Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

phân tích chi tiết người lái đò xông đà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.59 KB, 6 trang )

ĐỀ: PHÂN TÍCH SƠNG ĐÀ HÙNG VĨ, HUNG BẠO VÀ VẺ ĐẸP TRỮ TÌNH, NÊN THƠ
CỦA SƠNG ĐÀ.
I.Mở bài:
Nguyễn Tn là nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ơng có một vị trí quan trọng
và đóng góp khơng nhỏ đối với văn học Việt Nam hiện đại. Sở trường của ông là thể loại tùy bút,
với phong cách tài hoa, uyên bác. Bút kí “ Người lái đị Sơng Đà” là thiên tùy bút đặc sắc trong tập
tùy bút “ Sông Đà” của ông viết năm 1960. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn
đến Tây Bắc năm 1958. Qua tác phẩm, Nguyễn Tuân ca ngợi và bày tỏ tình yêu tha thiết của mình
đối với thiên nhiên và con người Tây Bắc. ( Trích yêu cầu đề )
II.Thân bài:
1. Khái qt:
Tùy bút “Người lái đị Sơng Đà” là kết quả của chuyến đi nhiều lần lên Tây Bắc của Nguyễn
Tuân trong kháng chiến chống Pháp. Đặc biệt là chuyến đi thực tế 1958 đã thỏa mãn khát khao xê
dịch của Nguyễn Tuân. Qua tác phẩm,ta thấy diện mạo của một Nguyễn Tuân mới mẻ, khát khao
hòa nhập với đất nước và cuộc đời. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Tuân: uyên bác,
tài hoa qua việc miêu tả vẻ đẹp độc đáo của thiên nhiên Tây Bắc và vẻ đẹp của con người lao động
Tây Bắc.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân con Sông đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác mà là một
sinh thể sống động, một nhân vật đấy sức sống và có tính cách hẳn hoi. Ngay từ đầu tác phẩm, tác
giả đã dẫn hai câu thơ của Nguyễn Quang Bích:
“Chung thủy giai Đơng tẩu
Đà giang độc Bắc lưu”
Có nghĩa là mọi dịng sơng đều chảy về hướng Đơng, chỉ có Sơng Đà chảy về hướng Bắc. Con
Sơng Đà với dịng chảy đặc biệt, ngang tàng, khác lạ, đã hấp dẫn cảm xúc thẩm mĩ của Nguyễn
Tuân. Ông đã dẫn người đọc đi vào khám phá vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo và trữ tình thơ mộng của
dịng sơng.
2. Phân tích:
a. Tính hùng vĩ, hung bạo của Sông Đà:
Sông Đà khai sinh từ tỉnh Vân Nam ( Trung Quốc ) có tên là Li Tiên chan hịa vào Sơng Hồng,
chảy trên đất Việt 500 cây số. Hình ảnh Sơng Đà trong cách miêu tả của Nguyễn Tuân nổi bật về sức
mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc. Ở thượng nguồn con Sông Đà hiện lên với


tất cả vẻ dữ dội của nó: vách đá, sóng, hút nước, thác, đá trên sông.
Nguyễn Tuân không khỏi làm ta ngỡ ngàng trước sự hùng vĩ, dữ dội của con Sông Đà. Cảnh đá
bờ sông dựng vách thành. Những vách đá cao vút, dựng đứng “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ
mới có mặt trời”. Lịng sơng nhỏ hẹp, lưu tốc dịng chảy lớn  “Có vách đá thành chẹt lịng Sơng Đà
như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con
hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng
thấy lạnh, cảm thấy mình như đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào
trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn
Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm, bí ẩn của dịng sơng. Một nơi lịng sơng nhỏ hẹp,sâu, tạo cảm giác
âm u, lạnh lẽo, lưu tốc dòng chảy lớn với những vách đá cao vút, vững chãi giờ đây đang trở nên
nguy hiểm vô cùng. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến khơng được,
lùi cũng khơng xong, chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thơi.
 Sóng nước sơng Đà thật dữ dội, ln dậy sóng, nhất là quãng mặt ghềnh Hát Loóng “ dài hàng cây
số nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”. Tác giả sử dụng
1


