Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Áp dụng hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.59 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ VĨNH SƠN

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TIỀN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH THẠNH,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số:
8. 38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS NGUYỄN TẤT VIỄN

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ VĨNH SƠN

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TIỀN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH THẠNH,


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


MỤC LỤC
PHẦN MỎ ĐẦU……..……...……..………………………………………1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP
DỤNG HÌNH PHẠT TIỀN ………………………….…………………..….....8
1.1 Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của áp dụng hình phạt tiền...…............8
1.2 Khái quát các quy định về hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Việt
Nam từ 1945 đến nay………….….………………..…………………………...14
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ
HÌNH PHẠT TIỀN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI QUẬN BÌNH
THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH…………..………....…………..….25
2.1 Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về hình phạt tiền……………25
2.2 Thực tiễn áp dụng hình phạt tiền tại quận Bình Thạnh, thành phố Hồ
Chí Minh. ………………………………………………………..……………..43
Chương 3: YÊU CẦU TIẾP TỤC MỞ RỘNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP
ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG HÌNH PHẠT TIỀN Ở NƯỚC TA ...………58
3.1 Những yêu cầu đặt ra về mở rộng việc áp dụng hình phạt tiền……..…58
3.2 Giải pháp đảm bảo áp dụng đúng hình phạt tiền ở nước ta…………....60
PHẦN KẾT LUẬN……………...……….………………………...…..…70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BLHS:

Bộ luật Hình sự

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

CCTP:

Cải cách tư pháp

HPBS:

Hình phạt bổ sung

HPC:

Hình phạt chính

PC:

Phần chung

PCTP:

Phần các tội phạm

TAND:


Tịa án nhân dân

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG THỐNG KÊ SỐ LIỆU
-Bảng 2.1 Danh mục các điều luật có hình phạt tiền là hình phạt chính (BLHS
năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017)
-Bảng 2.2 Danh mục các điều luật có hình phạt tiền là hình phạt bổ sung (BLHS
năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017)
-Bảng 2.3 Số liệu thống kê việc áp dụng hình phạt tiền của TAND quận Bình
Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 – 2017
-Bảng 2.4, 2.5, 2.6, 2.7 và 2.8 Việc áp dụng hình phạt tiền trong xét xử sơ thẩm
các năm 2013, 2014, 2015, 2016 và 2017 đối với các tội danh cụ thể của TAND
quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
-Bảng 2.9 Danh mục các điều luật có quy định hình phạt tiền là hình phạt chính
-Bảng 2.10 Danh mục các điều luật quy định có hai khung hình phạt tiền là hình
phạt chính
-Bảng 2.11 Danh mục các điều luật quy định có ba khung hình phạt tiền là hình
phạt chính
-Bảng 2.12 Danh mục các điều luật có quy định hình phạt tiền là hình phạt chính
đối với tội phạm nghiêm trọng
-Bảng 2.13 Danh mục các điều luật có quy định hình phạt tiền là hình phạt chính

đối với tội rất phạm nghiêm trọng
-Bảng 2.14 Danh mục các điều luật có quy định hình phạt tiền là hình phạt chính,
khơng có hình phạt bổ sung
-Bảng 2.15 Danh mục các điều luật có quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ
sung


-Bảng 2.16 Danh mục các điều luật có quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ
sung,khơng có hình phạt chính
-Bảng 2.17 Danh mục các điều luật có quy định hình phạt tiền vửa là hình phạt
chính vừa là hình phạt bổ sung
-Bảng 2.18 Danh mục các điều luật có quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ
sung bắt buộc


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để phịng ngừa và đấu tranh với tội phạm, Nhà nước ta sử dụng rất nhiều
loại biện pháp cưỡng chế khác nhau với nhiều loại hình phạt phù hợp, tương
xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với các hành vi phạm tội
khác nhau. Trong đó, áp dụng hình phạt tiền giữ một vị trí và vai trị nhất định,
cùng với các loại hình phạt khác trong hệ thống pháp luật hình sự. Việc áp dụng
hình phạt tiền có khả năng tác động trực tiếp và mạnh mẽ về mặt kinh tế đến
người bị kết án. Đó cũng là đặc điểm nổi bật của việc áp dụng hình phạt này, nó
làm ảnh hưởng lớn mặt kinh tế của chính người phạm tội, làm cho họ mất đi
hoặc giảm sút các điều kiện xã hội để tái phạm. Áp dụng hình phạt tiền càng phát
huy cao độ hơn trong việc đấu tranh các loại tội có tính chất vụ lợi, các tội dùng
tiền làm phương tiện hoạt động, thực hiện hành vi phạm tội, các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế, trật tự cơng cộng, an tồn cơng cộng, trật tự quản lý hành
chính, kinh tế... mà chưa đến mức áp dụng các loại hình phạt khác nghiêm khắc

hơn. Áp dụng hình phạt tiền khơng chỉ đạt được mục đích trừng trị đối với người
phạm tội mà cịn có ý nghĩa giáo dục, cải tạo họ trở nên người có ích hay chí ít
khơng cịn nguy hiểm cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc
của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa người phạm tội phạm tội mới và đồng thời
giáo dục những người khác tơn trọng pháp luật, đấu tranh phịng và chống tội
phạm. Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc quy định và áp dụng hình phạt
tiền, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra u cầu: “Coi trọng việc hồn thiện
chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và


