Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bài thu hoạch môn lịch sử đảng cộng sản việt nam đảng lãnh đạo kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội giai đoạn 1954 – 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.25 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
Từ lý luận và thực tiễn cách mạng, có thể khẳng định: gắn độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất đúng mà Đảng, Bác Hồ và
nhân dân ta đã lựa chọn. Ngay trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt
và Luận cương chính trị năm 1930, Đảng ta đã xác định đường lối cách mạng
Việt Nam trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và
cách mạng xã hội chủ nghĩa, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Nói cách khác, độc lập dân tộc ln gắn
liền với chủ nghĩa xã. Nhưng trong từng giai đoạn của cách mạng, sự kết hợp
đó có đặc điểm riêng.
 Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này vừa phản
ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách
mạng vơ sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng
dân tộc và mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đến Hồ Chí
Minh chủ nghĩa yêu nước truyền thống đẫ phát triển thành chủ nghĩa yêu
nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở kiến thức đã học, em xin chọn nội dung “ Đảng lãnh đạo
kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội giai đoạn 1954 – 1975” làm
bài thu hoạch môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam


2

NỘI DUNG
1. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
1.1. Một số khái niệm
Độc lập dân tộc theo nghĩa chung nhất là quyền tự chủ, tự quyết của
dân tộc - quốc gia đối với đối với vận mệnh của dân tộc mình, đối với việc
tổ chức các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… trong phạm vi
khơng gian lãnh thổ của mình; chủ động thực hiện đường lối, chính sách
đối ngoại của quốc gia, không chịu sự can thiệp, chi phối mang tính áp đặt


từ bên ngồi. Đối với mỗi quốc gia dân tộc, độc lập có nghĩa là độc lập
thực sự về chính trị, kinh tế, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Độc lập dân tộc của một dân tộc - quốc gia hàm chứa cả quyền bình
đẳng giữa các dân tộc – quốc gia trên thế giới (điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu rõ trong Tun ngơn Độc lập). Độc lập dân tộc phải bảo đảm chủ quyền,
bình đẳng của quốc gia dân tộc trong các mối quan hệ quốc tế, được pháp lý
quốc tế thừa nhận và được khẳng định trên thực tế.
Độc lập dân tộc là một phạm trù lịch sử, với các giá trị được định hình
trong quá trình phát triển của lịch sử, gắn liền với cuộc đấu tranh của các quốc
gia dân tộc. Mỗi chế độ chính trị, mỗi thời đại, mỗi quốc gia dân tộc và mỗi
giai cấp có quan niệm khác nhau về độc lập dân tộc. Trong tiến trình phát
triển của phong trào giải phóng dân tộc thời kỳ hiện đại đã định hình các giá
trị của độc lập dân tộc theo các quyền dân tộc cơ bản: độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Trong thời đại hiện nay, khi mà tồn cầu hóa là một xu thế tất yếu, thì
khái niệm “độc lập” hồn tồn khơng có nghĩa là sự biệt lập, đóng kín một
cách tuyệt đối của một quốc gia nào đó. Tự tách biệt mình khỏi khu vực và
thế giới thì quốc gia dân tộc khơng những khơng có cơ hội phát triển mà sẽ bị
cơ lập trước tồn thế giới đầy những biến động phức tạp và các thách thức
toàn cầu. Độc lập, chủ quyền, lợi ích của mỗi quốc gia phải thống nhất với


3

mục tiêu đấu tranh chung của thời đại, của tất cả các dân tộc trên thế giới vì
hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; mỗi quốc gia phải đồng
hành, chia sẻ cùng thế giới trong giải quyết các vấn đề mang tính tồn cầu.
Gắn với hồn cảnh lịch sử Việt Nam ln bị các thế lực thực dân, đế
quốc âm mưu chia cắt lãnh thổ, thực hiện “chia để trị”, thì độc lập dân tộc

