Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Luận Văn Thế Giới Nghệ Thuật Trong Truyện Ngắn Hồ Anh Thái 5467321.Pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.99 KB, 40 trang )

67

Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái
Luận văn thạc sĩ văn học
Người viết: Nguyễn Thị Huế
Lớp cao học Văn học Việt Nam khóa I (2010-2012)
Người hướng dẫn: TS Hỏa Diệu Thúy
Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thuộc thế hệ các nhà văn thời hậu chiến, khi Hồ Anh Thái tạo được ấn
tượng thì trên văn đàn Việt Nam đã xuất hiện những cái tên lừng lững: Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Khải, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, và sau này là Nguyễn Huy
Thiệp, Phạm Thị Hoài v.v… Song, giống như trong một cuộc thi chạy việt dã,
người xuất phát trước chưa hẳn đã là người cán đích. Trong hành trình đổi mới văn
học Việt Nam sau 1975, cái đích vẫn cịn ở phía trước, nhưng có cây bút dường
như đã tạm bằng lịng, thậm chí có người đã "giã từ vũ khí", hoặc "rời cuộc chơi".
Theo quan sát của chúng tôi, trong số không nhiều cây bút càng viết càng tỏ ra
trường sức và lôi cuốn, Hồ Anh Thái nổi lên như là một đại diện tiêu biểu. Truyện
của Hồ Anh Thái thu hút độc giả bởi vốn sống và vốn văn hóa lịch lãm của một
nhà ngoại giao, sự tinh nhạy và sắc bén trong tiếp cận và nắm bắt hiện thực của
một nhà báo, sự thâm trầm sâu sắc của một tiến sĩ Đông phương học và hơn cả là
một trái tim yêu thương cuộc sống, con người cùng với một tình yêu văn chương
đến đam mê.
1.2. Hồ Anh Thái thành công ở cả tiểu thuyết và truyện ngắn. Nhưng ở đề tài
này, chúng tôi chọn khảo sát truyện ngắn, thể loại đến sớm nhất và luôn đều đặn
xuất hiện trong hơn ba mươi năm cầm bút, thậm chí nhiều truyện ngắn đã trở thành
"vốn" cho những tiểu thuyết sau này của tác giả. Truyện ngắn của Hồ Anh Thái
được độc giả, dư luận quan tâm nhiều. Đã có nhiều bài viết và cơng trình nghiên


cứu, đánh giá về một số phương diện trong tác phẩm của Hồ Anh Thái nhưng chưa
có cơng trình nào đi sâu tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong sáng tác nói chung cũng
như trong truyện ngắn của nhà văn.


1.3. Tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn có tầm quan
trọng đặc biệt, là cơ sở để hiểu hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm, quan niệm
và cách cắt nghĩa của nhà văn về thế giới. Nó cho phép người đọc thâm nhập một
cách đầy đủ vào bản chất cuộc sống trong tác phẩm cùng những hình thức thể hiện
cơ bản nhất. Việc lựa chọn một tác giả tiêu biểu, có đóng góp đáng kể cho văn xuôi
Việt Nam giai đoạn sau 1975 từ hướng tiếp cận thế giới nghệ thuật thiết nghĩ là
việc làm có ý nghĩa.
1.4. Nghiên cứu một cây bút đã tạo được dấu ấn, có cơng thúc đẩy q trình
đổi mới nền văn học dân tộc, chúng tơi muốn góp phần vào việc định vị những tên
tuổi của nền văn xuôi Việt Nam đương đại. Hiện nay, việc lựa chọn nghiên cứu,
giảng dạy tác giả và tác phẩm văn học sau 1975 ở các cấp học từ phổ thông đến đại
học dường như vẫn đang trong giai đoạn tìm tịi, phát hiện và thẩm định (bằng
chứng là việc chỉnh lý, hoán đổi các tác phẩm vẫn diễn ra thường xuyên trong các
sách phổ thơng và vẫn chưa có một giáo trình nghiên cứu hoàn chỉnh về giai đoạn
văn học này ở bậc đại học). Như vậy, tìm hiểu một tác giả đã và đang khẳng định
phong cách, cá tính nghệ thuật, hy vọng sẽ hữu ích cho sự lựa chọn, giới thiệu
những gương mặt xuất sắc trong hành trình đổi mới nền văn học Việt Nam sau
1975. Và bên cạnh mục đích làm sáng tỏ thế giới nghệ thuật truyện ngắn Hồ Anh
Thái, phần nào chỉ ra những đóng góp của nhà văn trong đổi mới nghệ thuật thể
loại, nghiên cứu đề tài cũng giúp ích cho việc dạy học truyện ngắn hiện đại của
chúng tơi.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu Thế giới nghệ thuật trong
truyện ngắn Hồ Anh Thái với mong muốn góp phần nhỏ bé vào lĩnh vực nghiên
cứu văn xi đương đại, từ đó khẳng định vị trí của nhà văn Hồ Anh Thái trong
nền văn học hiện đại Việt Nam.

2. Lịch sử vấn đề
Với lối viết thông minh, trẻ trung của một nhà văn có tầm văn hóa, các tác
phẩm của Hồ Anh Thái ngay từ đầu đã có sức hấp dẫn đặc biệt, chứng tỏ khả năng
thu hút sự quan tâm, chú ý của đông đảo bạn đọc, của dư luận trong và ngồi nước.
Số lượng bài viết, cơng trình nghiên cứu về tác phẩm của Hồ Anh Thái khá nhiều.
Chỉ kể riêng các bài viết, lời giới thiệu của các nhà xuất bản, của giới nghiên cứu,
đồng nghiệp... theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi đã lên tới khoảng trên 100
bài. Thêm nữa, trong vòng khoảng 7, 8 năm trở lại đây, các tác phẩm của Hồ Anh
Thái khi đã được công chúng thẩm định, thực sự đã trở thành nguồn đề tài, đối
tượng nghiên cứu của nhiều công trình khoa học. Đến nay, đã có trên 20 luận văn
thạc sĩ và khóa luận tốt nghiệp đại học nghiên cứu về sáng tác của nhà văn này.
Các bài viết, các cơng trình nghiên cứu đã tìm hiểu, thẩm định giá trị văn
chương Hồ Anh Thái trên hầu hết các phương diện từ nội dung, tư tưởng tới hình
thức nghệ thuật với những cách tiếp cận, kiến giải khác nhau, song nhìn chung đều
đồng tình ghi nhận năng lực tư duy và khả năng sáng tạo nghệ thuật của nhà văn,
thống nhất khẳng định Hồ Anh Thái là cây bút đa phong cách, "có cố gắng tìm tịi
một lối đi riêng trong phương pháp tiếp cận và phản ánh hiện thực" [98].
2


Hồ Anh Thái chủ yếu viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Hai mảng thể loại chủ
lực này của tác giả cũng khó cân đo tầm vóc, giá trị, thành cơng. Mỗi thể loại với
Hồ Anh Thái có một thế mạnh riêng. Trần Thị Hải Vân cho rằng: "Tiểu thuyết là
phần quan trọng nhất trong sáng tác của Hồ Anh Thái, thể hiện sức bút mạnh mẽ
của anh" [91]. Trong khi đó, Điêu Thị Tú Uyên lại khẳng định: truyện ngắn của Hồ
Anh Thái mới là mảng thành công hơn cả. Nó tập trung thể hiện sâu đậm tư tưởng,
chủ đề, giọng điệu của nhà văn. Và "... người ta thấy ở đây những yếu tố mới lạ,
hấp dẫn từ nội dung, tư tưởng đến các thủ pháp nghệ thuật" [91].
Theo chúng tơi, bài viết và cơng trình nghiên cứu về truyện ngắn của Hồ
Anh Thái có thể tập hợp theo hai hướng cơ bản như sau:

* Hướng nghiên cứu tập trung vào một truyện hoặc một tuyển tập cụ thể
Ở hướng này, thường là các bài phê bình, cảm nhận về một truyện ngắn có
nét độc đáo, thú vị; là những bài phỏng vấn, điểm sách hoặc lời giới thiệu, lời bàn
của dư luận về một tuyển tập truyện ngắn của tác giả vừa ra mắt người đọc và hàng
loạt bài nghiên cứu được đăng rải rác trên các báo, các tạp chí như: tạp chí Nghiên
cứu văn học, tạp chí Nhà văn, báo Văn nghệ, báo Thể thao và văn hóa... Có thể kể
tên một số nhà nghiên cứu, người đọc gắn bó và tâm huyết với tác phẩm Hồ Anh
Thái ở trong và ngoài nước như: Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thị Minh Thái,
Phạm Xuân Nguyên, Hoài Nam, Ma Văn Kháng, Vũ Bão, Ngô Thị Kim Cúc, Đỗ
Hải Ninh, Lê Hồng Lâm, Võ Anh Minh, W. Karlin, K. Pankey, W. Ehrhart, P.
Gambon... Xin điểm qua một số đánh giá mà theo chúng tôi là đáng chú ý hơn cả
về các tập truyện ngắn tiêu biểu của Hồ Anh Thái:
Về tập truyện Tiếng thở dài qua rừng kim tước, đáng ghi nhận nhất là ý
kiến của tiến sĩ văn học người Ấn K. Pankey. Ông coi những truyện ngắn về Ấn
Độ của Hồ Anh Thái là "những mũi kim đã điểm trúng huyệt tính cách Ấn Độ"
khiến họ "nhìn thấy đúng cái bóng quẩn dưới chân mình" [70; tr 340].
Ngơ Thị Kim Cúc thì khẳng định: mười một truyện ngắn về Ấn Độ chính là
"một hành trình đi vào những thân phận bất hạnh luôn đưa tới những tiếng thở dài
sâu tận bên trong, nhất là khi những hình ảnh được phản chiếu kia dường như
thấp thoáng gương mặt của chính mình, gương mặt Việt Nam" [70; tr 319]. Đỗ Hải
Ninh cũng có lý khi nhận định: "Mỗi truyện ngắn của Hồ Anh Thái đều mong
muốn mở ra một nhận thức nào đó về thân phận con người, bản chất sự tồn tại, ý
nghĩa cuộc sống với một thủ pháp thường xuyên được sử dụng là xây dựng huyền
thoại" [70; tr 321].
Cũng nói về chiều sâu trong cách phản ánh hiện thực của nhà văn, Vũ Bão
có nhận xét: "Hồ Anh Thái... khơng phải là người quan sát bên ngồi cuộc sống Ấn
Độ, anh đã đi sâu vào được bên trong những u uẩn tâm hồn, những ám ảnh tâm
linh của một dân tộc..." Qua những "mảnh đời trôi dạt khắp nẻo đường cát bụi trên
đất Ấn Độ để lần tìm nỗi niềm của những số phận..., suy nghĩ về lẽ đời để mà
chiêm nghiệm về thân phận con người ở khắp nơi trên thế gian này" [70; tr 318].

