Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tên Sáng Kiến Biện Pháp Rèn Kĩ Năng Viết Đoạn Văn Cho Học Sinh Lớp 2.Pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.87 KB, 20 trang )

Phần 1
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 2.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Tiếng Việt
3. Tác giả:
Họ và tên: Nhữ Thị Vân

Giới tính: Nữ

Ngày tháng/năm sinh: 01/10/1988
Trình độ chun mơn: ĐHSP
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Hùng Thắng
Điện thoại: 0982122981
4. Đồng tác giả: không
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học Hùng Thắng
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu:
Trường Tiểu học Hùng Thắng – Bình Giang – Hải Dương.
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Giáo viên có trình độ chun mơn vững vàng, có lịng u nghề, u
trẻ, tận tâm trong công việc và luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức, lối
sống cho học sinh.
- Nhà trường có đủ cơ sở, vật chất trang thiết bị dạy học để học sinh được
học 2 buổi/ngày.
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2014 - 2015
HỌ TÊN TÁC GIẢ (KÝ TÊN)

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN
ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

1




A. TÓM TẮT NỘI DUNG SÁNG KIẾN
Việc dạy học Tiếng Việt (điển hình là Phân mơn Tập làm văn) là một
trong những phân môn quan trọng của môn Tiếng Việt nhằm giúp học sinh biết
phát huy tính tích cực, tồn diện, tổng hợp và sáng tạo, sử dụng toàn bộ các kỹ
năng được hình thành và phát triển do nhiều phân môn khác của môn Tiếng
Việt đảm nhiệm (kỹ năng đọc, nghe, nói, viết chữ, viết chính tả, dùng từ đặt
câu, ...). Đặc biệt Tập làm văn còn là phân môn tổng hợp của vốn sống, vốn tri
thức và sự hiểu biết về xã hội, về thế giới đang phát triển xung quanh cuộc sống
của các em học sinh. Qua từng bài Tập làm văn, ta sẽ thấy được trình độ sử
dụng Tiếng Việt cũng như vốn tri thức và sự hiểu biết của các em về cuộc sống.
Ở lớp 2, ngay từ đầu năm học, các em được làm quen với đoạn văn và
được rèn kĩ năng viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu, song trong thực tế hiện nay, việc
rèn cho học sinh viết đoạn văn tốt chưa được giáo viên chú tâm nhiều. Bên
cạnh đó, nhiều học sinh khi viết bài cịn viết cẩu thả, khơng đúng yêu cầu, viết
lan man, không đủ số câu, sai ý, trình bày ý lộn xộn, thiếu tự nhiên, sai nhiều
chính tả, … Hơn thế nữa, một số em thiếu tự tin trong giờ Tập làm văn dễ dẫn
đến hậu quả là các em chán nản, thiếu quyết tâm trong học tập. Để khắc phục
tình trạng này, địi hỏi người giáo viên phải có kinh nghiệm và sáng tạo trong
giảng dạy, phải thật kiên trì và nhẫn nại, giúp học sinh nhận thức được tầm
quan trọng của môn học. Qua dự giờ và phỏng vấn một số học sinh ở một số
lớp, tơi nhận thấy các em cịn lúng túng, nhiều học sinh làm bài chưa đạt yêu
cầu. Đó cũng là điều trăn trở lớn nhất của tôi và cũng là lí do tơi chọn và viết
sáng kiến với nội dung: “ Biện pháp rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh
lớp 2” nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy - học môn Tiếng Việt.
Thông thường, giáo viên dạy theo quy trình sách giáo khoa, sách giáo
viên, điều này khiến học sinh hay gặp vướng mắc và áp đặt một cách máy móc
nên tơi đã đưa ra một cách thức giúp HS khắc phục được những hạn chế
trong khi viết đoạn văn ngắn.

+ Ứng dụng Công nghệ thông tin vào giảng dạy để giúp giáo viên tiết
kiệm thời gian và truyền tải được nhiều ngữ liệu hơn. Học sinh được quan sát
2


và tiếp nhận thông tin một cách phong phú .
+ Thay vì đặt ra hệ thống câu hỏi trong việc hướng dẫn học sinh ở tất cả
các tiết gây sự nhàm chán, tôi đã đưa ra sơ đồ tư duy giúp học sinh dễ dàng
hơn trong khi viết các đoạn văn ngắn.
+ Sáng kiến góp phần khắc phục được hạn chế về cách viết một đoạn văn
ngắn với câu văn cộc lốc, không đúng ngữ pháp, hay câu văn không rõ ràng, sự
sắp xếp các câu văn khơng lơgíc….Qua đó bồi dưỡng lịng say mê u thích
con người, cảnh vật xung quanh các em.
+ Góp phần vào đổi mới cách dạy Tiếng Việt, giúp học sinh có kĩ năng
viết đoạn văn ngắn trong phân môn Tập làm văn lớp 2 theo hướng phát huy
tính cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
- Từ cách đổi mới phương pháp dạy của thầy góp phần đổi mới cách học
của trị. Phát huy hết khả năng tự phát hiện của học sinh thông qua cách tổ chức
câu, ý sao cho lơgíc, cách sử dụng từ chính xác và hay khi viết.
Trong sáng kiến này, tôi cũng đưa ra một vài đề xuất nhỏ gửi đến Phòng
giáo dục, nhà trường, địa phương, phụ huynh đặc biệt là với các thầy cơ (những
người có vai trò cơ bản quyết định chất lượng giáo dục của học sinh) để giúp
cho việc dạy học đạt kết quả tốt hơn.