ln đi liền với thống nhất đất nước, tồn vẹn lãnh thổ, lãnh hải; độc lập của
dân tộc – quốc gia gắn liền với bình đẳng, đồn kết, giúp đỡ nhau cùng phát
triển của các dân tộc - chủng tộc.
Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với 3 phạm trù chủ yếu: là một học
thuyết, là một phong trào, là một chế độ xã hội.
Trước hết, chủ nghĩa xã hội là một học thuyết khoa học và cách mạng.
Chủ nghĩa Mác đã chỉ ra cơ sở khoa học, quy luật khách quan của sự phát
triển xã hội để đi tới chủ nghĩa xã hội – một chế độ xã hội xây dựng trên cơ sở
giải phóng triệt để giai cấp cần lao, giải phóng triệt để xã hội và con người1.
Từ cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), chủ nghĩa xã hội trở
thành một phong trào cách mạng rộng lớn, diễn ra rộng khắp trên thế giới.
Phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thực tế đã đồng hành, gắn bó chặt
chẽ với phong trào giải phóng dân tộc và cuộc đấu tranh của các quốc gia
nhằm bảo vệ, củng cố nền độc lập dân tộc, chống mọi hình thức can thiệp, áp
đặt bất cơng từ bên ngồi của các thế lực đế quốc, thực dân.
Bản chất của chủ nghĩa xã hội là một xã hội có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp;
đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện cả về vật chất và tinh thần,
giàu có, ấm no, hạnh phúc; về phương diện chính trị là quyền lực thuộc về
nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; về phương diện xã hội là xây
dựng xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh; về phương diện văn hóa là giữ
gìn, phát huy bản sắc dân tộc và tiếp thu các giá trị văn hóa tiến bộ, phù hợp
của nhân loại; về phương diện quốc tế là quan hệ hợp tác, hữu nghị, đấu tranh
1


4

vì hịa bình, cơng bằng, tiến bộ xã hội, cùng chia sẻ với cộng đồng thế giới
các thách thức mang tính tồn cầu.

Theo cách biểu đạt giản dị, dễ hiểu nhưng hàm xúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, chủ nghĩa xã hội là “Xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng,
tinh thần ngày càng tốt”2.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: chủ nghĩa xã hội có thể thực hiện thành
cơng, thậm chí có mặt những thuận lợi khi xây dựng ở một nước thuộc địa
phương Đông. Người cho rằng chính sự tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế
quốc đã giúp cho nhân dân các dân tộc bị áp bức hiểu rõ hơn về bản chất của
nó, khơng ảo tưởng vào chủ nghĩa đế quốc; càng khát khao độc lập, tự do,
càng mong muốn về một xã hội không có áp bức, bóc lột. “Sự tàn bạo của chủ
nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là
gieo hạt giống của cơng cuộc giải phóng nữa thơi” 3. Ngay từ đầu, chủ nghĩa
xã hội có sức hấp dẫn lớn đối với các dân tộc thuộc địa. Đây là tiền đề tư
tưởng rất quan trọng cho mục tiêu và sự nghiệp giải phóng dân tộc, tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực tế đã chứng tỏ nhận định chính xác của Hồ
Chí Minh với sự xuất hiện và lớn mạnh của những quốc gia xã hội chủ nghĩa
vốn là thuộc địa hoặc phụ thuộc vào thực dân, đế quốc, cũng như sức sống
bền vững của chủ nghĩa xã hội ở một số nước châu Á, châu Mỹ La tinh, kể cả
khi chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Đông Âu và Liên Xô.
1.2. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
C.Mác, Ph.Ăngghen, VI.Lênin xây dựng học thuyết về chủ nghĩa xã
hội và chính các ông đã đề cao vấn đề dân tộc, ủng hộ các dân tộc bị áp bức
giành độc lập dân tộc, hướng tới xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp. Các ông
xác định bản thân giai cấp vô sản phải đại biểu cho phong trào dân tộc và tự
mình trở thành dân tộc. Lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin đã kết hợp 3 cuộc
cách mạng trong một chỉnh thể: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Nhờ đó mà sức mạnh dân tộc được nhân lên gấp bội. Học
2
3