câu văn có nhiều vế trùng điệp, thủ pháp nghệ thuật tăng tiến “nước xơ đá, đá xơ sóng, sóng xơ gió”
như mơ phỏng hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn chồm lên nhau theo chiều ngang, vút lên cao
theo chiều dọc rồi đổ ập xuống, cuồn cuộn ghê rợn trên mặt ghềnh. Sự liên tục khơng ngừng của
sóng nước Sông Đà khiến người đọc liên tưởng đến vẻ dũng mãnh của một chú ngựa đang phi nước
kiệu, chưa được thuần hóa của mẹ thiên nhiên Tây Bắc.
Quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La là nơi mà sự hung bạo, dữ dội của Sông đà khiến người lái đị
phải e ngại, ở đây có những cái hút nước rất lớn xốy tít đáy “ có những cái hút nước giống như
cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống
cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sơi vào” . Sẵn sàng nhấn chìm bất kì con thuyền nào
khơng kịp chèo nhanh hay tay lái khơng vững, hoặc nhấn chìm bất kì bè gỗ nào vô ý khi đi qua
chúng  “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào cũng chèo nhanh để
lướt quãng sông”, “chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu”, “nhiều bè gỗ rừng
đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lơi tuột xuống”, “có những thuyền đã bị cái hút

nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lịng sơng
đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Tác giả sử dụng lối so sánh kết hợp với
nhân hóa, cường điệu đã cực tả sự nguy hiểm của những hút nước trên Sông Đà đối với người lái đị.
Có thể xem đoạn văn miêu tả những hình ảnh này như những thước phim tư liệu quý, gây ấn tượng
mạnh mẽ về thiên nhiên Tây Bắc, làm sợ hãi cả những người chưa từng một lần đặt chân đến đây.
 Tiếng thác nước trên Sông Đà tỏ ra rất hung dữ. Nguyễn Tuân đã miêu tả từ xa đến gần, từ toàn
cảnh, đến tận cảnh. Từ xa đã nghe tiếng thác nước rất lớn, nhiều cung bậc, âm điệu như uy hiếp, áp
đảo tinh thần của người lái đò: “ tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như
là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Nguyễn
Tuân còn so sánh thác nước với lửa, dùng lửa để tả nước gây hiệu quả thẫm mĩ bất ngờ “ thế rồi nó
rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa” . Sức
mạnh hoang dã của thiên nhiên, sự cuồng nộ của Sông Đà qua miêu tả của Nguyễn Tuân như một
trận động đất, hay biển lửa khi cháy rừng.
 Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc lượn của Sông Đà là cả một chân trời đá. Đá ở đây được Sơng Đà bố trí
“đứng, ngồi, nằm” tùy theo sở thích. Nhưng nếu nhìn kĩ thì ta sẽ nhận ra đó là “binh pháp” của thần
sơng, thần đá. Nguyễn Tuân đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa, kiến thức quân sự và võ thuật rất đắc,
gợi cho người đọc hình dung cái đáng sợ của thạch trận dàn sẵn dưới lịng sơng như cạm bẫy chực
chờ sẵn để tiêu diệt con thuyền và người lái đị trên sơng. “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết
trong lòng sơng” . “ Sơng Đà giao việc cho mỗi hịn”, “ những hịn, những tảng mới trơng tưởng như
nó đứng, nó ngồi, nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to, đá bé”. Tên nào cũng ngỗ ngược, “
nhăn nhúm”, sẵn sàng giao chiến, chỉ chờ có con thuyền nào lọt vào là“một số hòn bèn nhổm cả dậy
để vồ lấy thuyền”. Những hịn đá vơ tri, vơ giác được Nguyễn Tuân thổi vào sự sống khiến chúng
giống như một lũ thủy quái độc ác, xảo quyệt, càng làm tăng thêm vẻ dữ dội của Sông Đà.
Tác giả đã dùng kiến thức về quân sự, võ thuật, điện ảnh, thể thao, thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, so
sánh, liên tưởng, tưởng tượng kì lạ,bất ngờ, để làm nổi bật cái nham hiểm, xảo quyệt của sơng Đà.
Dưới ngịi bút của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên mang một vẻ đẹp hoang dại, hùng vĩ, là một
biểu tượng của sức mạnh dữ dội và hùng vĩ của non sông, đất nước mà con người phải chinh phục
để tồn tại và xây dựng cuộc sống.
b. Bên cạnh nét tính cách hung bạo, Sơng Đà cũng rất trữ tình thơ mộng:


Nguyễn Tn nhìn cảnh vật ở góc độ của một tâm hồn nghệ sĩ tài hoa để phát hiện một khía
cạnh khác của Sơng Đà, đó là vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình, hiền hịa của dịng sơng. Từ trên tàu bay
nhìn xuống, Sơng Đà được so sánh với dáng thướt tha, mềm mại, kiều diễm như áng tóc dài của
2


người phụ nữ đẹp Tây Bắc: “ Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình. Đầu tóc, chân tóc ẩn
hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi mèo đốt
nương xuân”. Điệp từ “tuôn dài” cùng nhịp văn mềm mại đã gợi ra vẻ êm đềm, lững lờ, thướt tha
của dáng sông. Phép so sánh dòng sông như một áng tóc trữ tình là một sáng tạo nghệ thuật độc
đáo, phép so sánh giàu chất thơ, chất họa này chẳng những thể hiện vẻ dịu dàng, duyên dáng, kiều
diễm của sông Đà mà còn bộc lộ chất phong tình, lãng mạn của người nghệ sĩ. Qua phép so
sánh,nhân hóa, người đọc dường như khơng cịn nhận ra đây là con sông nữa mà như dáng vẻ của
thiếu nữ Tây Bắc đang buông hờ mái tóc làm duyên, làm dáng với Tây Bắc.

Mê dắm vẻ đẹp kiều diễm của sông Đà, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra mĩ nhân sông Đà luôn
muốn làm đẹp với mình, sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa, mỗi mùa một sắc. “ Mùa xuân nước
sông xanh màu xanh ngọc bích”. Để làm nổi bật màu xanh trong sáng của Sông Đà, nhà văn đã phân
biệt “ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô”. mùa thu thì “ nước
Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Và đặc biệt, chưa bao giờ sông Đà có
màu đen xấu xí như cách thực dân Pháp gọi con sông này. Chỉ bằng vài nét phác họa, chấm phá của
nhà văn, Sông Đà hiện lên như bức họa nên thơ quyễn rũ. Từ đó ta cũng cảm nhận được tình u,
niềm tự hào của nhà văn với dịng sơng q hương.

Con Sơng Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Với tác giả, Từ trong
rừng đi bộ ra, gặp lại con sông, thấy con sông Đà “đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”. Gương
mặt cố nhân sông Đà tươi sáng rực rỡ như một miếng sáng, lóe lên  màu nắng tháng ba Đường thi : “
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Gặp lại cố nhân, người nghệ sĩ không giấu được niềm hân
hoan, háo hức: “ Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại
chiêm bao đứt quãng”. Chỉ bằng vài nét chấm phá mà diện mạo của cố nhân bỗng hiện lên sống

động, đầy tâm trạng, cảm xúc của người nghệ sĩ cũng chan chứa, tràn khắp câu văn.
        Đắm đuối trước vẻ trữ tình thơ mộng của Đà giang trong phong thái của một khách lãng du, mê
đắm, thưởng ngoạn khi đi thuyền trên Sông Đà, Nguyễn Tuân đã khám phá ra bao vẻ nên thơ, nên
họa của dòng sông. Xuôi về hạ lưu, dòng sông lững lờ, êm trôi như nhớ thương những hòn đá thác
xa xôi để lại trên phía thượng nguồn Tây Bắc. “ Cảnh ven sông ở đây lặng tờ”, cổ kính, hoang sơ.
Tưởng như “ từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Con sông
Đà dường như chỉ biết tồn tại trong không gian mà không hề biết đến thời gian. Thời gian mải miết
trôi, sông Đà vẫn mãi vẻ đẹp nguyên sơ, “ Bờ sông hoang dại như một bở tiền sử. Bờ sông hồn
nhiêu như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Hai bên bờ sông tịnh không một bóng người. Chỉ có “ một
nương ngô mới nhú lên những là ngô non đầu mùa”, “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một
đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vạn vật như đang chìm vào cõi mộng mơ.
Dưới lòng sông, “ những đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”.
Những câu văn xuôi của Nguyễn Tuân vút lên như vần thơ mềm mại, du dương, như nét vẽ thanh
nhẹ, hư ảo. Dưới ngòi bút dạt dào, chất thơ, chất họa, vẻ đẹp của dòng nước sông Đà hiện lên như
một bức tranh kì thú như những thước phim huyền ảo. Nguyễn Tuân như đưa người đọc vào thế giới
thần tiên cổ tích, thơ mộng, cảnh vừa hoang sơ, cổ kính, vừa thơ mộng, trữ tình, vừa lặng tờ, êm ả,
vừa ẩn chứa sức sống tươi non.
        Không phải đến “Người lái đò sông Đà, lần đầu tiên, dòng sông Đà đi vào văn chương nghệ
thuật. Thực ra từ lâu, sông Đà đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào cho các văn nghệ sĩ. Thế nhưng,
chỉ dưới ngòi bút tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân, vẻ đẹp hoang dại mà thơ mộng, bí ẩn mà diễm
lệ của con sông Tây Bắc mới thực sự hiện ra có hồn và lay động người đọc. Khám phá vẻ đẹp sông
Đà trong trang văn Nguyễn Tuân, ta mới thêm thấm thía chân lí nghệ thuật: “Thế giới không phải
3