Trong khi phần lớn các tác giả đánh giá về nội dung, về chiều sâu văn hóa và
cách nhìn hiện thực của nhà văn trong tập truyện thì Nguyễn Đăng Điệp cho rằng:
3


về mặt nghệ thuật, "sức hút của văn phong Hồ Anh Thái còn nằm ở chỗ anh biết
phủ lên thế giới nghệ thuật của mình những màu sắc tượng trưng, siêu thực và gắn
với nó là khả năng tổ chức những kiểu, những giọng điệu khác nhau" với cách
phản ánh "vượt qua lối miêu tả hiện thực giản đơn, tạo nhiều biểu tượng, ẩn dụ
nghệ thuật giàu sức gợi..." [70; tr 323].
Cũng cần nhắc đến đánh giá của nhà văn Mỹ W. Ehrhart trong lời giới thiệu
cho bản in tiếng Anh Tiếng thở dài qua rừng kim tước: "Các tác phẩm... hướng
những độc giả nghĩ cả vào chiều sâu văn hóa, văn học và cả xã hội Việt Nam. Đây
là cuốn sách giá trị và đáng thưởng thức của một nhà văn xuất sắc thuộc thế hệ
sau chiến tranh Việt Nam" [70; tr 342].
Tập truyện ngắn Tự sự 265 ngày lại là một góc nhìn khác của Hồ Anh Thái
về hiện thực. Dễ dàng nhìn thấy sự thay đổi giọng văn của tác giả khác hoàn toàn
với thời kỳ đầu: trào lộng, châm biếm, hóm hỉnh và sắc sảo. Theo Ngô Thị Kim
Cúc, 11 truyện ngắn "đều phác vẽ những chân dung trí thức, kẻ sĩ của thời đại
bằng giọng cười xót đau của một Hồ Anh Thái tinh quái đến suồng sã khi vẽ nên
một tập hợp chân dung kiểu như thế, khi bắt người đọc phải cười đau như thế!"
[71; tr 233]. Và với Hồng Lan Anh: "Đó là những bức chân dung đáng được đọc
và suy nghĩ" [71; tr 236]. Cịn Vũ Bão thì tâm đắc với "lối vẽ" của Hồ Anh Thái:
"không phải vẽ truyền thần mà dùng ngòi bút sắc sảo dựng lên những chân dung
công chức với đầy đủ mảng sáng tối", rằng: nhà văn đã "dùng mũi kim vừa "châm"
vừa "cứu" đúng huyệt tính cách giới cơng chức" [71; tr 243-244].
Các bài phỏng vấn của Lê Hồng Lâm (Báo Sinh viên 9/2001) và Nguyễn Thị
Minh Thái (Báo Thể thao và Văn hóa 3/2005) đều cho thấy quan điểm thống nhất
của Hồ Anh Thái về phong cách "phong cách không phải là cái vỏ ngoài bất biến
và ngoan cố", quan điểm này đã lý giải cho sự thay đổi phong cách của Hồ Anh

Thái ở hai tập truyện nói trên.
Ngồi hai tập truyện ngắn đã nói đánh dấu hai thời điểm sáng tác được coi là
rất thành công của Hồ Anh Thái, các tập truyện Mảnh vỡ của đàn ông, Bốn lối
vào nhà cười và gần đây là Sắp đặt và Diễn cũng thu hút được sự quan tâm của
độc giả.
Về tập Bốn lối vào nhà cười, Xuân Hạo cho rằng: Hồ Anh Thái đã tạo được
cách cấu trúc khá độc đáo nhuốm màu sắc Phật giáo theo lối Khổ đế, khởi bằng
Sinh và kết bằng Tử. Nhà văn lý giải cấu trúc này với quan niệm: "Cuộc đời đúng
là một nhà cười... Tôi cũng khơng muốn làm ai phải khóc. Chỉ vì đối với tơi cuộc
đời nhiều khi buồn q, buồn q thì phải cười. Vậy thôi" [93].
Sắp đặt và Diễn là tập truyện được sắp đặt theo ba giai đoạn sáng tác của
nhà văn cùng với sự thay đổi phong cách mà Nguyễn Thị Thu Huệ cho là "sự nỗ
lực dũng cảm trong việc dấn thân tìm tịi cách biểu hiện khác với chính mình" [96].
Theo Phạm Xn Ngun, ba giai đoạn đó gồm: giai đoạn "tiền Ấn Độ" là sự ngó
nghiêng nhìn vào cuộc đời với sự tin cậy và những ước mơ, khát vọng; giai đoạn
"Ấn Độ" là nhân sinh quan được chiếu rọi bởi những triết lý Phật giáo thơng qua
những mảnh đời, những số phận... để nói về kiếp người với bao nỗi sâu cay; còn
4


giai đoạn ba thực sự thay đổi phong cách: hài hước, châm biếm... và ám ảnh bởi
những chi tiết [96].
Những bài viết trên đây được xem là những gợi ý quý báu và bổ ích cho việc
nghiên cứu truyện ngắn Hồ Anh Thái của chúng tôi. Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ
dừng lại ở những nhận xét bước đầu hoặc nêu một số cảm nhận, đánh giá khái quát
chứ chưa đi sâu nghiên cứu, phân tích một cách cụ thể, hệ thống về truyện ngắn
của nhà văn này.
* Hướng nghiên cứu về một vấn đề có liên quan đến toàn bộ sáng tác
hoặc một mảng thể loại trong sáng tác của Hồ Anh Thái
Ở hướng này, có những bài viết chuyên sâu hoặc các luận văn, khóa luận

tốt nghiệp, báo cáo khoa học. Điều này chứng tỏ sáng tác của Hồ Anh Thái đã tạo
dựng được một chiều sâu trong tư tưởng và phong cách, không chỉ dày dặn về số
lượng mà còn hấp dẫn bởi chất lượng nghệ thuật. Hướng nghiên cứu này có hai
dạng:
Thứ nhất, nghiên cứu bao quát toàn bộ tác phẩm của Hồ Anh Thái
Trong số các bài viết chuyên sâu, nổi bật hơn cả là bài viết của Nguyễn Đăng
Điệp - Hồ Anh Thái, người mê chơi cấu trúc [77; tr 355-372] với những nhận định
khái quát và xác đáng. Tác giả đã khảo sát cách chơi cấu trúc của Hồ Anh Thái ở cả
truyện ngắn và tiểu thuyết. Ngồi ra, cịn có thể kể đến các bài nghiên cứu của Hoài
Nam (Hồ Anh Thái - người lúc nào cũng viết), của Anh Chi (Hiện tượng văn
chương Hồ Anh Thái), bài viết của Lê Hồng Lâm, Hoàng Lan Anh [77; tr 245256]... trên các báo với những đánh giá, nhận xét chung về phong cách, về những
đóng góp cũng như hành trình sáng tạo của nhà văn này...
Thứ hai là dạng nghiên cứu một vấn đề trên phương diện thể loại
Ngoài những bài viết của giới nghiên cứu, tác phẩm của Hồ Anh Thái cũng
thu hút sự quan tâm tìm hiểu của sinh viên, học viên cao học khi thực hiện khóa
luận, luận văn thạc sĩ. Truyện của Hồ Anh Thái đã được nghiên cứu ở một số
phương diện như: quan niệm nghệ thuật về con người, thế giới nhân vật, tiếng
cười, người kể chuyện không đáng tin cậy, kết cấu, nghệ thuật trần thuật v.v... (xin
xem cụ thể ở mục Tài liệu tham khảo).
* Riêng về vấn đề Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái đã
có những ý kiến như sau:
Nguyễn Đăng Điệp đánh giá: "Chiều sâu trong cái nhìn hiện thực của Hồ
Anh Thái trước hết thể hiện ở chỗ anh biết vượt qua những lối mòn của tư duy coi
văn học như là tấm gương phản ánh hiện thực một cách đơn giản... Đó khơng phải
là thứ hiện thực "dẹt", "phẳng" mà góc cạnh, nhiều chiều". Theo Nguyễn Đăng
Điệp, Hồ Anh Thái bao giờ cũng tạo được cái nhìn riêng về thế giới và như đã nói
ở trên: độ sắc trong những trang viết của Hồ Anh Thái lộ ra ở chỗ anh "dám nhìn
thẳng vào những mảnh vỡ, những bi kịch nhân sinh, mổ xẻ nó bằng cái nhìn trung
thực, táo bạo". Quan trọng hơn, "phía sau những bi kịch nhân sinh, nhà văn không
mất đi niềm hy vọng vào con người" [77; tr 356-358].