5

thuyết về chủ nghĩa xã hội đề cao các giá trị dân tộc, phát huy các giá trị độc
lập dân tộc, thực hiện bình đẳng dân tộc trong một thế giới đại đồng. Đây là
lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại xuất hiện một học thuyết khoa học và cách
mạng, với mục đích giải quyết tồn diện và triệt để các vấn đề về dân tộc, độc
lập dân tộc, bình đẳng dân tộc.
Thực tế lịch sử đã minh chứng: khác với các chế độ xã hội trước đó
ln tồn tại, thậm chí là nguyên nhân đưa đến thống trị, áp bức, nô dịch giữa
các dân tộc, chủ nghĩa xã hội, ngay từ khi ra đời, với tư cách là một chế độ xã
hội, đã lập tức ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, là chỗ dựa vững chắc
cho phong trào giải phóng dân tộc. Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu tốt đẹp, là
phương hướng tiến lên của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc. Phong
trào giải phóng dân tộc và phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa ln gắn
bó chặt chẽ, truyền thêm sức mạnh cho nhau để đạt những thành quả to lớn
trong lịch sử và hiện tại.
Những giá trị của mỗi cá nhân, cộng đồng, quốc gia và nhân loại có
mối quan hệ biện chứng với nhau. Theo Hồ Chí Minh, nếu nước được độc lập
mà dân vẫn không được hưởng tự do hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý
nghĩa gì. Giành được độc lập dân tộc, nhất định phải đưa dân tộc đi lên chủ
nghĩa xã hội, bởi những giá trị đích thực của độc lập dân tộc chỉ có thể đạt được
trong chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là tiền đề chính trị tiên quyết để xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội càng được xây dựng vững mạnh thì độc
lập dân tộc, với những giá trị đích thực của nó, càng được củng cố, bảo vệ
vững chắc.
Như vậy, những giá trị của độc lập dân tộc và của chủ nghĩa xã hội luôn
hàm chứa trong nhau. Độc lập dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân chính là
bản chất của chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chính là hệ giá
trị độc lập, tự do, hạnh phúc thông qua giải phóng dân tộc và giải phóng giai
cấp, thực hiện các mục tiêu (đồng thời là thước đo) của chủ nghĩa xã hội là

phát

triển

con

người





hội,



nhân



cộng

đồng.


6

2.




sở



luận



thực

tiễn

Về lý luận: khi cách mạng dân tộc giành được thắng lợi, chúng ta đứng
trước sự lựa chọn giữa hai con đường: tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa.
Đi theo con đường tư bản chủ nhĩa là trao quyền lực nhà nước cho một
lực lượng thiểu số (giai cấp tư sản), tiếp tục duy trì chế độ xã hội áp bức, bóc
lột của họ đối với đại đa số nhân dân lao động (giai cấp công nhân và nông
dân); là phản bội lại giai cấp công nhân và nông dân, lực lượng chủ lực của
cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ; trái với xu hướng “cách mạng không
ngừng”,xu

hướng

tất

yếu

của


thời

đại.

Đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng tích cực của thời đại,
tiếp tục phát huy thành quả của cách mạng, trao quyền lực nhà nước cho nhân
dân lao động, xây dựng nhà nước dân chủ thực sự của dân, do dân, vì dân;
xóa bỏ áp bức, bóc lột và bất cơng - khát vọng chính đáng cháy bỏng của
nhân dân lao động. Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giải phóng
con người, giải phóng xã hội, giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân
và nhân dân lao động (lực lượng đa số trong xã hội); xóa bỏ chế độ người bóc
lột người, đưa quần chúng nhân dân lao động từ địa vị nơ lệ, làm th, bị áp
bức bóc lột trở thành người làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, sẽ tạo ra động
lực to lớn của cách mạng. Hơn nữa cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp
công nhân, một giai cấp mà “lợi ích thống nhất với lợi ích của tồn dân tộc
trong mục tiêu chung”, một giai cấp có đội quân tiên phong là Đảng Cộng sản
được trang bị bởi học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin lãnh đạo là
những

đảm

bảo

cho

cách

mạng

thắng


lợi.

Thực tiễn ở Việt Nam: ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, phong trào
Cần Vương do các sĩ phu yêu nước lãnh đạo nhằm giành lại độc lập cho dân
tộc, khôi phục chế độ phong kiến dù rất dũng cảm và kiên cường nhưng đã bị
thất

bại.
Với ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây mà trực tiếp là cuộc

cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc, nhiều nhà cách mạng Việt Nam như: Phan


7

Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học muốn giành độc lập cho dân
tộc, đưa đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa noi gương các nước
phương

Tây

nhưng

cuối

cùng

cũng


đều

bị

thất

bại. 