được tạo lập một lần mà mỗi một lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện là một lần thế giới lại được tạo
lập” ( Marcell Proust ).
III.
Kết luận: ( Chốt lại nội dung, nghệ thuật, đóng góp của Nguyễn Tn ở thể lại tùy bút )


ĐỀ: PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÁI ĐỊ SƠNG ĐÀ
I.
Mở bài: ( tự làm )
II. Phân tích:
1. Khái qt:
Tuỳ bút "Người lái đị sơng Đà" dược in trong tập tuỳ bút "Sông Đà" (1960), gồm 15 bài tuỳ bút
và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đó
là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp,đặc biệt là
chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công
nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn
nguồn cảm hứng sáng tạo.
Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, Nguyễn Tuân còn phát
hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là
chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc”. Qua “Người lái đò sơng Đà”, Nguyễn Tn với lịng tự hào
của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua
hình ảnh con sơng Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ
sĩ, sự tài ba, trí dũng của con người lao động mới: chất vàng mười của đất nước trong xây dựng
CNXH qua hình ảnh người lái đị sơng Đà.Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa
hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.
2. Phân tích nhân vật người lái đị:
a. Lai lịch, ngoại hình:
Sinh ra ở Lai Châu, làm nghề chở đị dọc ở Sơng Đà suốt mười năm liền. Ông đã gần 70 tuổi,đã
dành phần lớn cuộc đời mình cho nghề lái đị dọc Sơng Đà.
Đặc trưng nghề nghiệp đã ăn sâu vào máu thịt, in đậm trong nhân dáng của ông: “ Tay ông lêu
nghêu như cái sào, chân ơng lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gị lại như kẹp lấy ột cái cuống lái tưởng
tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ơng vịi vọi’. Ơng có vẻ đẹp
ngoại hình của người lao động trên sông nước, thân thể rắn chắc, khỏe mạnh “ thân hình cao to và gọn
quánh như chất sừng, chất mun”.
b. Ơng lái đị là một người trí dũng, dạn dày kinh nghiệm sơng nước:
Người lái đị hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đị giang, có

lịng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đốn nữa. Ơng có trí nhớ rất tốt: “ Trí nhớ
ông được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lịng tất cả những
luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”.
Cuộc sống của ông là cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên để giành lấy sự sống từ tay nó về
tay mình. Điều đó địi hỏi ơng lái đị phải “ nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”, phải “ nắm
được quy luật tất yếu của Sông Đà”. Có như thế ơng mới hiểu rõ đối tượng mình đang chinh phục và
có thể chiến thắng nó.
Trí dũng của ơng lái đị được Nguyễn Tn miêu tả trong cuộc chiến đấu quyết liệt giữa ơng lái đị
và con Sông Đà, một cuộc đọ sức quyết liệt giữa con người và thiên nhiên, một cuộc đọ sức không
cân sức. Một bên là thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội, hiểm độc, cịn một bên là ơng lái đị đã gần 70 tuổi
với võ khí trên tay là một cán chèo mỏng manh, con thuyền đơn độc trên sông nước. Tuy vậy, hình
4


ảnh ơng lái đị trong cuộc chiến sừng sững hiện ra như một viên dũng tướng trí dũng song tồn trước
con “thủy quái” khổng lồ, với bản lĩnh gan dạ, dũng cảm của ơng lái đị. Cuộc chiến của ơng lái đị và
Sơng Đà thể hiện qua ba lần vượt thác của ơng lái đị.
Ở vịng thạch trận thứ nhất, Sơng Đà đã tỏ ra nguy hiểm: “ nó ở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử,
một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ tả ngạn sông”. Khi con thuyền vừa mới xuất hiện thì “ mặt nước hị
la vang dậy, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “ sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá
trái, mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”, “ sóng thác đã đánh miếng địn hiểm độc nhất làm cho
ơng lái đị bị thương”. Trước thạch trận nguy hiểm của Sơng Đà, ơng lái đị đơn độc với cán chèo là
vũ khí, dù bị thương nhưng “ cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái”. Ơng hết sức
bình tĩnh, chủ động chỉ huy “ trên cái thuyền sáu bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn của
người cầm lái” . Ông đã nhanh chóng phá trùng vi thạch trận của Sơng Đà ở vòng đầu.
Phá xong trùng vây thạch trận vòng thứ nhất, ơng lái đị đối đầu với vịng thứ hai, Sơng Đà có
phần nguy hiểm hơn vì thay đổi cách bố trí cửa tử, cửa sinh để “ đánh lừa” ơng lái đị, nó “ tăng thêm
nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn” . Đã vậy,
Sơng Đà còn nham hiểm, đẩy người lái đò vào chỗ chết “Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ
trái liền xơ ra định níu thuyền lơi vào tập đồn cửa tử”. Sóng thác trên Sơng Đà như con ngựa bất