5


Ma Văn Kháng thì cho rằng: Trên con đường sáng tạo đầy bản lĩnh của
mình, Hồ Anh Thái ln làm nên cái bất ngờ: ... "điều thú vị ở từng con chữ có đời
sống là lạ, ở mỗi tình tiết giàu sức khám phá, ở các mối liên tưởng lạ lùng mà gần
gũi, ở tổng thể câu chuyện nó mở ra một góc nhìn nhân sinh, nó cho ta thấy tính
đa tầng, những thực tại nhìn thấy và khơng nhìn thấy, những ấn tượng đặc sắc
thông qua chủ đề của nó ở chính cuộc đời này, hơm nay..." [77; tr 298]. Đánh giá
về sáng tác của Hồ Anh Thái qua các thời kỳ, Tôn Phương Lan nhận định: Cũng
như những nhà văn khác, trong quá trình tiếp cận đời sống, nhà văn đã nhìn ra
được những nấm độc, cỏ dại đang mọc lên trên mảnh đất bao năm sống trong
nghèo đói, chiến tranh và tìm cho mình cách hành xử thích hợp... Biên độ của hiện
thực được nới rộng hơn bằng cảm quan chứa đầy những yếu tố kỳ ảo... Cho tới
những trang viết gần đây, đọc Hồ Anh Thái, ta cảm giác như đang tiếp xúc với các
mảnh vỡ khác nhau của hiện thực: đa dạng về kiểu dáng và phong phú về sắc màu.
Những trang viết của anh tươi nguyên hơi thở của đời sống gấp gáp đầy bon chen,
vất vả... với lối viết luôn mới trong giọng điệu và ngơn ngữ [70].
Cịn Nguyễn Thanh Nga trong luận văn về Cái kỳ ảo trong văn chương Hồ
Anh Thái cũng đã đề cập thế giới nghệ thuật của nhà văn với vai trò của yếu tố kỳ
ảo. Theo tác giả này, "Hồ Anh Thái đã tạo nên một thế giới mà ở trong đó có sự
hịa quyện giữa cái thực và cái ảo. Sự hiện diện của cái ảo đã tạo nên chiều sâu
chiếm lĩnh hiện thực trong văn chương Hồ Anh Thái". "Trên cốt lõi hiện thực, Hồ
Anh Thái xen vào yếu tố kỳ ảo tạo nên một thế giới bí ẩn, lung linh hư thực; trình
bày quan niệm về một thế giới đa chiều, đầy biến ảo, chất chứa những điều phi lý,
bất ngờ, ngẫu nhiên; phá vỡ quan niệm về một hiện thực tuyệt đối biết trước"...
[47; tr 4].
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, chúng tơi nhận thấy: truyện ngắn Hồ Anh
Thái nói chung, thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái nói riêng đã,
đang và sẽ là những vấn đề rất được quan tâm. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết các

ý kiến nhận xét, đánh giá về Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái
mới chỉ dừng lại dưới dạng một bài viết, hoặc là một vài ghi nhận còn sơ lược, lẻ tẻ
(nằm trong luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp đại học, báo cáo khoa học...),
chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách chun sâu và có tính hệ thống,
tồn diện về vấn đề này. Chúng tơi xem đó là mảnh đất cịn để ngỏ hứa hẹn những
khám phá mới nhằm góp phần tìm hiểu về một cây bút có nhiều cống hiến vào việc
thúc đẩy sự phát triển của nền văn học Việt Nam đương đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
''Mọi sản phẩm nghệ thuật đều là một thế giới riêng, mà khi đi vào đó ta
buộc phải sống theo các quy luật của nó, hít thở khơng khí của nó'' [62; tr 29]. Và
theo Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử và Nguyễn Khắc Phi
chủ biên, NXB Giáo Dục, 2000): ''Thế giới nghệ thuật là một thế giới riêng được
sáng tạo theo các ngun tắc tư tưởng, thẩm mỹ, có khơng gian riêng, thời gian
riêng, có quy luật tâm lý riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang
6


bậc giá trị riêng". Mỗi thế giới nghệ thuật ''ứng với một quan niệm về thế giới, một
cách cắt nghĩa về thế giới''. Thế giới nghệ thuật giúp ta ''hình dung tính độc đáo về
tư duy nghệ thuật của sáng tác nghệ thuật, có cội nguồn trong thế giới quan, văn
hóa chung, văn hóa nghệ thuật và cá tính sáng tạo của nghệ sĩ'' [19; tr 302-303].
Từ quan niệm trên, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu của luận văn là
"thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái".
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát tất cả truyện ngắn của
Hồ Anh Thái, chủ yếu tập trung trong các tập truyện tiêu biểu sau:
- Mảnh vỡ của đàn ông, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tái bản năm 2006.
- Tiếng thở dài qua rừng kim tước, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2003.
- Tự sự 265 ngày, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.

- Bốn lối vào nhà cười, Nxb Đà Nẵng, 2004.
- Sắp đặt và Diễn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2005.
và một số truyện ngắn khác được đăng rải rác trên các báo gần đây...
4. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là hướng tới nhận diện và chỉ ra những
nét đặc trưng của thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái. Từ mục đích
nghiên cứu trên, chúng tơi xác định nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là tập trung
làm rõ những phương diện cơ bản trong thế giới nghệ thuật truyện ngắn Hồ Anh
Thái:
- Bức tranh hiện thực trong truyện ngắn Hồ Anh Thái
- Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái
- Phương thức phản ánh (một số phương thức tổ chức thế giới nghệ thuật
tiêu biểu) trong truyện ngắn Hồ Anh Thái...
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở quan điểm lịch sử, quan điểm khoa học liên ngành và hướng tiếp
cận thi pháp học, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phối hợp
những phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tiểu sử: Luận văn sử dụng các yếu tố tiểu sử để soi sáng thêm
thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Hồ Anh Thái. Trong đó, có sự lưu ý đến
dấu ấn nghề nghiệp, môi trường sống đã in đậm trên trang viết của nhà văn.
- Phương pháp loại hình: Đây là phương pháp nghiên cứu dựa trên những
nguyên tắc, đặc điểm chung về mặt thể loại, thẩm mỹ của truyện ngắn trong bối
cảnh văn học mà nó tồn tại. Từ đó, góp phần xác định quy luật vận động và phát
triển của truyện ngắn trong văn xuôi đương đại Việt Nam nói chung và trong sáng
tác của Hồ Anh Thái nói riêng.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu: Nghiên cứu thế giới nghệ thuật trong
truyện ngắn Hồ Anh Thái cần đặt nó trong sự đối sánh giữa các thời kỳ sáng tác, so
7



sánh với tiểu thuyết (của Hồ Anh Thái) để thấy được sự vận động của hành trình
sáng tạo cũng như những biến đổi trong phong cách của nhà văn. Ngoài ra, cũng
cần so sánh truyện ngắn của tác giả này với truyện ngắn trước 1975 để thấy sự kế
thừa và phát triển; so sánh với một số cây bút truyện ngắn đương đại tiêu biểu
nhằm chỉ ra những sáng tạo, nét độc đáo của thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn
Hồ Anh Thái.
- Phương pháp hệ thống - cấu trúc: Nghiên cứu toàn bộ truyện ngắn của Hồ
Anh Thái với quan niệm thế giới nghệ thuật là sự tổng hòa của nhiều yếu tố, nhiều
phương diện và mỗi phương diện lại là một tiểu hệ thống bao gồm những biểu hiện
cụ thể. Ý nghĩa của phương pháp này là giúp người viết đưa ra được cái nhìn, cách
đánh giá tồn diện cho vấn đề nghiên cứu.
- Phối hợp các phương pháp: Trong q trình thực hiện luận văn, người viết
cịn sử dụng phối hợp các phương pháp (cũng được xem là thao tác) quen thuộc
như: khảo sát, thống kê, phân tích - tổng hợp, đánh giá - khái quát, thống kê, phân
loại... cho việc xây dựng các luận điểm, luận cứ nhằm đi sâu tìm hiểu các phương
diện khác nhau của thế giới nghệ thuật truyện ngắn Hồ Anh Thái, đồng thời có sự
tổng hợp, khái quát hóa để đi đến những nhận xét tổng thể.
6. Đóng góp của luận văn
Đây là cơng trình nghiên cứu một cách hệ thống những phương diện cơ bản
của thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái. Từ đó, chúng tơi mong
muốn góp phần khẳng định những đóng góp của nhà văn trong lĩnh vực truyện
ngắn của văn xuôi Việt Nam đương đại.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được triển khai thành ba chương:
- Chương 1. Bức tranh hiện thực trong truyện ngắn Hồ Anh Thái
- Chương 2. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái
- Chương 3. Một số phương thức tổ chức thế giới nghệ thuật

8



Chương 1
BỨC TRANH HIỆN THỰC
TRONG TRUYỆN NGẮN HỒ ANH THÁI
Từ 1975, cuộc sống hịa bình của đất nước được bắt đầu cũng là lúc nảy sinh
những vấn đề mới mẻ và không kém phần bức xúc thời hậu chiến. Đề tài sử thi, đời
sống chính trị của đất nước khơng còn là đối tượng phản ánh duy nhất của văn học.
Sự mở rộng đề tài phản ánh xuất phát từ cảm hứng và quan niệm mới của nhà văn
về hiện thực. Theo Trần Đình Sử: "hiện thực là thực tại trong mối quan tâm của
con người... Tất cả những gì mà con người tìm thấy có ý nghĩa đối với cuộc sống
và từ đó khám phá những con đường để đi tới một cuộc sống có ý nghĩa tốt đẹp
hơn, thú vị hơn trong nghệ thuật đều là hiện thực" [66].
Trên tinh thần đó, từ một hiện thực được giới hạn trong đời sống chính trị xã hội, lịch sử của dân tộc, truyện ngắn sau 1975 đã tìm đến một hiện thực "lớn"
hơn của đời sống nhân sinh - thế sự, "là hiện thực của đời sống hàng ngày với các
mối quan hệ vốn dĩ đa đoan, đa sự, phức tạp, chằng chịt đan dệt nên những mạch
nổi và mạch ngầm của đời sống" [36; tr 132-133].
Thuộc lớp nhà văn trưởng thành sau 1975, Hồ Anh Thái cũng hòa vào xu thế
chung của nền văn học dân tộc: tiếp cận đời sống ở cảm hứng thế sự, đời tư, đạo
đức... cùng những vấn đề đặt ra trong cuộc sống hịa bình và mn mặt đời thường
của nó. Cảm hứng này bắt nguồn từ sự thức nhận của nhà văn về hiện thực. Bằng
sự mẫn cảm tích cực, Hồ Anh Thái đã thâm nhập ngày càng sâu hơn vào đời sống
xã hội, đời sống nhân sinh, thể hiện nỗi ưu tư, trăn trở của mình trước nhân tâm,
thế sự... qua từng trang viết. Nhà văn bắt đầu sự nghiệp sáng tác của mình bằng
những trang viết với cái nhìn trong trẻo, vô tư, đầy tin cậy vào cuộc đời, và càng về
sau càng có những chắt lắng suy tư, những nỗi niềm xa xót trước cái bộn bề, phức
tạp của đời sống. Với phương châm nhìn thẳng nói thật, cũng như nhiều cây bút
xơng xáo khác, nhà văn truy tìm những căn nguyên làm nảy sinh tiêu cực và dũng
cảm đưa vào trang viết những hiện thực nhức nhối của xã hội, thể hiện tính dự báo
của văn học trong thời kỳ đổi mới.