3


B. MƠ TẢ SÁNG KIẾN
1.Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Đất nước ta đang bước vào thời kì đổi mới với quyết tâm cơng nghiệp

hố, hiện đại hố đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu “ Dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Để thực hiện được điều đó địi hỏi mỗi
chúng ta phải có một nguồn lực vừa có tài, vừa có đức, vừa có tri thức trong
cuộc sống. Nơi tạo ra những nền móng vững chắc cho quá trình học tập của
mỗi con người chính là trường Tiểu học. Giáo dục Tiểu học là cấp học nền tảng
của hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm,
đạo đức, trí đức, thẩm mĩ và thể chất cho trẻ em nhằm hình thành cho học sinh
nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong các mặt giáo dục ở Tiểu
học thì Tiếng Việt là cơng cụ giúp các em giao tiếp, nhận biết được vốn kiến
thức của nhân loại thành trí thức của riêng mình.
Dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ. Dạy học Tiếng Việt giúp các
em hình thành 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết. Phân mơn Tập làm văn
trong mơn Tiếng Việt hội tụ đủ cả 4 kĩ năng trên. Nó là phân mơn tổng hợp
tồn bộ kiến thức đã học ở trong tuần từ các phân môn: Tập đọc, Tập viết,
Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Đối với học sinh lớp 2 thì đây là một
phân mơn khó. Bởi lẽ ở lứa tuổi của các em, vốn kiến thức và hiểu biết cịn hạn
hẹp. Bên cạnh đó, cịn có một số khó khăn khách quan như điều kiện hoàn cảnh
sống của học sinh ở địa bàn dân cư lao động nghèo, gia đình khơng có điều
kiện quan tâm đến các em, việc diễn đạt ngôn ngữ kém, việc tiếp thu kiến thức
khá chậm, học sinh nghèo vốn từ ngữ,…. Điều này ảnh hưởng đến việc học tập
nói chung, học phân mơn Tập làm văn nói riêng.
Trong chương trình Tập làm văn lớp 2, ngay từ đầu năm học, các em
được làm quen với đoạn văn và được rèn kĩ năng viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu.
Qua dự giờ thăm hỏi một số lớp, tôi nhận thấy các em còn lúng túng, nhiều học
sinh làm bài chưa đạt yêu cầu. Các em thường lặp lại câu đã viết, dùng từ sai,
cách chấm câu còn hạn chế có em viết khơng đúng u cầu của đề bài hoặc có
những bài làm đảm bảo về số câu nhưng viết không đủ ý.Việc dạy cho học sinh
4



viết đoạn văn chính là q trình giáo viên khơi dậy sự hiểu biết và cảm nhận
của các em về người, vật và cuộc sống xung quanh. Điều đó địi hỏi giáo viên
dạy cho học sinh có cách tổ chức, sắp xếp câu, ý sao cho lơgíc, cách sử dụng từ
chính xác và hay khi viết. Song thực tế chỉ ra rằng một số học sinh lớp 2 khó
nhận thức được việc sắp xếp ý (cảm nhận của mình) theo trật tự đúng. Vốn
sống của các em còn hạn chế, do đó khi diễn đạt học sinh gặp rất nhiều khó
khăn. Sự sắp xếp tổ chức câu trong đoạn cịn rời rạc. Các câu độc lập về nội
dung chưa có sự liên kết và lơgíc … Đơi khi các em cịn viết câu khơng rõ ý, từ
lặp lại nhiều… Là một giáo viên đã từng mấy năm dạy lớp 2, tôi rất băn khoăn
và trăn trở: Làm thế nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản
thân tơi ln cố gắng để tìm ra những biện pháp nâng cao chất lượng học tập
cho học sinh. Đây là lí do tơi chọn và viết Sáng kiến với nội dung: “ Biện pháp
rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 2” nhằm góp phần nâng cao chất
lượng dạy - học phân môn Tập làm văn lớp 2.
2. Cơ sở lí luận của vấn đề.
2.1 Tìm hiểu thực trạng.
Học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 2, các em vừa chuyển hoạt
động chủ đạo từ vui chơi sang học tập. Các em hiếu động, ham chơi, sự tập
trung cho học tập và chú ý chưa cao. Tư duy của các em nặng về trực quan cụ
thể, tư duy trừu tượng chưa phát triển. Do đó, khi tổ chức dạy học, giáo viên
phải linh hoạt sáng tạo thì mới có hiệu quả.
2.2.Tìm hiểu nội dung chương trình, sách giáo khoa.
Như chúng ta đã biết, ở lớp 1 học sinh mới chỉ dừng lại ở mức độ tập nói
hoặc viết câu có nội dung theo chủ đề bài học hoặc tìm tiếng nói có âm vần vừa
học. Các em được ghép tiếng và nói những câu đơn giản, riêng lẻ có nội dung
gần gũi với cuộc sống của các em hoặc ở các bài tập đọc. Đến lớp 2 các em đã
phải viết đoạn từ 4 đến 5 câu kể về một sự việc đơn giản mình cũng chứng kiến
(tham gia) hoặc tả sơ lược về người, vật xung quanh các em. Ở học kỳ I, chủ
yếu các em được viết đoạn từ 3 đến 5 câu kể về người thân như: Cô giáo, ông,
bà, anh, chị, em và rộng hơn là tồn thể gia đình. Đến học kỳ II các em được