Tuy nhiên, sự áp bức vô cùng tàn bạo của thực dân, đế quốc, phong kiến
đối với nhân dân lao động, sự thất bại của những phong trào đấu tranh theo xu
hướng phong kiến và tư sản lại là mảnh đất tốt để tuyên truyền tư tưởng cách
mạng xã hội chủ nghĩa cho nhân dân như Bác Hồ đã khẳng định: “Sự tàn bạo
của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi, chủ nghĩa xã hội chỉ còn làm cái
việc là gieo hạt giống của cơng cuộc giải phóng nữa thơi”.
Trên con đường tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã nhận thức được tính tất
yếu lịch sử là: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị
áp bức”, do vậy, Người đã tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào
Việt Nam và vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.
Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã
thể hiện tính tất yếu là độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngay trong Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng đã khẳng định: “làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Sau Cách mạng Tháng Tám, thực dân Pháp lại trở lại xâm lược nước ta.
Để huy động đầy đủ sức mạnh cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
thắng lợi, chúng ta đã xây dựng chính quyền của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; quyền hành, lực lượng đều ở nhân dân, làm cho nhân dân thực sự là
chủ của đất nước. Nhà nước dân chủ nhân dân của ta đã từng bước xóa bỏ sở
hữu địa chủ phong kiến, trao ruộng đất cho nông dân, tạo điều kiện cho công
nhân làm chủ xí nghiêp. Do đó, ngọn cờ chủ nghĩa xã hội đã quy tụ được sức
mạnh của nhân dân lao động, giúp chúng ta kết thúc thắng lợi cuộc kháng

chiến chống thực dân Pháp bằng chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy địa cầu.
Miền Bắc được giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương
vững chắc cho miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên nửa
nước

còn

lại.


8

Bằng thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân trên nửa nước, miền Bắc đã có điều kiện huy động cao nhất sức
người, sức của cùng với nhân dân miền Nam thực hiện thắng lợi cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, bằng chiến thắng cuối cùng: chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đưa cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội.
2. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo kết hợp mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội giai đoạn 1954-1975
Giai đoạn 1954-1975 Đảng tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, phát triển tư
tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới. Ở
thời kỳ này sáng tạo của Đảng thể hiện tập trung trong việc xây dựng và chỉ
đạo đường lối tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam,
thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng đã giải quyết đúng đắn
thành công mối quan hệ giữa cách mạng hai miền. Trong mối quan hệ này,
Đảng ta xác định rất rõ vị trí, vai trị nhiệm vụ cách mạng từng miền và tác
động lẫn nhau của chúng. Về thực chất, đây là sự cụ thể hố nội dung con

đường cách mạng vơ sản, sự gắn bó chặt chẽ giữa nhiệm vụ dân tộc, dân chủ
với chủ nghĩa xã hội - con đường mà Đảng đã đề lựa chọn và kiên trì bảo vệ.
Ở thời kỳ này, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội thể hiện ở
đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.
Khi miền Bắc được giải phóng nhưng miền Nam vẫn tiếp tục cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, Đảng khẳng định đồng thời
tiến hành hai nhiệm vụ cách mạng: tiếp tục hoàn thành cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ ở miền Nam và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Tình huống đó chưa có tiền lệ trong lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam.


9

Ở miền Bắc, chủ nghĩa xã hội khơng cịn là định hướng mà đã trở thành
mục tiêu trực tiếp. Do nhu cầu cải tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, đưa
miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng đã chỉ đạo tiếp tục tiến hành
cải cách ruộng đất và giảm tô. Cải cách ruộng đất tuy đạt được những thành
tựu cơ bản, quan trọng nhưng đã phạm phải khơng ít những sai lầm, khuyết
điểm nghiêm trọng. Từ năm 1956, việc sửa sai đã được tiến hành nhằm phát
huy thắng lợi đã đạt được, củng cố khối đại đồn kết dân tộc, tạo tiền đề cho
cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất đất nước.
Vì nhân dân cả nước đều có nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước, nên chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc là chủ nghĩa xã hội thời chiến mang những nét đặc
trưng riêng biệt. Trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, Đảng không chỉ vận dụng quy luật của bản thân chủ nghĩa xã hội mà còn
cả quy luật của chiến tranh cách mạng. Động lực phát triển kinh tế không chỉ
là sự kết hợp các lợi ích, coi lợi ích Tổ quốc là tối cao, với lòng yêu nước
nồng nàn của nhân dân, mà còn từ khát vọng xây dựng một xã hội bình đẳng,
khơng có áp bức, bóc lột. Những thành tựu kinh tế của miền Bắc góp phần