Hiện thực trong trang viết của Hồ Anh Thái - đó chính là sự hình dung về
thế giới của nhà văn đã được hình tượng hóa mang đậm dấu ấn của thời gian trong
từng chặng đường cụ thể. Đó là cuộc sống của lớp thanh niên, học sinh, sinh viên
thời hậu chiến trước ngưỡng cửa cuộc đời; là những mảng khuất tối trong đời sống
công chức, thị dân thời "mở cửa" và cả những chuyện bi hài của mơi trường văn
hóa, nghệ thuật; là những vấn đề phổ quát của đời sống nói chung... Hiện thực đó

9


được soi chiếu từ những góc nhìn và cảm quan khác nhau vừa hiện thực vừa ít
nhiều lãng mạn, trữ tình, triết lý và sau này là hí lộng.
1.1. Góc nhìn riêng về cuộc sống của lớp người trẻ tuổi thời hậu chiến
1.1.1. Từ môi trường sống của lớp trẻ thời hậu chiến...
Hồ Anh Thái từng nói: "Có lẽ chính là hồn cảnh đã chọn đề tài cho tơi,
sống đâu quen đấy. Khơng thể gọi là đã hiểu, nhưng có thể nói tơi thuộc mơi
trường sống của mình" [94]. Vì lẽ đó mà dấu ấn cuộc đời in đậm trên từng trang
viết của nhà văn. Lần tìm trong sáng tác của Hồ Anh Thái, người đọc dễ nhận ra
những bối cảnh, môi trường sống mà bản thân nhà văn đã trải: từ cuộc sống sinh
viên đến đời sống công chức và công việc của một nhà ngoại giao sau này. Khởi
nghiệp văn chương từ khi còn rất trẻ, mười bảy tuổi, cây bút này đã có truyện ngắn
đầu tay. Sáng tác của Hồ Anh Thái ở thời kỳ đầu hé mở ít nhiều về cuộc sống tuổi
trẻ thời hậu chiến trong học đường, xí nghiệp, nhà máy, cơng trường, qn đội...
Trong đó, nổi lên hai mơi trường chủ yếu mà nhà văn thông thuộc: học đường và
quân đội. Hồ Anh Thái từng là sinh viên đại học Ngoại giao, từng đi lính. Nhà văn
trải nghiệm ở những mơi trường sống này nhiều mối quan hệ của con người với
bạn bè, người thân, với cơng việc, nghề nghiệp, tình u và cả những điều thường
nhật nhất... Trong Lời giới thiệu tập truyện ngắn Mảnh vỡ của đàn ông, Ma Văn
Kháng cho rằng: "những trang viết của tác giả đã thổi vào nền văn học lúc này
một luồng gió tươi mới. Đó là những câu chuyện viết về lớp thanh niên đầy chất

lãng mạn, hồn nhiên, cả lớp người mới lớn ngang ngổ bụi đời" [69; tr 2].
Cùng thời điểm, cùng viết về lớp trẻ song những tiểu thuyết của Hồ Anh
Thái thời kỳ này lại nghiêng về khám phá và thẩm định lại quá khứ bằng cái nhìn
của lớp hậu sinh. Cái nhìn ấy khác với cái nhìn của lớp đàn anh đã trưởng thành
trong cuộc chiến. Đó là những cảm nhận về chiến tranh với những hậu quả mà nó
để lại và sự va đập, đối thoại giữa những quan niệm sống (Người và xe chạy dưới
ánh trăng, Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng hiện ra...). Trong đó có sự
so sánh giữa lớp thanh niên hơm nay với lớp cha anh thế hệ trước mà tình yêu
trong sáng và sự dũng cảm, yêu đời của họ luôn làm ta cảm phục và trân trọng.
Điểm qua các truyện ngắn: Nói bằng lời của mình, Cánh võng khơng người,...
người đọc biết thêm về những gì diễn ra trong cuộc sống của thanh niên, sinh viên ở
mơi trường học đường. Có những màn chào hỏi, gặp gỡ, làm quen dưới giảng
đường, những trị nghịch ngợm của các cơ cậu học trị lém lỉnh... Có con đường
thênh thênh rộng bước khơng vướng bận áo cơm và cả những vất vả mưu sinh để
đến với trang sách, với tri thức và thực hiện ước mơ của cuộc đời... Ở những tháng
năm trong sáng ấy, họ có với nhau những cuộc liên hoan, những lần sinh hoạt văn
hóa, văn nghệ, lao động tập thể. Cũng trong một lần như thế đã làm nảy sinh những
tình cảm tốt đẹp, những kỉ niệm khó qn trong đời người. Chính (Cánh võng khơng
người) đã có một đêm trăng kỷ niệm với người con gái mà mình trân trọng và mến
thương cùng ám ảnh về sự chao đảo đáng sợ của vầng trăng lắc lư như cánh võng
không người.

10


Môi trường quân ngũ cũng là nơi gắn liền với tuổi trẻ trong những ngày tháng
rèn luyện của đời lính. Lớp thanh niên hậu chiến vừa rời ghế nhà trường, thốt ly gia
đình có thể tìm thấy ở cuộc sống quân ngũ một môi trường thử thách và tôi luyện
cho mình trưởng thành. Chiến tranh qua rồi song vẫn cịn đó nỗi đau của những gia
đình có người thân đã mất tích khi làm nhiệm vụ (Mảnh vỡ của đàn ơng) hoặc cịn

có người hy sinh khi tháo gỡ bom mìn sót lại (Nói bằng lời của mình). Với mấy năm
đi bộ đội, Hồ Anh Thái có đủ cho mình những trải nghiệm về đời lính để có cái nhìn
của người trong cuộc. Có thể thấy rõ những điều này qua các truyện ngắn: Mảnh vỡ
của đàn ơng, Có cặp mắt nhìn theo, Nằm ngủ trên ghế băng...
Trong thời gian chờ việc ở nhà máy dệt, Bảo (Mảnh vỡ của đàn ông) đầu
quân cho một đơn vị bộ đội. Tại đây, những điều mới lạ về cuộc sống nhà binh lần
đầu ta được biết. Đó là câu chuyện về nỗi khiếp đảm của người dân khi gặp cánh
lính thời bình: đám công binh quần áo lao động rách rưới ào một cái đến các quán
hàng đóng gần phố núi. Họ bóc bánh ăn, tự tiện mở thẩu lấy kẹo lạc ăn, uống nước
chè... Khi người dân địi trả tiền thì trợn mắt: quân với dân như cá với thớt thế à?
Sở dĩ có việc làm đáng xấu hổ trên là bởi cả hai chiều phân phối chỉ đủ cho đám
lính ăn đói mặc rét nên họ mới làm bậy. Với họ, có làm vậy thì khi bị phạt cùng
lắm cũng chỉ là đi cải tạo ít hơm. Khi đó, họ trở thành "phạm" trong qn đội.
Chính vì vậy mà người dân lại sợ lính hơn cả đám thường phạm.
Trường hợp của Hoạt trong Có cặp mắt nhìn theo lại khác. Anh đi lính là để
thay đổi và hồn thiện mình hơn trong mắt Châu - người con gái mà anh u. Việc
quản lý một đơn vị ni qn tồn là nữ thật chẳng dễ dàng gì, lại thêm cảm giác
ln có cặp mắt dõi theo của Châu làm nhiều lúc anh thấy khó xử và trở nên khó
gần với đám lính nữ mỗi người một tính. Sau một thời gian, Châu cũng nhận ra
Hoạt đã thay đổi nhưng nét nghịch ngợm, láu lỉnh mà cơ thích ở anh cũng khơng
cịn. Đó là những điểm cho thấy anh cần phải chính là anh chứ không phải là một
người khác.
Cũng trong môi trường quân đội, Hiếu - một thanh niên ngang ngổ, ưa dùng
bạo lực làm sức mạnh - dần nên người. Những bài học, những tâm sự của chú Kiên
về tình bạn, về sự hy sinh của lớp cha anh đã làm Hiếu thay đổi. Quan hệ thân tình
giữa hai chú cháu khơng làm mất đi tính kỷ luật của qn đội mà cịn giúp Hiếu có
tác phong thực sự của một người lính để những ngày sống trong doanh trại trở nên
có ý nghĩa tốt đẹp hơn đối với anh (Nằm ngủ trên ghế băng).
Dù chỉ tập trung phản ánh đời sống của lớp trẻ trong một vài môi trường
thông thuộc như đã kể trên song Hồ Anh Thái đã phần nào mở ra một hướng khám

phá hiện thực mới mẻ cho truyện ngắn thời hậu chiến. Những trang viết tươi tắn,
hồn nhiên của một cây bút trẻ cả về tuổi đời lẫn tuổi nghề đã mang lại cho người
đọc nhiều cảm nhận thú vị. Nó như một luồng gió mát lành khác lạ thổi vào đời
sống văn học lúc này. Và điều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là: Hồ Anh Thái
có góc nhìn riêng của người trong cuộc với những trải nghiệm thực sự của đời học
sinh, đời lính để có thể thấu hiểu tường tận đối tượng phản ánh cũng như hiện thực