5


viết đoạn tả con vật (chim ), tả cảnh (biển), tả cây cối, tả người (ảnh Bác Hồ).
Tuần 34 và 35, học sinh được kể về những việc làm mà bản thân chứng kiến
hoặc tham gia ….
Xen kẽ giữa các bài tập có yêu cầu kể (tả) nói trên có 2 dạng bài kể (tả) con
vật được viết đầy đủ song được sáo trộn trật tự câu nhằm mục đích củng cố về liên
kết câu, gắn kết ý …
Mở đầu ngay ở tuần 1, sách giáo khoa đã giới thiệu cách kể theo nội
dung tranh sau đó viết thành đoạn. Đây chính là hình thức giúp học sinh vận
dụng linh hoạt kỹ năng vốn hiểu biết khi học phân môn kể chuyện vào viết
đoạn văn ngắn.
2.3. Vị trí , nhiệm vụ, nội dung của phân môn Tập làm văn lớp 2:
2.3.1.Vị trí :
Ở Tiểu học ( nhất là lớp 2), Tập làm văn là một trong những phân mơn
có tầm quan trong đặc biệt vì ở lớp 1, các em chưa được học. Lên lớp 2, học
sinh mới bắt đầu được học, được làm quen với phân môn này.
Phân môn Tập làm văn giúp học sinh có kỹ năng sử dụng Tiếng Việt
được phát triển từ thấp đến cao, từ luyện đọc cho đến luyện nói, luyện viết
thành bài văn theo suy nghĩ của từng cá nhân. Tập cho các em ngay từ nhỏ có
những hiểu biết sơ đẳng đó cũng là rèn cho các em tính tự lập, tự trọng. Con
người văn hóa sẽ hình thành các em từ những việc nhỏ bé, tưởng như khơng
quan trọng đó. Tập làm văn còn đòi hỏi học sinh huy động với kiến thức nhiều
mặt ( Từ hiểu biết về cuộc sống đến tri thức về văn học, khoa học, thường
thức…) có liên quan đến đề bài. Bài tập làm văn là sản phẩm của vốn sống,
năng lực tư duy, năng lực giao tiếp, sự thành thạo trong việc sử dụng ngôn ngữ
nói và viết trong cuộc sống hằng ngày của học sinh. Là môn học công cụ, phân
môn Tập làm văn giúp cho học sinh nắm vững đơn vị tri thức cơ bản của khoa
học Việt ngữ. Trên cơ sở hình thành kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết đạt đến trình

độ đúng. Tạo điều kiện cho học sinh nắm được tri thức khoa học mới. Vì vậy
dạy học sinh tiếp thu kiến thức mới về cách viết một đoạn văn hay, đủ ý, gọn
lời là góp phần khơng nhỏ vào việc hình thành mục tiêu giáo dục đào tạo.
6


2.3.2.Nhiệm vụ :
Làm văn có nghĩa là tạo lập văn bản. Nhiệm vụ chính của phân mơn Tập
làm văn là rèn luyện cho học sinh kỹ năng tạo lập văn bản. Ở đây thuật ngữ
“ văn bản” được dùng để chỉ sản phẩm hồn chỉnh của lời nói trong một hồn
cảnh giao tiếp cụ thể. Đó khơng nhất thiết là một bài văn gồm nhiều câu; nhiều
đoạn; cũng không nhất thiết phải ở dạng viết; càng không phải chỉ là loại văn
kể chuyện hay miêu tả theo phong cách nghệ thuật. Trong hoàn cảnh giao tiếp
cụ thể, sản phẩm lời nói mà một người tạo lập được có thể chỉ là một câu chào,
một lời cảm ơn hay một vày dòng thăm hỏi, chúc mừng trên tấm thiếp….Đối
với lớp 2, dạy Tập làm văn là trước hết là rèn luyện cho học sinh kỹ năng phục
vụ học tập và giao tiếp hàng ngày, cụ thể là:
+ Dạy các nghi thức lời nói tối thiểu, như: chào hỏi, tự giới thiệu, cảm
ơn, xin lỗi, yêu cầu, khẳng định, phủ định, tán thành………
+ Dạy một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống, như : khai bản tự
thuật ngắn, viết những bức thư ngắn, nhận và gọi điện thoại, đọc và lập danh
sanh sách học sinh, ………..
Cuối cùng, cũng như các phân môn và môn học khác, phân môn Tập làm
văn, thơng qua nội dung dạy học của mình, có nhiệm vụ trau dồi cho học sinh
thái độ ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong cơng việc, bồi dưỡng
những tình cảm lành mạnh cho các em.
2.3.3. Nội dung :
Nội dung các bài học về Tập làm văn ở lớp 2 giúp các em thực hành rèn
luyện các kỹ năng nói, viết,nghe phục vụ cho học tập và giao tiếp hàng ngày, cụ
thể :

Thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu : chào hỏi, tự giới thiệu, cảm
ơn, xin lỗi….
Thực hành về kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày, như : viết
bản tự thuật ngắn, lặp danh sách học sinh, tra mục lục sách, ……….
Thực hành rèn kỹ năng diễn đạt ( nói, viết ), như : kể về người thân, tả
biển, tả cây cối, ……
7


Thực hành rèn kỹ năng nghe. Với cách biên soạn này, giờ dạy Tập làm
văn trở nên linh hoạt hơn, gắn với cuộc sống đời thường hơn và giúp học sinh
hứng thú trong học tập.
3. Thực trạng của vấn đề.
3.1. Vài nét về tình hình địa phương và nhà trường:
3.1.1. Thuận lợi.
Trường Tiểu học nơi tôi giảng dạy nằm trên địa bàn xã thuộc vùng nơng
thơn, là xã có phong trào học tập và truyền thống hiếu học. Đó là niềm tự hào
và là động lực để động viên giáo viên và học sinh phát huy truyền thống thi đua
dạy tốt, học tốt, góp phần vào sự nghiệp giáo dục của đất nước. Hiện nay,
trường đang vững bước đi lên nhờ đội ngũ quản lí trẻ, năng động, nhiệt tình,
đội ngũ giáo viên u nghề, hết lịng vì học sinh. Trường nhiều năm liền đạt
danh hiệu là trường Tiên tiến, có nhiều thành tích đáng kể. Trường là một trong
những trường đừng tốp đầu của huyện trong phong trào về các cuộc thi. Các em
học sinh rất ham tìm tịi, hiểu biết, ln tích cực tham dự các hoạt động Đội –
Sao nhi đồng. Hầu hết các em học sinh là con em nông dân nhưng các em đều
được gia đình, nhà trường quan tâm, giáo dục các em ngay từ nhỏ nên các em
đều ngoan và có ý thức tốt.
3.1.1 Khó khăn.
Do đặc điểm tình hình địa phương là vùng nơng thơn, điều kiện kinh tế
khó khăn, nên việc nhận thức của một số phụ huynh cho con em mình đi học

