
và bọn đế quốc xâm lược Mỹ cùng tập đồn thống trị Ngơ Ðình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, đại diện
cho bọn địa chủ, phong kiến và tư sản mại bản thân Mỹ phản động nhất. Vì vậy, nhiệm vụ cách mạng
Việt Nam ở miền nam được Hội nghị đề ra là:
- Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc
lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam, góp
phần xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
18


- Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây
chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngơ Ðình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính

quyền liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải
thiện đời sống của nhân dân, giữ vững hịa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân
chủ, tích cực góp phần bảo vệ hịa bình ở Ðơng-Nam Á và thế giới.
- Phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách mạng từ đấu tranh chính trị tiến
lên kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; và dự kiến xu hướng phát triển từ khởi nghĩa của
nhân dân có thể tiến lên cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ... Hội nghị chỉ rõ, con đường phát triển cơ bản
của cách mạng Việt Nam ở miền nam là "khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tình hình
cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực
lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của
đế quốc và phong kiến, dựng nên chính quyền cách mạng của nhân dân (4)".
Hội nghị nhấn mạnh: "Vì chế độ thống trị của Mỹ - Diệm dựa vào vũ lực để tồn tại mà chúng ta thì phải
dựa vào lực lượng quần chúng, lấy lực lượng quần chúng để đánh đổ chúng, cho nên muốn đạt được mục
tiêu đó, cần phải có một q trình đấu tranh lâu dài và gian khổ" (5). Trong q trình đó "hình thức đấu
tranh chính trị là chủ yếu. Song do quân thù quyết dìm cách mạng trong máu lửa, do nhu cầu của phong
trào cách mạng ở miền nam, cho nên trong một chừng mực nhất định và ở những địa bàn nhất định đã
xuất hiện những lực lượng vũ trang tự vệ và vũ trang tuyên truyền để trợ lực cho đấu tranh chính trị. Ðó
là một điều cần thiết" (6).
Trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm thực tiễn của đồng bào, chiến sĩ miền nam trong hơn bốn năm đấu tranh
đầy hy sinh gian khổ và nghiên cứu cẩn trọng những kiến nghị khẩn thiết của nhiều cán bộ, đảng viên và
một số cấp ủy, Bộ Chính trị đã dành nhiều cơng sức, trí tuệ chuẩn bị một giải pháp cơ bản cho cách mạng
miền nam để trình ra Ban Chấp hành Trung ương. Do bối cảnh phức tạp, do tính chất đặc biệt quan trọng
của vấn đề nghị bàn, Hội nghị đã tiến hành qua hai đợt. Ðợt 1 vào tháng 1-1959, sau đó tiếp tục nghiên
cứu tình hình và họp đợt 2 vào tháng 7-1959, nhằm hồn thiện những kết luận của đợt 1. Nghị quyết Hội
nghị được chính thức thơng qua trong đợt 2.
Ý nghĩa của Hội nghị TƯ 15
- Nghị quyết Hội nghị T.Ư 15 là một mốc lịch sử vô cùng quan trọng. Nghị quyết đã đề ra một cách toàn
diện đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam.
- Hội nghị đánh dấu bước phát triển mới về tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn của Ðảng ta trong sự nghiệp
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhằm mục tiêu chiến lược giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.
- Những quyết sách về đường hướng phát triển của cách mạng miền nam mà Hội nghị đưa ra phản ánh

đúng tình thế chín muồi của cách mạng miền nam, đáp ứng được yêu cầu bức thiết của thực tế tình hình
cách mạng miền nam lúc bấy giờ, phù hợp với nguyện vọng tha thiết của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ miền
nam và phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của cách mạng miền nam.
- Nghị quyết 15 như một luồng sinh khí mới thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh của quần chúng cách mạng
mà đỉnh cao là phong trào đồng khởi cuối năm 1959 đầu năm 1960, đưa cách mạng miền nam vượt qua
thử thách nghiêm trọng nhất, chuyển sang thế tiến công đập tan hình thức xâm lược, thống trị điển hình
của chủ nghĩa thực dân mới mà đế quốc Mỹ dày công tạo dựng ở miền nam Việt Nam.
-Nghị quyết 15 và tiếp đó là Nghị quyết Ðại hội tồn quốc lần thứ III của Ðảng (tháng 9-1960) đã hoàn
chỉnh đường lối cách mạng Việt Nam nói chung, đường lối và phương pháp cách mạng Việt Nam ở miền
nam nói riêng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nghị quyết cũng thể hiện tinh thần độc lập,
tự chủ và sáng tạo của Ðảng ta. Nghị quyết 15 là một quyết định lịch sử.
Câu 9: Phân tích ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của Đảng lãnh đạo trong kháng chiến chống Mỹ?
Vận dụng những kinh nghiệm đó trong cơng cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam?
Trả lời:
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã
kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Thắng lợi vĩ đại của sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự
độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đường lối đó chính
là sự kết hợp hài hịa giữa lợi ích dân tộc và xu thế thời đại, được thể hiện trong các chủ trương, chính
sách mang tính hệ thống của Đảng, kết hợp những vấn đề về nguyên tắc, chiến lược với những vấn đề về
sách lược và phương pháp.
1. Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của Đảng lãnh đạo trong kháng chiến chống Mỹ
1.1. Ý nghĩa lịch sử:
*) Đối với Việt Nam:
19


- Mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân
tộc và bảo vệ Tổ quốc bắt đầu từ Cách mạng tháng 8/1945, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị hơn một thế kỷ
của Chủ nghĩa đế quốc trên đất nước ta, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, bảo vệ

và phát triển những thành quả của cách mạng XHCN trên miền Bắc, đưa cả nước tiến lên CNXH.
- Đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược với quy mô lớn nhất, dài ngày nhất và ác liệt nhất của ĐQ Mỹ kể từ
sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, trải qua 5 đời Tổng thống Mỹ, 4 chiến lược chiến tranh (gồm: chiến
tranh thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ (1954-1960); chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965);
chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965-1968); chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (từ năm 1969 đến
tháng 4-1975)) với chi phí lên tới 676 tỷ USD.
- Mở ra kỷ nguyên mới của cách mạng VN- kỷ nguyên cả nước có hịa bình, độc lập, thống nhất, đi lên CNXH.
Đó là một trong nững thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
*) Đối với thế giới
- Đập tan cuộc phản công lớn nhất của đế quốc đầu sỏ chĩa vào các lực lượng cách mạng kể từ sau Chiến
tranh thế giới lần thứ 2, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của DQ Mỹ ở ĐNÁ, làm đảo lộn chiến lược
toàn cầu phản cách mạng của chúng, mở đầu cho sự sụp đổ không thể tránh khỏi của CN thực dân kiểu
mới, góp phần bảo vệ hịa bình thế giới.
- Đã có tác động mạnh đến nội tình nước Mỹ và cục diện thế giới, có ảnh hưởng và là nguồn cổ vũ to lớn đối với
phong trào cách mạng thế giới, các dân tộc đang đấu tranh chống CNĐQ, đặc biệt là nhân dân Lào, CPChia.
Đánh giá thắng lợi của cuộc k/c chống Mỹ cứu nước, ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã
khẳng định “ Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống
Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu
tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch
sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có
tính chất thời đại sâu sắc”.
1.2. Bài học kinh nghiệm
Thắng lợi của cuộc k/c chống Mỹ cứu nước đã để lại nhiều bài học có giá trị lý luận và thực tiễn:
*) Ưu điểm
- Đảng đã xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm cách mạng Việt Nam
ở cả hai miền.
- Đảng đã lãnh đạo phát huy đến mức cao nhất sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh thắng kẻ thù.
- Đảng đã vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt phương pháp đấu tranh cách mạng, phương thức và nghệ
thuật tiến hành chiến tranh nhân dân.

- Đảng đã chủ động, nhạy bén, linh hoạt trong chỉ đạo chiến lược chiến tranh cách mạng và nghệ thuật tạo
và nắm thời cơ, giành được những thắng lợi quyết định.
- Bên cạnh đó, Đảng cần ln chú trọng xây dựng Đảng vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ của cách mạng.
*)Hạn chế
Trong một số thời điểm, bước chuyển biến lớn của chiến tranh cách mạng, chủ trương, đường lối và sự
chỉ đạo chiến lược của Đảng có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng như:
- Chủ quan trong đánh giá tình hình, đặt ra yêu cầu quá cao so với khả năng thực tế; chưa đánh giá thật
đúng, thật sát tình hình, so sánh lực lượng trên chiến trường, nên đã đưa ra các quyết định chiến lược
chưa phù hợp với tình hình thực tế, làm cho cách mạng gặp khó khăn, tổn thất, cụ thể như trong cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968
- Đánh giá không đúng bản chất phản động của tập đồn Pơn Pốt, đồng thời, lơ là, mất cảnh giác.
Có thể thấy, với việc đánh giá đúng kẻ thù, nhận định đúng về tình hình trong nước và quốc tế, có đường
lối đối ngoại mềm dẻo, phù hợp, Đảng ta đã đề ra đường lối sáng tạo và tài tình, phát huy sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc, tranh thủ được sự ủng hộ của bạn bè quốc tế nên đã giành được chiến cơng chói lọi
trong cuộc kháng chiến chớng Mỹ, cứu nước. Thắng lợi vĩ đại của dân tộc là cơ sở phát huy cao độ tiềm
lực của cả nước, thực hiện chiến lược đoàn kết toàn dân tộc, khắc phục mọi khó khăn, vượt qua thử thách,
từng bước thốt khỏi khủng hoảng, phá thế bao vây, cấm vận về kinh tế, bảo vệ Tổ quốc và làm tròn
nghĩa vụ quốc tế. Đồng thời, thực hiện thành công đường lối đổi mới, đưa đất nước phát triển toàn diện và
mạnh mẽ, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 
2. Vận dụng những kinh nghiệm lãnh đạo trong kháng chiến chống Mỹ của Đảng trong công cuộc
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam?
2.1. Bối cảnh
*) Thế giới
20



×