11


cuộc sống của một thế hệ. Từ đó, dự báo về khả năng vươn xa của nhà văn trong
hành trình sáng tạo sau này.
1.1.2. ... đến những băn khoăn, khát vọng và niềm tin của tuổi trẻ trước
cuộc đời
Cảm quan lãng mạn của tuổi trẻ chưa cho phép truyện ngắn Hồ Anh Thái
thật sự đi sâu phản ánh trực tiếp những vấn đề nổi cộm của hiện thực lúc này. Cái
nhìn hiện thực của nhà văn "trưởng thành" hơn trong các tiểu thuyết. Dù vậy, ta
vẫn thấy ở đây sự đằm lắng bởi những băn khoăn của tuổi trẻ trước ngưỡng cửa
của cuộc đời. Đó là sự kiếm tìm, xác lập những thang bảng giá trị mới của tuổi trẻ
nói riêng và của con người trong cuộc sống thời hậu chiến nói chung. Điều này
được thể hiện một cách sâu lắng đẹp đẽ trong cuốn tiểu thuyết giàu chất thơ, chất
lý tưởng Người và xe chạy dưới ánh trăng và sau đó là Trong sương hồng hiện ra,
Người đàn bà trên đảo. Trước những thời điểm có tính chất bước ngoặt của cuộc
đời, người ta thường suy tư để lựa chọn hướng đi đúng hay khao khát hoàn thiện
bản thân. Cấu tứ ấy đã trở nên quen thuộc, xuyên suốt các truyện ngắn trong tập
Mảnh vỡ của đàn ông, Những cuộc kiếm tìm, Chàng trai ở bến đợi xe, Đi về phía
mưa...
Những băn khoăn đó là gì? Là câu hỏi về sự lựa chọn giữa hai cách sống:
ngại khó nên chờ ăn sẵn như Khải; hay xông xáo, quyết tâm, khơng sợ gian khổ
như Hồn? (Chàng trai ở bến đợi xe). Là sự kiếm tìm tình yêu theo kiểu gặp chăng

hay chớ hay phải xem nó là vấn đề nghiêm túc? (Những cuộc kiếm tìm). Khi nào
con người mới trưởng thành, mới thực sự có ý thức về trách nhiệm với cuộc sống
của bản thân? (Nằm ngủ trên ghế băng). Phải làm sao tránh những lầm lạc hay
thức tỉnh sau lầm lạc khi mà chỉ một chút nhận thức sai lệch, thiếu niềm tin vào
cuộc đời, anh sẽ mất tất cả và việc lấy lại niềm tin ấy không phải là điều dễ dàng?
(Cuộc săn đuổi).
Nét tươi mới, trẻ trung ở những truyện ngắn đầu tay của Hồ Anh Thái trước
hết đến từ những câu chuyện về tình u khơng cịn nhuốm mùi thuốc súng. Đó
cũng là điều mới mẻ của nội dung truyện ngắn Hồ Anh Thái trong khi sáng tác của
lớp đàn anh vẫn chưa đi hết quán tính của văn học cách mạng. Họ cịn bận bịu với
vấn đề nhận thức lại chiến tranh cùng những góc khuất lấp, bi hài; những sự tréo
ngoe, trái ngang nay mới được hé mở... Mối quan tâm của nhà văn trẻ cũng khơng
ngoại lệ nhưng đó là chuyện anh kể trong tiểu thuyết như chúng tôi đã từng đề cập
ở trên. Trong truyện ngắn, tác giả thể hiện những nhận thức và khát vọng về tình
yêu, về cuộc sống của tuổi trẻ - lớp người cũng trẻ như mình.
Đó khơng phải là những câu chuyện tình lý tưởng, những bản tình ca của
một thời nhằm đề cao, tơn vinh, khẳng định sức mạnh bất khả chiến bại của con
người. Cũng khơng phải là cái ngối nhìn đầy tiếc nuối của những người từng trải
về q khứ. Đó là tình u trẻ trung, hồn nhiên, trong trẻo và lãng mạn gắn liền với
sự kiếm tìm, theo đuổi và khát vọng: người yêu đến như phát hiện của Acsimet về
lực đẩy của nước, như chân lý vơ cùng giản dị cứ tìm rồi sẽ gặp, người đó có khi ở
ngay bên ta, rất gần ta vậy (Những cuộc kiếm tìm). Mặc cảm vì cách hành xử
12


khơng đẹp của mình với bố của người u khiến Hiển khó mở lời. Nhưng Tuấn đã
cho anh cơ hội khi hỏi rằng: Sao anh không đến? Hay chỉ qua lần đầu gặp gỡ (Gặp
nhau có một lần), tình u đến bất ngờ khiến Hùng phải suy nghĩ nghiêm túc
chuyện tình cảm của mình. Cơ gái cùng anh làm người hùng trong cuộc giải thốt
cho ơng bố - cơ gái là một con người đầy bản lĩnh và mạnh mẽ - sao không khỏi

khiến trái tim chàng trai xao xuyến? Và sự động viên của người bạn gái hẳn sẽ
giúp Tứ - người vốn nặng lòng với quá khứ - xóa đi mọi đau buồn, tiếc nuối để đón
chào những điều tốt đẹp đến với mình (Đi về phía mưa).
Kỷ niệm về tình u đẹp trong chiến tranh cịn được nhắc lại trong truyện
ngắn Mảnh vỡ của đàn ông. Châu và Tĩnh yêu nhau chỉ sau vài bận cùng đi làm
nhiệm vụ. Khi họ ở giữa khoảng lặng của hai trận bom: "Phút giây thần tiên bất
ngờ đến - không còn ai nghe tiếng bom rơi đạn nổ nữa, chỉ cịn một dịng suối thao
thiết chảy, có hoa thơm cỏ lạ và ngào ngạt hương rừng" [69; tr 75]. Nhưng chiến
tranh đã làm ly tán họ. Bảo - đứa con trai, kết quả của tình yêu ấy giờ đã trưởng
thành đủ để nhận thức được trách nhiệm của mình trước tổ ấm gia đình, biết hàn
gắn cho những buồn đau của mẹ, của người thân. Anh cảm thấy mình có lý khi đến
với Duyên bằng trách nhiệm, bằng tình thương, muốn bù đắp cho cơ khỏi những
thiệt thịi. Bảo đã khơng dám chắc chắn cho lịng chung thủy của mình dù không
bao giờ dám nghĩ đến chuyện chia ly.
Cánh võng khơng người là câu chuyện tình u đượm buồn. Chính đã cảm
mến Hảo, người con gái hơn mình tới năm, sáu tuổi. Có lẽ vì lây cái ước mơ của
Hảo mà anh cũng theo học ngoại ngữ và họ đã gặp nhau, học cùng nhau dưới một
giảng đường. Chính đã dành cho Hảo một tình cảm vơ cùng trong sáng và thánh
thiện. Người con gái ấy mang vẻ đẹp đôn hậu, dịu dàng nhưng lại đến trong cuộc
đời anh như một ảo ảnh. Sự ra đi lặng lẽ của Hảo là một mất mát khơng gì lấy lại
được. Những bài thơ anh viết sau đó như nhỏ ra từ mấy đầu ngón tay bị đâm cho
chảy máu - và anh biết mình đã thực sự có được cái gì.
Có tình u đẹp đẽ, sáng trong là có một tình cảm đầy ý nghĩa, mang tinh
thần đắp vun, xây dựng và cả sức mạnh của một niềm tin vững vàng. Mang theo
tình yêu ấy đi vào đời, con người sẽ làm nên, sẽ tạo ra những điều tốt đẹp, kỳ diệu
và sẽ vươn xa hơn trong hành trình của cuộc sống sau này.
Bên cạnh những giá trị, ý nghĩa gắn với khát vọng về tình yêu, khát vọng
sống, truyện ngắn Hồ Anh Thái chặng đường đầu cũng thể hiện niềm tin, lòng lạc
quan hướng vào cuộc sống mới. Tinh thần lạc quan đầy ắp những trang viết của nhà
văn trẻ tuổi viết về tuổi trẻ. Khơng phải là khơng có những thất vọng trước những

kiểu người thực dụng, tầm thường, sống buông thả hay khoe mẽ, kiểu cách và giả
tạo (kiểu như Thước, Ê Li trong Những cuộc kiếm tìm, Nhi trong Cánh võng không
người hay gã Mèo Đực trong Gặp nhau có một lần...) nhưng những câu chuyện nói
trên ln khiến ta tin tưởng vào những con người đáng yêu đầy bản lĩnh, có tâm hồn
sáng trong, lành mạnh, biết ước mơ, biết hướng tới lý tưởng cao đẹp của cuộc đời.
Niềm tin ấy gắn với hàng loạt nhân vật xưng "tơi" mang hình bóng tâm tư của tác
giả, với những người con gái như Hạnh, Dung, Tuấn sớm biết lo toan, sống có trách
13


nhiệm và giàu tình thương yêu với gia đình, bè bạn. Đó là những đồng đội tốt bụng,
vơ tư như bác Đằng, bác Đắc, chú Kiên... ln có sự định hướng kịp thời, quan tâm,
lo lắng, bảo ban cho lớp trẻ với mong muốn giúp họ nên người. Và đặc biệt, những
suy tư của nhân vật "tôi" trong Những cuộc kiếm tìm, Chàng trai ở bến đợi xe,
Mảnh vỡ của đàn ông... cũng làm ta chứa chan hy vọng.
Như vậy, tuổi trẻ với sức mạnh, lòng nhiệt huyết, biết sống với tình yêu đẹp
và biết chọn hướng đi đúng đắn trong cuộc đời sẽ tự mở ra cho mình một tương lai
đầy hứa hẹn... Tất cả những điều nói trên tạo cho trang viết của Hồ Anh Thái ánh
sáng của niềm tin dù rằng những khốn khó, những bi kịch cuộc đời và những bộn
bề của thực tế vẫn còn làm cho người ta phải vướng bận, băn khoăn. Bức ảnh Hoàn
chụp để lại cho Khải (trong Chàng trai ở bến đợi xe) đã nói lên điều đó. Cuộc sống
lao động đầy bụi bặm, đầy nắng gió mới thực sự là nơi tôi luyện con người. Giữa
đống gạch đá, sắt thép ngổn ngang ấy, trơng Hồn thật rắn rỏi, chững chạc, vững
vàng. Đó là tư thế đẹp nhất của tuổi trẻ.
1.2. Đời sống công chức, thị dân trong guồng quay của cuộc sống đương đại
Từ sau đổi mới, chúng ta lại phải đối mặt với một cuộc chiến khác. Đó là
cuộc chiến gian khổ và hết sức phức tạp giữa cái mới và cái cũ, cái tiến bộ và lạc
hậu, giữa cái nhân văn và phản nhân văn, tốt và xấu, cao thượng và thấp hèn...
Hiện thực này là mảnh đất giàu tiềm năng cho những tìm tịi, sáng tạo của những
nghệ sĩ được khuyến khích vừa bám sát thực tiễn đất nước, gắn bó với cuộc sống