cịn hạn chế hơn các vùng ở thị trấn, thành phố .Việc đầu tư sách, vở, sách tham
khảo hay điều kiện được đi tham quan, dã ngoại cũng vơ cùng khó khăn.Thêm
vào đó mơi trường sống ở vùng nơng thơn ít nhiều ảnh hưởng cũng đến q
trình tiếp thu kiến thức của trẻ. Là lớp đầu cấp (sau lớp 1) nên các em còn hạn
chế khả năng giao tiếp, ngơn ngữ cịn hạn hẹp về vốn từ.
3.2.Về kiến thức trong sách giáo khoa:
Nói chung kiến thức trong sách giáo khoa được sắp xếp một cách hợp lí,
lơgíc đi từ đơn giản đến phức tạp, từ cách nhìn thực tế đến sự vận dụng vốn
8


sống, vốn hiểu biết để viết đoạn văn. Học sinh được dạy các kĩ năng kể (tả) đơn
giản. Song không phải kể lại hoặc tả lại câu chuyện cảnh vật theo nội dung bài
tập đọc dựa vào lời kể (tả) của tác giả mà các em được kể (tả) những gì có và
diễn ra trong cuộc sống xung quanh. Điều này đã phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh trong kĩ năng viết đoạn. Do đó, ta có thể khẳng
định rằng: Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 đặc biệt chú trọng tới rèn kĩ năng viết
đoạn văn cho học sinh.
3. 3 . Những khó khăn hạn chế khi dạy học sinh lớp 2 viết đoạn văn.
3.3.1.Về phía giáo viên:
- Một số giáo viên chưa coi trọng việc rèn viết đoạn văn cho học sinh
cách dạy của giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc một cách máy móc vào sách giáo
viên, hầu như rất ít sáng tạo, chưa linh hoạt, chưa cuốn hút được học sinh. Cách
dạy của giáo viên có phần khn mẫu.
Ví dụ: Khi dạy học sinh bài Tập làm văn tuần 20 “ Tả ngắn về bốn
mùa". Giáo viên đã hướng dẫn gợi mở các câu hỏi theo sách giáo khoa:
+ Mùa hè bắt đầu từ tháng nào trong năm ? (Mùa hè bắt đầu từ tháng tư
trong năm).
+ Mặt trời mùa hè như thế nào ? (Mặt trời mùa hè rất chói chang).
+ Cây trái trong vườn như thế nào ?(Cây trong vườn có nhiều hoa quả ).

+ Học sinh thường làm gì trong dịp nghỉ hè ? (Học sinh thường được vui
chơi trong dịp nghỉ hè).
- Giáo viên chưa vận dụng kỹ năng tả “ Mùa Xuân" của bài tập 1 vào
hướng dẫn bài tập 2. Sự dập khn máy móc như vậy dẫn đến bài viết của học
sinh là bốn câu thiếu lơgíc và sáng tạo, khơng phát huy được tính tích cực của
học sinh.
- Khi trao đổi với giáo viên dạy lớp 2 về cách hướng dẫn học sinh làm bài
tập "Viết đoạn văn ngắn", đa số giáo viên đều trả lời rằng:
Bước 1: Học sinh đọc yêu cầu bài .

9


Bước 2: Giáo viên nêu yêu cầu của bài: Viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu, các
câu phải liên kết với nhau .
Bước 3 : Học sinh viết vào vở .
Bước 4 : Đánh giá và chữa lỗi.
+ Gọi 1 hoặc 2 học sinh đọc bài viết.
+ Giáo viên đánh giá bài, chữa một số lỗi sai về câu từ .
- Với cách hướng dẫn như trên học sinh khó có thể nhận ra nội dung
đoạn viết cần có những gì ? Liên kết câu như thế nào ? Cách diễn đạt làm sao
cho thoát ý… Đến khi đánh giá bài như vậy chưa có kết quả thiết thực đối với
học sinh vì đối tượng học sinh lớp 2 các em dễ nhớ nhưng cũng nhanh quên.
Do đó, cái sai của học sinh vẫn được lặp lại trong bài.
3.3.2. Về phía học sinh
Các em học sinh lớp 2 vốn sống cịn ít, vốn hiểu biết về Tiếng Việt cịn
rất sơ sài, chưa định rõ trong giao tiếp, viết văn câu cịn cụt lủn. Hoặc câu có
thể có đủ ý nhưng chưa có hình ảnh. Các từ ngữ được dùng về nghĩa cịn chưa
rõ ràng. Việc trình bày, diễn đạt ý của các em có mức độ rất sơ lược, đặc biệt là
khả năng miêu tả.

- Học sinh có hứng thú trong giờ Tập làm văn song chủ yếu tập trung vào
các bài tập làm miệng với các yêu cầu nói lời cảm ơn, xin lỗi, đáp lại lời chào,
lời tự giới thiệu… Học sinh thích thú nói về các con vật, người, quang cảnh và
những gì diễn ra xung quanh. Song vốn từ các em còn chưa nhiều, kỹ năng diễn
đạt bằng ngơn ngữ viết của học sinh cịn hạn chế nên đôi khi các em chưa nhận
ra được sự khác biệt giữa ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết.
Ví dụ: Khi học bài tập làm văn tuần 10: Dựa theo lời kể bài 1 hãy viết
một đoạn văn ngắn (từ 3 đến 5 câu) kể về ông, bà hoặc người thân của em.
Bài viết của học sinh :" Bà em đã lên 60 tuổi rồi . Da mịn màng. Tóc dài
và thẳng. Bà cho em bim bim. Bà rủ em đi chợ sau đó hai bà cháu lại đi chơi."
- Học sinh thường viết theo ý hiểu bằng ngơn ngữ của mình cho nên câu
văn chưa giàu hình ảnh, dùng từ chưa phù hợp.
10


Ví dụ: Cũng viết đoạn văn ngắn kể về ơng, bà hoặc người thân ở bài tập
làm văn nói trên có một học sinh viết: “ Ơng em 70 tuổi. Ông là nghề làm
vườn. Hôm nào ông cũng đi tập thể dục bằng xe đạp.”
- Một số bài viết của học sinh còn lộn xộn về câu, ý, dùng từ chưa đúng
vào văn cảnh, câu rời rạc thiếu sự liên kết.
Ví dụ: Đây là đoạn văn của một học sinh khi viết đoạn văn tả về một
loài chim mà em thích ( Tập làm văn tuần 21) như sau:
" Những ngày đi học về em cảm thấy rất nhớ nó. Mỏ nó mượt và nó hót
rất hay. Em rất thương nó và nó đẹp. Bộ lơng nó mượt. Hình dáng của con bồ
câu rất thích thú".
- Đơi khi học sinh viết câu dùng cụm từ so sánh để diễn tả nội dung
song sự so sánh ấy rất khập khiễng.
Ví dụ: Khi viết đoạn văn kể về bà, có em viết : "Da mặt bà em nhăn nheo
như quả bưởi héo". Hay “Mỗi khi bà cười để lộ vài chiếc răng sữa trông rất
duyên.”