kham không thể thuần phục, chỉ biết phi nhanh, lao mạnh “hồng hộc” và “khơng ngớt khiêu khích”
ơng lái đị.
Nếu Sơng Đà định đánh lừa ơng lái đị thì ông đã “nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”
nên ơng đã đổi chiến thuật. Ơng thể hiện quyết tâm rất cao“Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến
cùng như là cưỡi hổ” và ơng đã chế ngự “dịng thác hùm be” trên Sơng Đà bằng cách “Ơng đị ghì
cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng à phóng nhanh vào cửa sinh”.
Trước sự nham hiểm của Sông Đà, ơng lái đị tỏ ra rất thơng minh, mưu trí, linh hoạt trong cách
xử lí từng kẻ thù “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để ở
đường tiến”. Kết quả là ông đã đưa thuyền vào đúng “cửa sinh” làm cho bọn “đá tướng” phải “tiu
nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”.
Cuộc chiến ở vòng ba trở nên cam go và quyết liệt hơn, ít cửa hơn, “bên phải bên trái đều là
luồng chết cả”, chỉ có một luồng sống duy nhất nhưng “lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”
trấn giữ. Người lái đò rất bình tĩnh, quyết đốn. Ơng như một viên tướng xung trận rất dũng cảm, oai
phong, linh hoạt, khẩn trương, chính xác, đã chủ động tấn cơng, một tay lái ra hoa trên sơng nước : “
Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút,
cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được, lượn được”. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đị chỉ có một
cán chèo, một con thuyền khơng có đường lùi cịn dịng sơng dường như mang sức mạnh siêu nhiên
của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho“bọn đá tướng tiu
nghỉu bộ mặt xanh lè” vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé. Nguyên nhân làm nên chiến thắng vẻ
vang của ơng lão là kinh nghiệm dạn dày, trí thơng minh, lòng dũng cảm kiên cường.
Nguyễn Tuân đã sử dụng sử dụng số lượng động từ rất nhiều thể hiện sinh động trận quyết chiến
giữa một Sông Đà cuồng nộ và một ơng lái đị phi thường. Sơng Đà thì “rống lên”, “vồ lấy”, “reo
hị”,“ thúc’,“ đội”,“ túm”,… Cịn ơng đị thì “nắm chặt”, “ghì cương”, “bám chắc”, “phóng nhanh”,
“lái miết”. Qua cuộc chiến đấu của ơng lái đị với Sông Đà, Nguyễn Tuân đã ca ngợi vẻ đẹp tài hoa
của ơng lão lái đị, tơn vinh con người lao động trên mặt trận mới- đó là mặt trận lao động, sản xuất.
c. Ơng lái đị- một người có tâm hồn đẹp:
Ơng lái đị là một con người sống bình dị, chan hòa với mọi người, xong trận, lúc nào cũng ung
dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: “sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ”. “ sơng nước lại
5



thanh bình. Đêm ấy nhà đị đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá
dầm xanh, về những cái hầm cá mùa khơ nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng.
Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn
vừa rồi”. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không
mấy ai tự tán dương về cơng sức của mình. nhà văn Nguyễn Tn đưa ra một lời nhận xét: “Cuộc
sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay
những cái thác, nên nó cũng khơng có gì là hồi hộp, đáng nhớ.Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo” Phải
chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đị tài hoa, chỉ có Nguyễn Tn.
Ơng u q và gắn bó với q hương. Đi thuyền trên Sơng Đà, ông buộc chiếc bu gà trống vào
đuôi thuyền, sáng sáng nghe tiếng gà gáy cho đỡ nhớ ruộng nương, bản mường mình.
Ơng lái đị là hình ảnh mn người Việt Nam đang có mặt trên khắp mọi miền đất nước, âm thầm
góp phần xây dựng quê hương. Vẻ đẹp của người lao động ấy là chất “vàng mười” mà Nguyễn Tn
ca ngợi.
III. Kết bài
Tuỳ bút "Người lái đị sơng Đà" là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa uyên
bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm khơng chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên
Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đó,
nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sơng
Việt.
….HẾT….

6



×