của nhân dân, bảo vệ và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc vừa tiếp
thu tinh hoa văn hóa, tinh thần của nhân loại, sáng tạo nên những tác phẩm có giá
trị tư tưởng, nghệ thuật cao, có tác dụng to lớn trong việc xây dựng con người, cải
tạo xã hội, đồng thời lên án, phê phán không khoan nhượng những tiêu cực, xấu xa
đang cản trở sự phát triển của đất nước và con người. Đi cùng cuộc sống, nhà văn
phải là người có cái nhìn hiện thực sâu sắc, phát hiện ra những vấn đề nổi cộm, căn
bản, cốt lõi; mổ xẻ và hình dung nó bằng nghệ thuật; đồng thời dự báo về con
đường phía trước của hiện thực đó và đưa ra những lời cảnh tỉnh.
Trong khi phần nhiều tác giả lớp trước tập trung phản ánh những mặt lạc
hậu, lỗi thời của cơ chế cũ đã đem đến khơng ít bi hài kịch thì Hồ Anh Thái ở mảng
truyện ngắn những năm gần đây lại đi vào mổ xẻ những cái lố lăng, kệch cỡm của
con người trong cơ chế mới từ góc nhìn thế sự, đạo đức về xã hội hiện thời... Xu
hướng phản ánh mặt tiêu cực của đời sống như một nhu cầu chung được đặt ra
mạnh mẽ trong sáng tác của nhiều cây bút xơng xáo, trong đó Nguyễn Huy Thiệp
là một đại diện tiêu biểu. Với Hồ Anh Thái, những hiện thực mặt trái được nhà văn
đề cập là mảnh đất riêng chưa được chú ý khai thác nhiều hoặc chưa để lại ấn
tượng. Là người nhập cuộc, có tư tưởng cấp tiến, Hồ Anh Thái tỏ ra thông thuộc
những vỉa tầng, những mảng nổi, mạch chìm của đời sống công chức, thị dân hiện
đại. Không hướng về những truyện ngắn giả lịch sử, tìm về những bài học nơng
thơn hay huyền thoại phố phường kiểu Nguyễn Huy Thiệp hoặc đặt ra một cách
riết róng những vấn đề về một thế giới vô nghĩa và cả vô hồn kiểu Phạm Thị Hoài,
14


Hồ Anh Thái tái hiện một cách sinh động và chân thực những mảng tối, những góc
khuất của đời sống thị dân, công chức cùng những thảm trạng trong đời sống văn
hóa, nghệ thuật thời "mở cửa". Đây hẳn là mảng hiện thực làm nên thế mạnh của
ngòi bút Hồ Anh Thái, mang lại ấn tượng sâu đậm khó quên với độc giả. Tất cả
được tập hợp trong ba tập truyện ngắn tiêu biểu gần đây: Tự sự 265 ngày, Bốn lối
vào nhà cười, Sắp đặt và Diễn...

1.2.1. Những góc khuất tối của đời sống công chức, thị dân thời "mở
cửa"
Thước đo cuối cùng của văn học chính là sự đóng góp của nhà văn cho đời
sống hơm nay, là sự chung tay cải tạo cuộc sống và con người. Từ quan niệm ấy,
mối quan tâm của nhà văn đích thực là phải làm sao cho ngòi bút sắc bén của mình
chạm vào được những tầng sâu, đáy cùng của sự thật, đối mặt với tất cả những gì xù
xì, thơ nháp; những khuất tối, âm u, gai góc của cuộc đời...
Hơn lúc nào hết, mong muốn của người cầm bút là phải phát huy đầy đủ
chức năng xã hội của văn học nghệ thuật để khắc phục tình trạng văn nghệ chỉ thực
hiện chức năng phản ánh đã bị hiểu một cách cứng nhắc, thơ thiển và thói quen chỉ
nói một chiều. Hồ Anh Thái cũng như nhiều nhà văn có trách nhiệm khác đã mạnh
dạn tìm kiếm những thể nghiệm mới và tạo dựng bản sắc riêng cho mình dựa trên
vốn sống, những trải nghiệm cá nhân về mơi trường mình sống, về cơng việc mình
biết, mình làm; về những sự thực mình chứng kiến, quan sát với cái nhìn sắc nhạy,
ngày càng tỏ ra tự tin và táo bạo hơn trong sáng tạo nhằm đặt ra những vấn đề có ý
nghĩa xã hội mang tính thời sự, cấp bách cùng những dự cảm của một tấm lòng,
một tâm hồn khơng ít trở trăn, vật vã. Hơn ai hết, nhà văn là người nhận ra rõ nhất
đằng sau cái bề mặt tĩnh lặng, n ả của hịa bình lại ngổn ngang nhiều thách thức
phức tạp. Hiện thực cuộc sống trong truyện ngắn Hồ Anh Thái những năm gần đây
được cảm nhận với tất cả sự nham nhở, nhố nhăng, phồn tạp, xơ bồ.
Như đã trình bày, trong những tập truyện ngắn mới xuất hiện gần đây, Hồ
Anh Thái tập trung khai thác đề tài đời sống công chức, thị dân thời "mở cửa". Đó
là những trang viết khá ấn tượng về lớp người làm công ăn lương ở cơng sở, văn
phịng, những viên chức thuộc thành phần "trí thức" của xã hội hiện đại, các nhà
nghiên cứu, quan chức, giới ngoại giao... và thành phần thị dân theo đúng nghĩa
đen là những người sống ở thành thị, làm nghề tự do như buôn bán, những người
nghỉ hưu, người giúp việc ...
Các truyện ngắn trong tập Tự sự 265 ngày của Hồ Anh Thái gợi lên trong
người đọc những hình dung về đời sống cơng chức ít nhiều mang dấu ấn nghề
nghiệp và môi trường sống của tác giả. Nhà văn cho rằng 11 truyện ngắn dựa trên

một "cấu trúc liền mạch về đời sống công chức..., ngay cả trong những chuyến đi
nghỉ mát ra các bãi tắm thì đời sống cơng chức, sở thích cơng chức, những ước ao
cũng rất công chức vẫn đeo bám, không buông người ta ra" [71; tr 224]. Những
câu chuyện trong tập truyện mở ra một không gian nghệ thuật vừa quen thuộc, gần
gũi lại vừa mới mẻ, xa lạ: một phòng khách - nơi người ta học được nhiều mánh
15


lới, trải qua nhiều kỳ sát hạch để tiến những bước xa hơn trên con đường danh lợi;
một sứ quán với những trị đời trớ trêu khơng hiếm gặp; một viện nghiên cứu, một
công sở với những gương mặt nhàm chán, vô vị trở đi trở lại nhiều trong các
truyện ngắn. Đó khơng phải chỉ là những biểu tượng cho một cuộc sống nhiều tù
đọng, quẩn quanh kiểu "sống mòn" mà cịn gợi một vẻ ngồi hào nhống, lịch sự
để hé mở những sự thật thấp kém bên trong của giới trí thức cơng sở. Đó là những
kẻ đang cố tìm cách chen chúc, cố lọt được vào phịng khách của một vị quyền thế
mong có cơ hội gặp giới ngoại giao để tạo đà cho một chuyến đi nước ngồi hoặc
tìm một cơ hội thăng tiến (Phịng khách). Việc đi nước ngoài, đặc biệt là đến nước
Mỹ đồng nghĩa đến với sự giàu sang, phú quý. Tư tưởng vọng ngoại nảy sinh từ
tâm lý hy vọng đổi đời ở một miền đất khác tổ quốc mình (Tờ khai visa, Vẫn tin
vào chuyện thần tiên...) Vì tham vọng đó mà khơng ít kẻ "chiến thắng" cố kiên
nhẫn khai đủ ba mươi lăm điều trong tờ khai visa, kể cả việc dẹp đi cái máu Đại Cồ
Việt để đến một nước "chiến bại". Cuộc sống nhàn nhã, tẻ nhạt văn phòng khiến
những cơng sở vốn thiếu cơng trình nghiên cứu lại thừa những chuyện tiếu lâm
hiện đại (Chim anh chim em, Bóng ma trên hành lang...).
Theo Nguyễn Chí Hoan: "Mỗi truyện ngắn (của Hồ Anh Thái) đều bày ra
một bối cảnh, phông màn khác nhau nhưng tấn bi kịch của cuộc đời gần như chỉ
một. Đây là mặt trái của một lớp thị dân hiện đại" [71; tr 250]. Nhà văn quả là
người có con mắt tinh tường trong việc nắm bắt những vấn đề nhạy cảm của đời
sống công sở và cũng thật thâm sâu khi dựng lên những chân dung trí thức. Đó là
những vị giáo sư văn chun phân tích xác ướp và những vị giáo sư sử học ln