- Một lỗi nữa mà học sinh hay mắc là trả lời theo kiểu nắp đuôi cho nên
câu văn thiếu sự hấp dẫn, sinh động.
Ví dụ : Khi dạy bài Tập làm văn tuần 8 để yêu cầu viết đoạn văn kể về cô
giáo (thầy giáo) cũ của em, sách giáo khoa có mấy câu hỏi gợi ý trong đó có
câu hỏi:
+ Tình cảm của cơ đối với học sinh như thế nào?
+ Em nhớ nhất điều gì ở cơ ( thầy)?
+ Tình cảm của em đối với thầy (cơ) như thế nào?
Có em viết như sau: Tình cảm của cô đối với em rất tốt. Em nhớ nhất
điều là cô giáo rất dịu dàng và viết chữ rất đẹp. Tình cảm của em đối với cơ rất
kính trọng.
3.4. Nguyên nhân của thực trạng
3.4.1.Do học sinh chưa có kỹ năng quan sát.
Do tâm lý lứa tuổi, do chưa được rèn luyện thường xuyên nên các em chưa
có cách quan sát cụ thể chi tiết. Các em chỉ quan sát thoáng qua, hời hợt, thậm
11


chí có em cịn khơng để ý đến đối tượng cần quan sát. Thêm vào đó khả năng
tưởng tượng cịn hạn chế, thiếu vốn sống thực tế. Do vậy khi viết đoạn văn cịn
có những câu văn lạc lõng khơng sát thực với yêu cầu của đề bài.
3.4.2.Chưa biết dùng từ, đặt câu,.
Vốn từ của học sinh lớp 2 còn nghèo nàn, chưa hiểu hết nghĩa của từ,
chưa hiểu nhiều về cấu tạo của câu nên khi viết đoạn văn các em cịn nhiều hạn
chế. Các em khơng biết viết thế nào, viết từ đâu để thành một đoạn văn.
3.4.3.Chưa có kỹ năng sắp xếp câu thành đoạn.
Từ chỗ nói chưa thành câu, nói câu cộc lốc nên khi viết các em bị chi phối
nhiều. Hơn nữa các em còn không biết viết câu nào trước, câu nào sau, viết
chưa thành câu đã chấm hết câu, viết xuống dòng tùy tiện do vậy nhiều bài văn
của các em viết không thành đoạn theo dung yêu cầu.

3.4.4.Giáo viên dạy phần lý thuyết chưa tốt.
Nhiều giáo viên chưa chuẩn bị kĩ nội dung bài trước khi lên lớp, chưa
thực sự đổi mới phương pháp, chưa tự giác tự nghiên cứu trau dồi thêm chuyên
môn nghiệp vụ để phục vụ công tác giảng dạy.
3.5. Tiến hành khảo sát
- Sau khi dạy xong bài tập làm văn tuần 8 tôi khảo sát 2 lớp: lớp 2A và 2B
với đề bài như sau :
Đề bài: Em hãy viết một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu kể về cơ giáo
lớp 1 của em.
• Thời gian: 25 phút
Kết quả đạt được như sau:
Điểm
Lớp Sĩ số

9-10

7- 8

5- 6

SL

%

SL

%

SL


%

Dưới 5
SL
%

2B

25

2

8

8

32

8

32

7

28

2A

23


1

4

6

27

9

39

7

30

12


- Nhìn vào bảng số liệu ta nhận thấy ngay rằng tỉ lệ bài viết điểm 9-10 rất
ít mà tỉ lệ điểm 5- 6 và dưới 5 cao.
- Khi viết đoạn văn kể về cô giáo, các em thường bộc lộ các điểm yếu
sau:
+ Về cách diễn đạt như: Từ bị lặp nhiều, dùng từ khơng chính xác. Ví dụ:
có em viết :"Cô giáo em tên là Tâm. Cô Tâm có dáng người cao, cơ Tâm có
mái tóc dài, cơ Tâm có đơi bàn tay rất khéo viết chữ rất đẹp...". Hay có em viết:
Cơ giáo em có đơi mắt lồi như hai hịn bi. Hay cơ có nước da đen như da trâu.
+ Câu không rõ nghĩa, câu không đủ bộ phận, các câu trong đoạn văn
còn lộn xộn, viết đoạn văn mang tính chất trả lời câu hỏi. Ví dụ có em viết :
"Cơ giáo em dạy lớp 1. Có nụ cười tươi. Em rất u q cơ. Có hàm răng trắng.

cơ giảng dễ hiểu. Em rất q cơ"....
+ Có em viết đoạn văn theo cách trả lời nắp đi như sau: Tình cảm của
cơ đối với em rất tốt.
4. Một số biện pháp để rèn kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh lớp 2.
Trước tình hình thực tế và kết quả khảo sát, tôi xin đưa ra một số biện
pháp như sau:
4.1 .Biện pháp 1: Dạy tốt các phân mơn Tập đọc, Luyện từ và câu,
Chính tả.
4.1.1. Với Phân môn Tập đọc :
Nội dung các bài Tập làm văn và Tập đọc đều xoay quanh một chủ
điểm.Qua các bài tập đọc học sinh được mở rộng vốn hiểu biết về đời sống
ngoài ra các bài tập đọc là nguồn ngữ liệu sinh động giúp học sinh tiếp xúc với
vẻ đẹp Tiếng Việt trong hàng trăm tình huống giao tiếp khác nhau...Đây là bài
học tươi nguyên sự sống góp phần rèn luyện sự lĩnh hội và sử dụng Tiếng Việt
cho các em.
Khi dạy tập đọc giáo viên nên hướng cho học sinh những câu văn hay,
hình ảnh đẹp để học sinh biết cách kể, tả ngắn và vận dụng sáng tạo vào bài
viết của mình.
13