đảm bảo trước hết yêu cầu chi viện cao nhất cho tiền tuyến, đồng thời bảo
đảm đáp ứng nhu cầu tối thiểu và từng bước nâng cao đời sống của nhân dân.
Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã tổ chức quản lý nền kinh tế bằng kế hoạch
với chế độ tập trung cao độ và bao cấp ở mức độ thích hợp, để có thể trên cơ
sở sức người, sức của có hạn, đáp ứng yêu cầu của chiến đấu, sản xuất, đời
sống và làm nghĩa vụ quốc tế. Tinh thần "Tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm
lược", "Xây dựng chủ nghĩa xã hội lúc này cũng là để đánh thắng Mỹ" đã
khơi dậy lịng u nước động viên tồn dân vừa sản xuất vừa chiến đấu.
Hơn 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã đạt được nhiều
thành tựu lớn cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Từ xuất phát điểm rất
thấp, phải san sẻ cả nguồn lực và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội cho sự
nghiệp đấu tranh giải phóng, song miền Bắc đã thể hiện rất rõ tính ưu việt
của chế độ mới. Đồng thời, phát huy cao độ tinh thần yêu nước, miền Bắc xã


10

hội chủ nghĩa đã đánh bại hai lần chiến tranh phá hoại rất ác liệt bằng không
quân và hải quân của đế quốc Mỹ. Chủ nghĩa xã hội đang được xây dựng ở miền
Bắc đã tạo ra sức mạnh tinh thần cổ vũ mạnh mẽ nhân dân cả nước và sức mạnh
vật chất to lớn phục vụ các yêu cầu của cuộc chiến tranh giải phóng. Nhờ thành
tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã thể hiện được vai trò quyết định
nhất giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Những thành
tựu của miền Bắc còn tạo dựng tiền đề quan trọng cho thời kỳ cả nước cùng
quá độ lên chủ nghĩa xã hội sau này.
Sức mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt
Nam là kết quả của quá trình phát huy cao độ mối quan hệ giữa độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh của chế độ mới được khơi dậy
trên nền tảng của tinh thần dân tộc và chủ nghĩa yêu nước. Nhân dân hai miền
Nam – Bắc cùng chung sức, phối hợp đánh thắng đế quốc Mỹ trên cả hai

miền đất nước. Miền Nam đã thể hiện đầy đủ nhất, xuất sắc nhất vai trò quyết
định trực tiếp đánh đuổi đế quốc Mỹ ra khỏi miền Nam, đánh đổ chế độ thân
Mỹ đồng thời góp phần bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Dựa vào sức mạnh của chế độ mới được thiết lập ở vùng giải phóng
miền Nam và chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhân dân Việt Nam đã vượt qua
mọi khó khăn, gian khổ để đi đến thắng lợi cuối cùng – hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.

KẾT LUẬN


11

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường duy nhất
đúng đắn mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội vừa là mục tiêu cơ bản của cách mạng, vừa là lợi ích căn bản
của quốc gia và là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta. Do đó, trong
q trình thực hiện, chúng ta cần quán triệt sâu sắc quan điểm: lấy phát triển
kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa, xã hội là
nền tảng tinh thần của xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ
trọng yếu, thường xuyên. Bên cạnh đó, việc kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên nắm
vững và thực hiện có hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và Tổ quốc;
coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng - an
ninh và đối ngoại; kiến tạo và giữ vững mơi trường hịa bình để xây dựng, bảo
vệ và phát triển đất nước. Trong thời đại tồn cầu hóa, hợp tác quốc tế cần
phát huy tinh thần độc lập, tự chủ kết hợp tiếp thu sáng tạo những thành tựu
mới trên các lĩnh vực của thời đại với sự vận động của cách mạng Việt Nam
để đề ra đường lối đúng, bảo đảm vừa kiên định nguyên tắc chiến lược, vừa
linh hoạt, sáng tạo trong những giải pháp tổ chức thực hiện. Chúng ta phải

vững tin vào con đường Bác Hồ đã lựa chọn, giữ vững mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đọan cách mạng hiện nay, tiếp tục q trình
đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, tiến lên
xã hội xã hội chủ nghĩa, vì dân giàu, nước mạnh, cơng bằng, dân chủ, văn
minh./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


12

- Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh: Q trình đổi
mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay, Nxb. CTQG, HN, 2008.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. CTQG, HN, 2011.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb. CTQG, HN, 2016.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Lịch sử Đảng: Giáo
trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Chương trình Cao cấp lý luận chính
trị), Nxb. LLCT, HN, 2005.



×