dạy học theo lối chay tịnh. Trí thức như vậy tất yếu sẽ sinh ra những giảng đường
vùng trắng bên cạnh nền giáo dục gia đình bỏ hoang (Phịng khách). "Nền giáo
dục thì ngủ gật như khóa họp thường niên, xêmina, hội thảo quốc tế và khu vực"
(Chợ). Qua cái miệng "tán vặt" khơi khơi thú vị của một anh chàng xe ôm, một
người từng lái xe cho giám đốc sở giáo dục, chứng kiến quá nhiều chuyện cán bộ,
chuyên viên sở đem những kế hoạch, dự án rút tiền để bàn bạc trong xe đến mức
nổi hứng nghĩ ra cả một đề tài nghiên cứu cấp bộ: "Thử tìm hiểu tính cách người
Việt thơng qua những biểu hiện và cách thức xử lý khi tham gia giao thông" trong
khi các giáo sư cả đời nghiên cứu có vật vã, vắt óc cũng khơng nghĩ ra một cái đề
tài nên hồn (Anh xe ôm một chặng đường núi). Giữa cái thời buổi nhập nhèm thật
giả, từ đồ ăn, đồ mặc, đồ du lịch cho đến vật liệu xây dựng, cho đến bằng cấp danh
hiệu lâu lâu lại thấy phanh phui ra là của rởm hết thì chuyện học thuật, phong hàm
cũng nhiều phách. Khi được tin dùng thì bằng cấp, kiến thức chỉ là thủ tục (Chợ).
Trí thức gì mà từ viện trưởng nhặt nhạnh tất cả những bài tiểu luận, những
văn bản đề nghị xin phép, những báo cáo hội nghị kiểu vơ bèo vạt tép thành tuyển
tập cá nhân đánh dấu một đời đi theo khoa học bằng xe công rồi xin tài trợ của
các hãng xe hơi để xuất bản thành tuyển tập cho tới ông tổ chức chạy chọt lo mua
hàng lô đất cho người nhà, đồng nghiệp để kiềm tiền đấm mồm, đấm miệng, tiền
chênh lệch... (Chạy quanh công viên mất một tháng). Và khơng thiếu những kẻ
"lưu manh giả danh trí thức" mà con đường tiến thân vô cùng hạ lưu, bỉ ổi. Cơ chế
xin cho, sự láu cá, cơ hội và cả sự hèn hạ, giả trá đã giúp khơng ít kẻ leo lên được
16


nhiều nấc thang danh vọng, tiền tài. Điều này gợi nhiều suy nghĩ về những câu
chuyện có thực của giới trí thức đang diễn ra trong cuộc sống hơm nay. Đó khơng
cịn là những hình tượng trí thức tiểu tư sản đã đi vào sáng tác của Nam Cao trước
cách mạng mang thân phận nô lệ, bị gánh nặng áo cơm ghì sát đất, khó có thể
khẳng định và bảo toàn nhân cách. Hồ Anh Thái đã tiếp tục khám phá đối tượng
còn mới mẻ và khá phức tạp này với thái độ nhìn thẳng vào sự thật và sự thông

hiểu của người trong cuộc. Cùng với những tác giả khác như: Ma Văn Kháng,
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Thân... dù chưa đủ tạo nên một vệt đậm cho đề
tài nói trên, song Hồ Anh Thái cũng đã thể hiện một cách nghiêm túc tinh thần tự
nhận thức về giới mình với một mối hồi nghi lành mạnh về vai trị dẫn dắt xã hội
của trí thức trong một điều kiện xã hội có nhiều ưu việt hơn. Khơng đi vào bi kịch
sống mịn, lạc thời, quẫn bách của trí thức, điều nhà văn quan tâm hơn chính là
những mặt trái của đời sống cơng chức cùng những thói tật khơng đáng có ở những
kẻ này. Từ đó, rung lên những hồi chuông cảnh tỉnh đối với con người, trong đó có
cả bản thân mình (xem thêm mục 2.3.1 chương 2).
Bên cạnh đó, diện mạo văn phịng, cơng sở trong Tự sự 265 ngày cũng đầy
sự lem nhem, nhếch nhác. Đám công chức buổi sáng đi như cướp đường đến công
sở chỉ để dềnh dàng buôn dưa lê. Đám viện sĩ mỗi tháng đến viện có khi chỉ được
bốn ngày. Đề tài năm nay chưa có thì sang năm, khơng có cũng chẳng chết ai, thiếu
đề tài một năm chẳng lo bằng thiếu gạo ăn vài ngày. Văn phịng thì tổ chức đủ các
loại văn hóa ăn trưa, văn hóa khao, văn hóa chiêu đãi mà nếu ai khơng góp mặt thì
bị coi như một tính cách "phản xã hội" (Chạy quanh công viên mất một tháng).
Vậy mà chả ai ưa ai, chả ai phục ai. Có mặt vợ khen chồng, có mặt chồng khen vợ,
vắng mặt họ thì nói xấu cả hai, chỉ chê bai, bôi bác sau lưng, trước mặt thì cười
nói bắt tay ca mừng...
Trong khi phác vẽ những nét thô lậu của giới công chức, Hồ Anh Thái còn
cho người đọc thấy điều đáng sợ hơn cả là sự tha hóa, vơ độ, những biểu hiện lệch
chuẩn của trí thức, trong đó có quan chức (Lũ con hoang, Chim anh chim em, Cả
một dây theo nhau đi...). Không hiếm gặp những chuyện về sự tham nhũng, sa đọa
ở những kẻ có quyền và có tiền. (Điều này sẽ được nói kỹ hơn ở chương 2, mục
2.3). Cánh giàu xổi thì nổi lên nhờ những dự án xóa đói giảm nghèo của Phao, của
Xép, của Dipi, ơm một cục tiền về mua đất, xây nhà ở Hà Nội. Xếp trên, xếp dưới
bỗng chốc trở thành người Hà Nội, bảo nhau đi xây nhà mới. Cũng có kiểu phất
nhanh như vậy nhưng lại bằng những cách thức, con đường khác: buôn ma túy và
buôn đất (Cả một dây theo nhau đi).
Dù chỉ được đề cập ở một số tác phẩm, nhưng đời sống của giới trẻ thành thị

cũng gợi nhiều trăn trở về tâm lý sống gấp, thực dụng và bng thả... Những người
trẻ tuổi ấy có quan niệm yêu đương hết sức hiện đại: "Yêu thì cứ để thế mãi cho
đẹp, sao lại mưu toan hủy diệt nó bằng hơn nhân. Hơn nhân rồi nằm bên A lại so
sánh với B, rách việc" (Chợ)... Một cô gái bố Kinh, mẹ Hà Nội bước vào cuộc sống
thị thành như "đẩy tung cánh cửa khơng khóa". Cơ ta (Tân) chuyển nghề đến
chóng mặt, sẵn sàng phá tan ngơi nhà cổ kỷ niệm mà chẳng có chút vướng bận gì
17


để xây phịng karaoke máy lạnh (Bên đường tàu có ngôi nhà cổ). Thêm cả chuyện
ăn miếng trả miếng đến lạnh lùng, tàn bạo với kiểu yêu đương "mây mưa mau
tạnh" không khỏi làm ta lo ngại (Mây mưa mau tạnh). Rồi những thú vui quái đản,
kỳ quặc của đám trẻ theo kiểu sức lực thừa không biết để đâu, khơng làm việc trí
óc thì phải bằng cái quần quật thể xác: học võ, theo đòi phim trinh thám, rút mật
gấu, đua xe tìm cảm giác mạnh - những cuộc đua mà kẻ đua không chết chỉ gây
họa cho người khác. Có những thanh niên ơm mộng đi nước ngồi làm ăn thì mỉa
mai: "luận điệu tuyên truyền của những ông bô bà khốt không muốn thả con cái ra
với thiên hạ, cứ khư khư giữ chúng sống lay lắt bằng tình thương nghèo khó của
mình, cứ lai nhai sao khơng lo làm ăn chí thú ở ngay cái nơi gần gũi quen thuộc mà
để cho ảo vọng miền đất hứa xa xôi dụ dỗ đánh lừa" [71; tr 209] cịn bản thân mình
thì lại nhốt mẹ ở một cái lô giống cái chuồng chim suốt ngày làm bạn với đủ mọi
kênh tiếng Việt trên truyền hình (Chạy quanh cơng viên mất một tháng). Rồi những
kiểu con gái mạnh bạo, dữ dội như cô Sâm Banh - thản nhiên kể với chàng trai Việt
kiều như thế này: Dạo em mười lăm, thằng bồ em mười sáu cùng đua xe, "thằng bồ
đâm vào gốc cây chết tươi, em văng ra xa, đứng dậy như khơng, lột chiếc dây
chuyền của nó làm kỷ niệm... Bây giờ em chỉ thích lấy Tây như anh, Tây mà hiền
lành tử tế thì sẽ giúp em tu nhân tích đức" (Vẫn tin vào chuyện thần tiên).
Cánh trẻ đã vậy, cịn cánh già thì sao? Già rồi vẫn có những lầm lạc trong
tình u, những hoang tưởng về bản thân khơng đáng có ở những người đã lên tuổi
ông, tuổi bà. Một bà mẹ tuổi sắp nghỉ hưu mà vẫn yêu đương đủ vành đủ vẻ, ong

bướm dập dìu đi về. Đối tượng tán tỉnh bà là những ai? Một ơng hưu trí về già, ra
khỏi cơ quan mới trở thành chiến sĩ đấu tranh cho công lý, lại cịn thích làm thơ,
chun tra tấn người khác bằng việc xuất bản miệng cả tập thơ dài. Có ông thầy đã
sáu mươi chín tuổi mà khi hướng dẫn sinh viên làm khóa luận tay vẫn sờ mó, bốc
bải tưng bừng. Có ơng lại lừa tình rằng mình giàu có. Lúc lấy nhau rồi mới làm
người ta ngã ngửa người ra vì thất vọng nhưng khi đó thì mọi sự đã rồi! (Cây
hồng lan hóa thành cây si)...
Đi vào những mảng tối, góc khuất của đời sống thị dân sẽ gặp thêm nhiều
vấn đề nhức nhối (tương tự mảng hiện thực đầy tính thời sự được tác giả đề cập
trong Cõi người rung chuông tận thế: tệ nạn mua bán dâm, hối lộ, quyền lực xã hội
đen hoành hành, chuyện giải tỏa mặt bằng, chuyện kinh doanh nhà nghỉ, khách
sạn...). Một góc nhỏ Sài Gịn ln sẵn những hộ ni gấu lấy mật: "Những con gấu
dáng vóc hùng dũng cao tới gần hai mét nhưng là thứ gấu mất mật bạc nhược bệnh
hoạn, những hảo hán rừng xanh sa cơ giờ bị nhốt trong chuồng sắt, cũng ăn cám
tồng tộc như lợn trong nhà". Nhân chuyện, tác giả hạ lời bình: "Độc ác là con
người, nghĩ ra các khái niệm nhân văn nhân đạo vị tha cũng là con người" (Chạy
quanh công viên mất một tháng). Chuyện nuôi gấu thì thậm thụt che giấu như tiệm
karaoke, tiệm cắt tóc thanh nữ giấu gái! Nhan nhản những dịch vụ nhà nghỉ, khách
sạn mở ra từ trung tâm thành phố đầy đủ tiện nghi cho đến những nhà nghỉ vùng
ven mà sự phục vụ ln sẵn sàng, chí ít cũng đáp ứng được những nhu cầu cùng
tận, thỏa thuê của con người (điều này cũng được nói rất kỹ trong tiểu thuyết Mười
lẻ một đêm). Nếu có một phép màu xảy ra như chuyện chập điện chẳng hạn thì bao
18