“ ...Cành cây lớn hơn cột đình. Ngọn chót vớt giữa trời xanh. Rễ cây nổi
lên mặt đất thành những hình thù quái lạ, như những con rắn hổ mang giận dữ.
(Cây đa quê hương- TV2 – tập 2)
“ Hoa mận vừa tàn thì mùa xuân đến. Bầu trời ngày thêm xanh. Nắng
vàng ngày càng rực rỡ.Vườn cây lại đâm chồi, nảy lộc. Rồi vườn câu lại ra
hoa.Hoa bưởi nồng nàn....”
( Mùa xuân đến- TV 2- tập 2)
“ Chim đại bàng chân vàng mỏ đỏ đang chao lượn, bóng che rợp mặt đất.
Mỗi lần đại bàng vỗ cánh lại phát ra những tiếng vi vu vi vút từ trên nền trời

xanh thẳm, giống như có hàng trăm chiếc đàn cùng hòa âm.”
( Chim rừng Tây nguyên- TV2- tâp 2)
Câu văn, đoạn văn nào hay giáo viên nên hướng đẫn học sinh ghi chép
lại. Tích lũy vốn văn học càng nhiều, ý tưởng văn chương của các em càng
phong phú.
Như vậy Tập đọc và Tập làm văn có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Dạy tốt Tập đọc sẽ giúp học sinh có năng lực cảm thụ văn học, làm giàu hình
ảnh... Để vận dụng vào viết văn và ngược lại.
4.1.2. Với phân môn Luyện từ và câu:
Cần chú ý làm giàu vốn từ cho học sinh nhất là những từ chỉ hoạt động,
trạng thái, từ ngữ về tình cảm, từ chỉ đặc điểm, tính chất. Ví dụ: Tìm những từ
chỉ đặc điểm về tính tình của một người ( Bài 2 trang 122-TV2- tập 1) giáo viên
cho học sinh thi đua làm bài theo nhóm. Nhóm nào tìm được từ đúng và nhanh
nhất nhóm đó là nhóm thắng cuộc. Gọi một số nhóm đọc bài của mình.
Ví dụ: tốt, ngoan, hiền, chăm chỉ, chịu khó, siêng năng, dịu dàng, dũng
cảm, thật thà...
Nhờ vốn từ này các em có thể vận dụng vào Tập làm văn khi kể về
Gia đình em, về người thân của em, về anh chị em.
VD: Hãy viết từ 3 đến 4 câu kể về anh, chị, em ruột (hoặc anh, chị, em
họ) của em.
( Bài tập 3- trang 126- TV 2 -tập 1)
14


Luyện viết câu văn sáng sủa, ngắn gọn, biết sử dụng các dấu ngắt câu
đúng chỗ. Học sinh lớp 2, các em thường chấm phẩy tùy tiện. Vì thế khi dạy
luyện từ và câu giáo viên phải chú trọng luyện cho học sinh viết câu đủ bộ phận
chính, các dạng bài tập đưa ra như sau:
- Đặt câu kiểu Ai là gì ( Ai làm gì?, Ai thế nào?.....)
- Chọn và xếp các từ ở các nhóm để tạo thành câu hoàn chỉnh.

- Cho trước một đoạn văn yêu cầu học sinh đặt dấu câu cho phù hợp.
4.1.3. Với Phân mơn chính tả:
Một bài văn hay khơng thể là một bài văn viết chữ xấu, mắc nhiều lỗi
chính tả. Vì vậy để nâng cao chất lượng dạy Tập làm văn nói chung và viết
đoạn văn ngắn nói riêng cần chú ý dạy tốt mơn chính tả. Điều trước tiên bản
thân giáo viên chúng ta phải phát âm thật chính xác và chú trọng khâu luyện
viết chữ khó trong tiết Chính tả, như:
- Hướng dẫn hiểu nghĩa của từ. Muốn viết đúng học sinh phải hiểu nghĩa
của từ và cách viết của từ đó.
Ví dụ: Muốn biết khi nào viết “ truyện”, khi nào viết “ chuyện” học sinh
phải phân biệt được sự khác nhau về nghĩa của 2 từ này để từ đó rút ra cách viết
đúng chính tả.
+ Viết là “ Truyện” khi muốn chỉ tác phẩm văn học được in ( ví dụ:
Truyện ngắn, truyện cười,….)
+ Viết là “ chuyện” khi muốn chỉ lại một sự việc kể lại ( ví dụ: câu
chuyện cũ, chuyện tâm tình) hay chỉ cơng việc ( ví dụ : chưa làm nên chuyện).
Đặc biệt là trong các bài tập Chính tả nên dạy kĩ để học sinh hiểu nghĩa từ khi
viết.
- Nhắc lại quy tắc viết chính tả:
Ví dụ: Quy tắc viết hoa ( viết hoa tên riêng, viết hoa đầu câu…), quy tắc
viết c/k/q, g/gh, ng/ngh hay i/y…
- Tự chữa những lỗi chính tả thường mắc và cách sửa những lỗi ấy:
Ví dụ:
Viết sai
Viết đúng
khẻo
khoẻ
lảy lộc
nảy lộc
khuia