nhiêu khách sạn, tường vách sẽ biến mất trơn chỉ cịn những khách trọ và nhân
viên khơng áo quần, khơng tư trang, trần trụi, nồng nỗng co cụm lại như trong một
giáo phái mới khuyên con người từ bỏ mọi hình thức sở hữu, kể cả áo quần (Chạy
quanh cơng viên mất một tháng)... Có cả những chuyến du lịch của người thành
phố về nông thôn với con mắt "thẩm mỹ nhà quê chê miệt vườn": "Cái làng có hồ

núi Cốc mà làm dịch vụ thì bỗng nhiên đổi đời, bỗng nhiên coi thiên hạ bằng ngóe.
Đám cơng chức th tàu đi trên hồ nghe bài hát hú hít liêu trai vọng về từ cõi âm,
rồi lên bờ chui đầu vào hai cái hang nhân tạo, xem thì ít mà bình đểu cười đểu thì
nhiều" [72; tr 237]. Thật là một chiều thứ bảy, chủ nhật kiệt sức thỏa mãn dục vọng
hiếu kỳ, một thứ gia vị cho đời sống công chức tẻ nhạt (Cả một dây theo nhau đi).
Rồi cả chuyện mua đất, làm nhà hàng loạt, dựng lên những phố tồn nhà quan của
mấy ơng dự án miền núi đầy của chìm. Những miếng đất trước đó là bãi vàng đen
giờ chuyển thành vàng ròng mọc lên nhà cửa tưng bừng phô trương (Cả một dây
theo nhau đi) với những kiểu thiết kế chửi mỹ thuật, cho sum họp thập cẩm nhiều
nền kiến trúc lại, không theo một quy chuẩn nào (Vẫn tin vào chuyện thần tiên).
Câu chuyện xóa đói giảm nghèo cho vùng núi qua miệng anh xe ơm vui tính đâu
cịn là cái gì bâng quơ, vơ thưởng vơ phạt: "cịn vạt rừng nào thì đốt rẫy làm cái
nương con con bằng bàn tay đốt luôn cả vạt rừng. Mấy bắp ngô, mấy bao gạo
nương đổi lấy cả một sườn núi lớn cháy rụi" (Anh xe ôm một chặng đường núi).
Nói đến đất lại nghĩ đến chuyện chia chác đất đai cho con cái, chắc những người
làm tịa án cũng khơng lạ gì những vụ anh em nhà nọ "mua cả bó dao về cắm mốc
ranh giới, mỗi tấc đất một nhát dao chém vỡ đầu thằng nào ăn dày lấn đất" (Cả một
dây theo nhau đi). Ở bệnh viện thì khơng hiếm những ca cấp cứu mà nguyên nhân
là những lý do quái đản con người gây ra cho nhau hoặc tự gây cho mình (Chợ).
Đời sống sinh hoạt của thị dân hiện lên qua những trang viết về ô sin - kiểu
người giúp việc thời mở cửa - cũng đầy rẫy những chuyện tức cười: họ có những
thói xấu như ăn vụng, ăn cắp vặt, nói xấu chủ nhà, lại có cả chuyện ơ sin mặc quần
áo bà chủ rồi nằm dài trên giường chờ ơng chủ vì nghĩ rằng mình rồi cũng thành bà
chủ như ai... Đến cưới xin thì cũng bát nháo, hổ lốn và phô trương như kiểu đám
ma bố cụ cố Hồng trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng (chương XV): mời cả miền
ngược cả miền xuôi, sâm banh được rót chảy xè xè xuống tầng tháp pha lê. Lại có
cả hai nhân viên khách sạn lao vào mấy chùm bóng bay đấm túi bụi như hai thằng
du cơn say đòn... Còn ở đám ma, người ta cúng tiễn bao nhiêu thứ mà chỉ đời nay
mới có, chỉ đời nay mới thấy: xe hơi, nhà lầu, thuốc lắc... lại thêm cả mấy mỹ nhân
làm hình nhân thế mạng để người chết về cõi âm có năm thê bảy thiếp, bõ khi còn

sống phải ăn nhịn để dành (Cả một dây theo nhau đi).
Trở lại với chuyện đi nước ngoài: người thì mang tượng nữ thần Tự do của
Mỹ về cho bạn bè bõ chuyến công cán, kẻ xuất ngoại về ơm một cục tiền sau bao
năm tích cóp để gia đình được phen đổi đời... Cũng khơng ngoại trừ những chuyến
vượt biên trái phép tiền mất tật mang, mất cả chì lẫn chài, thiên đường đâu chả
thấy chỉ thấy địa ngục (Chạy quanh cơng viên mất một tháng). Lại có khối kẻ đi rồi
thì bằn bặt khơng về (Chim anh chim em, Bên đường tàu có ngơi nhà cổ).

19


1.2.2. Những thảm trạng của đời sống văn hóa, nghệ thuật
Một vấn đề khác cũng trở thành mối quan tâm, chú ý của Hồ Anh Thái - đó
là những thảm trạng, sự xuống cấp ở một số lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó
có văn hóa, nghệ thuật trước tác động của mặt trái cơ chế thị trường. Đây là góc
nhìn sâu vào một mảng hiện thực đang gây chú ý, bức xúc nhiều trong công luận.
Nội dung này được tập trung thể hiện trong tuyển tập Sắp đặt và Diễn đúng như
tên gọi của nó - một sự "sắp đặt" và "diễn" với những lố lăng, biến thái nhiều màu
vẻ.
Trước hết nói về báo chí. Một tờ báo có khi ra đời trong phút ngẫu hứng của
đám dân chơi. Báo chí như một trị chơi. Nó được hoài thai bên nồi nước ốc như
một gợi ý cho tơn chỉ nghệ thuật: mang bất cứ tính chất gì cũng được, viết bất kỳ
nội dung nào cũng xong, miễn là khơng được nhạt. Ê kíp làm báo là một bộ sậu
nhà giàu mới nổi khơng cần biết gì về báo vẫn ra báo như thường. Phóng viên,
cộng tác viên chưa bao giờ viết báo giờ viết tất sẽ đem đến nhiều cái mới (Chơi).
Tiếng Việt trên mạng chát chít thì khơng có dấu chỉ như cái xác khơng hồn, bị sát
thương trầm trọng lại tỏ ra hợp với thời buổi mà cái gì cũng ăn nhanh, ăn liền, làm
tắt. Đọc thứ tiếng ấy phải ra sức mà đốn mị nội dung, kể cả những nội dung bậy
bạ (Nham). Nghề văn thì được quan niệm đã đến lúc phải tầm thường. Ai khơng
làm được nghề gì thì có thể chuyển sang viết văn, làm thơ, viết phê bình văn học

(Tin thật lòng). Thơ thẩn trở thành thứ ám quẻ người ta. Thi nhân rặt một lũ đồng
thơ làm cho ai nấy cũng phải mệt mỏi, bơ phờ, lê lết theo. Xét kết nạp hội viên thì
theo kiểu lọt sàng xuống nia. Có chuyện đi cửa sau của những kẻ hám danh khá
nực cười. Đến cả cô tạp vụ vệ sinh cũng mon men xin kết nạp cho mình chỉ vì đã
có cơng giúp một nhà thơ có tiếng đi cấp cứu. Điều này đủ cho thấy cái giá của hội
viên như thế nào. Dịch thuật thì cho ra những câu thơ lãng mạn mà đọc lên nghe cứ
như nói chuyện đau bụng đi đồng ban đêm (Giấc mộng kê vàng sùng sục đồng
quê). Ngày hội thơ, cái cờ thơ được treo ngược, con cò bay lộn đầu xuống sân Văn
Miếu, lại thêm biểu ngữ thì viết sai chính tả đến mức khơng biết đây là liên hoan gỉ
gì, thế mà không một ai thắc mắc (Lọt sàng xuống nia). Tất cả khơng khác gì một
sự phản mỹ thuật, chửi văn hóa.
Cịn như hội họa, điện ảnh, âm nhạc lại càng nhố nhăng. Nghệ thuật sắp đặt
thực ra là trò đánh đố (theo quan niệm càng rối rắm, lung tung càng kích thích sự
tị mị của cơng chúng). Tụ điểm triển lãm "tụ" rất nhanh mà "tan" cũng nhanh. Chỉ
cần một chiêu quảng cáo rằng có cái độc hơn là tất cả đột nhiên ùa hết ra cửa.
Trang phục của diễn viên thì lố lăng chẳng ăn nhập với nhau, càng khơng có chút
gì thể hiện bản sắc vùng miền. Có thứ hoa văn giao duyên các dân tộc, chẳng rõ
dân tộc nào ra dân tộc nào. Thời trang đã đi đến chỗ tận thiện tận mỹ là khỏa thân
rồi bôi màu che đậy mới chứng tỏ mình hết lịng, trần trụi vì nghệ thuật... Nghệ
thuật nhìn chung trở thành cái chợ, cái sịng bạc mà khơng ít kẻ tham gia chơi
những cuộc đỏ đen hoặc biến nó thành sân khấu hài kịch (Trại cá sấu, Tin thật
lòng...).

20



×