khuya
Phân mơn Tập làm văn là sự tích lũy kiến thức của các phân mơn Tiếng
15


Việt. Vì thế muốn rèn kĩ năng viết đoạn văn ngắn thì người giáo viên phải giúp
học sinh phối hợp các phân mơn trên vào đoạn văn của mình một cách sáng tạo,
linh hoạt.
4.2. Biện pháp 2: Rèn cho học sinh có thói quen quan sát:
Giáo viên yêu cầu học sinh cần quan sát những sự vật hiện tượng xung
quanh để ghi nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết. Vì qua thực tế đơi khi tơi
cho các em một bài tập tả về cảnh biển, có em nói: “ Em chưa bao giờ nhìn
thấy biển”. Quả đúng như vậy, vì các em được sinh ra và lớn lên ở nơng thơn
nên các em khơng nhìn thấy biển là đúng. Bởi thế, giáo viên cũng cần sưu tầm
những tranh, ảnh để có thể trình chiếu cho các em, cho các em quan sát về cảnh
biển, … hoặc vào dịp nghỉ hè, có những em kể về dự định của gia đình là được
bố mẹ cho đi tham quan, tắm biển. Nhân đó, giáo viên có thể yêu cầu học sinh
quan sát kỹ để có ý tưởng cho đoạn văn tả về cảnh biển.
4.3.Biện pháp 3: Giúp học sinh nắm chắc bố cục của đoạn văn dựa
vào sơ đồ tư duy.
Giáo viên cần tạo cho các em thói quen làm văn phải có bố cục 3
phần : mở đoạn (giới thiệu), thân đoạn (nội dung), kết đoạn ( cảm nghĩ ) và lập
sơ đồ trước khi làm văn. Tôi xin gợi ý một cách lập sơ đồ thông qua một trị
chơi “em và chú gà” như sau . Ví dụ : Khi tả một chú gà, giáo viên cho hai em
lên sắm vai, một em là “chú gà”, một em là “người tả”. Cùng lúc đó, giáo viên
cho học sinh vẽ sơ đồ trên vở nháp.
* “Người tả” sẽ nói một câu để giới thiệu chú gà “nhà em có ni một
chú gà”
* Cịn “chú gà” thì vừa nói vừa diễn tà : “tơi có bộ lơng nhiều màu
sắc. Tơi có cái mào trên đầu. Tơi gáy rất to …”

* Người tả lúc này nói về tình cảm của mình đối với chú gà : “Em
thường rải thóc cho gà ăn …”
Hoặc có thể tinh giảm : Em “người tả” chỉ cần một em sắm vai “chú gà”.
Sau khi nghe học sinh đối thoại xong , giáo viên đưa ra sơ đồ để định
hướng cho học sinh dựa vào đó viết đoạn văn theo ý riêng qua máy chiếu.

16


Giới thiệu về con gà
Đơi cánh

Bộ lơng

Con gà

Gáy

Mào

Thói quen

Đơi chân

Cảm nghĩ về con gà
Từ đó, các em đã nắm được đặc điểm của con vật cần tả mà phát triển
thành một đoạn văn. Hoặc ta có thể cho em hình thành một đoạn văn qua trò
chơi “tiếp sức”.
Từ sơ đồ đã thành lập ở trên, giáo viên yêu cầu học sinh tạo thành các
câu, cứ thể nối tiếp nhau thành lập thành đoạn văn trên giấy nháp. Sau đó giáo

viên chiếu bài của học sinh lên máy chiếu và đánh giá. Có thể câu văn lúc ấy
cịn lủng củng nhưng ta có thể sửa chữa.
4.4.Biện pháp 4: Cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh:
Mỗi đoạn văn là cả một thực tế sinh động diễn ra xung quanh các em.
Song có được đoạn văn theo yêu cầu của bài là cả một q trình học sinh phải
tư duy, phân tích, tổng hợp, sắp xếp….
* Giáo viên cần trang bị cho học sinh một số từ thuộc chủ đề hoặc phù
hợp với văn cảnh.
Ví dụ:
- Tả nắng của mùa hè: nắng chói chang, nắng gắt, nắng như thiêu
như đốt…
- Tả về tiếng hót của chim: hót líu lo, hót véo von, hót vang lừng …
- Tả về hình dáng người.
+ Thân hình : mảnh khảnh, gầy gị, béo trịn, thon thả …
+ Nước da : đen sạm, trắng hồng, bánh mật, xanh xao, ngăm đen …
+ Mái tóc: đen bóng, óng mượt, bồng bềnh, ….
17


+ Khn mặt: Trái xoan, đầy đặn, trịn trịa, xương xương, vng chữ
điền....
Ví dụ:

Tải bản FULL (40 trang): />Dự phịng: fb.com/TaiHo123doc.net

- Khi dạy học sinh viết đoạn văn tả cảnh biển tuần 26 giáo viên gợi mở :
Câu “ Những cánh buồm đủ màu sắc được nắng sớm chiếu vào sáng rực
lên, trông xa như những đàn bướm bay lượn giữa trời xanh cùng với cánh chim
hải âu”. Có thể trả lời cho câu hỏi nào? (Trên mặt biển có những gì ?)
Ví dụ : Qua bài Tơm Càng và Cá Con học sinh rút ra được đoạn văn tả

về chú Cá Con trong bài “Con vật thân dẹt, trên đầu có đơi mắt trịn xoe,
tồn thân phủ một lớp vẩy bạc óng ánh.
Ví dụ : Mặt biển xanh và rộng thành mặt biển xanh ngắt và rộng mênh
mông. Đồng thời để có đoạn văn lơgíc, chặt chẽ cần nối các câu văn lại thành
những từ ngữ liên kết như : và, thì, nếu, vậy, là ….
Lưu ý học sinh trong đoạn văn tránh lặp lại từ nhiều lần mà phải thay
những từ ngữ lặp lại bằng từ có ý nghĩa tương tự ,ví dụ: Bác Hồ thành Bác,
Người… thay những từ ngữ thông thường thành những từ ngữ trau chuốt hơn.
Ví dụ: buổi sáng thành buổi sớm mai, buổi bình minh.
Ví dụ: Sau khi thành lập sơ đồ, có thể các em sẽ thành lập một đoạn văn
như sau : “Nhà em có ni một chú gà. Nó có bộ lơng màu đỏ tía. Nó gáy
rất to. Em rất u nó”. Giáo viên có thể khuyến khích học sinh là “Em làm
đúng nhưng chưa hay. Từ những ý tưởng ban đầu của em, chúng ta sẽ hình
thành một đoạn văn hay hơn nhé : “Chú gà trống nhà em trơng mới oai vệ
làm sao ! Tồn thân chú phủ một lớp lơng vũ màu đỏ tía. Sáng sáng, trống
tía nhảy tót lên đống rơm đầu hè vươn mình, dang đơi cánh to vỗ phành
phạch, rồi gáy vang: ị.. ó.. o. Mỗi khi đi học về, em thường rải cho nó một
ít thóc và vuốt ve cái đi dài cong cong của nó”. Khi đó, học sinh sẽ thấy
được vẫn là ý tưởng cũ nhưng đã thêm những từ ngữ trau chuốt hơn làm cho
đoạn văn đẹp hơn, nghệ thuật hơn.
Giáo viên có thể sưu tầm những bài văn hay và đọc cho học sinh nghe để
học sinh học hỏi. Trưng bày những bài văn hay của các bạn trong lớp để các em
noi gương. Tập ghi chép những từ hay, ý đẹp khi bắt gặp ở đâu đó vào một
18


quyển từ điển riêng của mình. Từ đó, vốn từ của các em sẽ ngày càng nhiều,
càng phong phú.
4.5.Biện pháp 5: Rèn kĩ năng nói cho học sinh:
Kĩ năng nói là phát âm đúng, dùng từ ngữ chính xác, đặt câu đúng quy

tắc ngữ pháp, sắp xếp các ý mạch lạc, kỹ năng nói cịn u cầu học sinh biết
dùng giọng nói và điệu bộ để tăng thêm sức diễn cảm của lời nói.
Để giúp học sinh định hướng đúng bài nói ngay từ bước đầu tiên này
giáo viên cần tạo ra khơng khí lớp học vui vẻ, sơi nổi tạo sự hứng thú và mong
muốn được tìm hiểu bài của học sinh.
Ví dụ: bài “ Chia vui. Kể về anh chị em” giáo viên nên có một số câu hỏi
gợi mở cho các em như :

Tải bản FULL (40 trang): />Dự phịng: fb.com/TaiHo123doc.net

+ Gia đình em có mấy anh ,chị, em?
+ Em yêu quý anh, chị, em nào nhất?
+ Vì sao em lại u q người đó?
Sau đó giáo viên đưa ra sơ đồ và định hướng cách viết cách viết các ý để
có được đoạn văn ngắn kể về anh, chị, em của mình

Giới thiệu về anh ( chị, em)
Tên
Tuổi

Hình dáng

anh ( chị, em)

Nghề nghiệp
Cảm nghĩ về anh ( chị, em)

Tính nết
Thói quen


Như vậy học sinh đã được tự vào bài và chiếm lĩnh kiến thức một cách tự
nhiên, khơng cịn cảm giác bị gị ép, chán nản nữa.
- Giáo viên cần chú trọng hoàn cảnh giao tiếp vì:
Học sinh khơng thể nói hoặc sẽ khơng muốn nói trong điều kiện lớp ồn
ào hoặc có thái độ khơng tơn trọng thể diện của người nói. Bởi vậy khi luyện
19


tập làm văn nói cho học sinh, giáo viên cần hết sức chú ý tới hoạt động chung
về mọi mặt của cả lớp. Một lời động viên, một ánh mắt trìu mến của thầy cơ
giáo, sự lắng nghe chăm chú nghiêm túc của bạn bè cả lớp sẽ là một niềm động
viên lớn giúp các em tự tin, mạnh dạn trong khi nói.
Giáo viên khơng nên ngắt lời học sinh và tiếp lời các em phải đúng lúc,
đúng chỗ. Sự đứt mạch trong suy nghĩ sẽ làm các em lúng túng và nhiều khi
khơng thể tiếp tục trình bày lại được. Chỉ khi thật cần thiết, giáo viên mới dừng
lời nói của học sinh và tránh tình trạng một bài nói của học sinh phải dừng tới 2
đến 3 lần khi các em đang trình bày.
Giúp học sinh chọn giọng nói thích hợp nói đều đều, nói to q, hay bé
q , nói đứt qng khơng liên tục, nói hết ý trước mà vẫn không nối tiếp được
ý sau… đều hạn chế đến kết quả trình bày.
Tập cho học sinh thói quen tránh những lời nói khơng đúng chỗ, cử chỉ
thừa, những thói quen xấu có ảnh hưởng tới hiệu quả của lời nói, tránh nói như
đọc thuộc lịng.
Dạy học Tiếng Việt chính là việc dạy cho các em cách tổ chức giao tiếp
bằng ngơn ngữ. Muốn cho viếc trình bày bài nói của học sinh có hiệu quả, kích
thích hứng thú luyện nói của các em, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm
được nghệ thuật nói, cụ thể là:
+ Nói đúng yêu cầu đề bài.
+ Chọn cách nói phù hợp với đối tượng ( người nghe)
+ Phong cách tự nhiên, biết điều khiển giọng nói.

Cuối cùng giáo viên cần chỉ rõ ưu khuyết điểm trong cách trình bày bài
nói của học từ đó có hình thức khên thưởng, động viên kịp thời.
4.6. Biện pháp 6: Rèn kĩ năng viết cho học sinh:
* Để có kĩ năng viết đoạn văn tốt giáo viên cần rèn cho học sinh kĩ năng
nói gãy gọn, trọn vẹn ý, khơng nói câu cụt.
Ví dụ: Khi tả ngắn về con chim mà em yêu thích, có học sinh nói: “Chim
chích ch cứ sáng sớm, trên cây xồi nhà em nó đậu rồi nó hót”.
Giáo viên cần phải phân tích cho học sinh:
20
6615573



×