tính hướng thiện. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt
cải tạo khơng giam giữ đối với một số loại tội phạm”.
BLHS Việt Nam quy định nhiều loại hình phạt khác nhau phù hợp với từng
loại tội phạm và hành vi phạm tội. Trong đó có quy định hình phạt tiền và việc
áp dụng hình phạt tiền. Với tính cách là hình phạt hình sự, hình phạt tiền tước ở
người bị kết án một khoản tiền nhất định trong những trường hợp do pháp luật
quy định và sung vào công quỹ Nhà nước. Đây là một hình phạt mang tính chất
kinh tế đánh vào cơ sở kinh tế, tài sản của cá nhân phạm tội nhằm làm cho bị cáo
nhận thức và sửa chữa tư tưởng tư lợi, chủ nghĩa cá nhân, nhằm xóa bỏ hoặc hạn
chế các điều kiện về kinh tế để bị cáo khơng phạm tội mới. Theo pháp luật hình
sự nước ta, việc áp dụng hình phạt tiền được quy định là HPC vừa là HPBS khi
không áp dụng HPC.
Việc quy định hình phạt tiền và áp dụng hình phạt tiền được quy định từ
khá sớm trong pháp luật hình sự Việt Nam và đang dần được hoàn thiện, phản
ánh trong các quy định của BLHS hiện hành nhằm đảm bảo sự phù hợp với tình
hình phát triển của nền kinh tế đất nước trong thời kì đổi mới. Hình phạt tiền
những năm gần đây đã được quan tâm áp dụng mang lại một số kết quả nhất
định trong thực tế. Hình phạt tiền ngày càng được quy định nhiều hơn thay thế
các hình phạt khác được ghi nhận trong BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015.

Trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, hình phạt tiền được Tịa án nói
chung, Tịa án nhân dân quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh nói riêng áp
dụng đối với người phạm tội đã thể hiện được chính sách hình sự của Đảng và
Nhà nước ta, phần nào đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm phục vụ nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của địa phương cũng
như toàn quốc, được dư luận xã hội đồng tình. Tuy nhiên, từ khi các quy định về


hình phạt tiền trong BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) được áp dụng
cho đến nay vẫn chưa phát huy được hết những vai trò và hiệu quả như kỳ
vọng do hạn chế còn tồn tại trong các quy định của pháp luật cũng như thực
tiễn áp dụng các quy định về hình phạt tiền trong thực tế có những điểm cịn
chưa đúng, chưa trúng, chưa đủ, chưa hợp lý, cịn nhiều bất cập, hiệu quả áp
dụng hình phạt tiền cịn thấp, chưa tương xứng với vị trí và vai trị của hình phạt
tiền trong hệ thống hình phạt. Nguyên nhân của những hạn chế này không chỉ
xuất phát từ phía pháp luật thực định mà cịn do nhiều nguyên nhân khác, trong
đó có nguyên nhân từ việc giải thích hướng dẫn áp dụng chưa kịp thời, đồng bộ
và đầy đủ; trình độ chun mơn, nghiệp vụ, kiến thức, ý thức pháp luật và trách
nhiệm nghề nghiệp của một bộ phận những người làm công tác xét xử đòi hỏi
các nhà làm luật và thi hành pháp luật phải nhìn nhận và đánh giá một cách tồn
diện.
Cùng với chế định tội phạm, chế định về hình phạt là một chế định rất cơ
bản và hết sức quan trọng của luật hình sự và bởi vai trị xã hội và hiệu quả của
luật hình sự phụ thuộc rất nhiều vào hình phạt nên việc tiếp tục nghiên cứu
sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa học những vấn đề về áp dụng hình
phạt tiền trong thực tế đời sống xã hội. Tất cả những điều đó địi hỏi chúng ta
phải có những đánh giá xác thực hiệu quả của việc áp dụng hình phạt tiền, chỉ ra
những mặt mạnh, mặt hạn chế của nó đồng thời qua đó đề xuất các giải pháp tiếp
tục mở rộng và nâng cao hiệu quả áp dụng của hình phạt tiền để việc áp dụng
hình phạt tiền thực sự phát huy vai trị của nó trong cơng tác đấu tranh phòng

chống tội phạm mà vẫn đảm bảo được ý nghĩa và mục đích của hình phạt trong
thực tiễn.


Trước tình hình trên và nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện
nhiệm vụ cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính
trị, học viên đã chọn đề tài: “Áp dụng hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc
sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kể từ khi BLHS đầu tiên của Nhà nước ta được ban hành năm 1985 cùng
với chế định tội phạm thì chế định hình phạt nói chung và hình phạt tiền nói
riêng là một trong những vấn đề cơ bản của khoa học pháp lý đã được nhiều tác
giả quan tâm. Đã có những cơng trình nghiên cứu quan trọng đóng góp cho việc
hồn thiện pháp luật hình sự. Riêng vấn đề hình phạt tiền được đề cập trong các
cơng trình như: “Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật” của GS.TS. Đào Trí
Úc do Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 1993. Các bài viết của nhiều
tác giả về loại hình phạt này trên các tạp chí chun ngành như: “Hình phạt tiền
trong Bộ luật hình sự 1999” của TS. Trương Quang Vinh, Tạp chí Luật học số
4/2002; “Về Hình phạt tiền trong Luật hình sự một số nước” của ThS. Trịnh Quốc
Toản, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7/2002; “Một số vấn đề mới về Hình phạt
tiền quy định tại Điều 30 BLHS 1999” của Tiến Việt, Tạp chí TAND số 7/2003;
“Sự mâu thuẩn giữa hình phạt tiền quy định tại khoản 1 Điều 30 BLHS với một số
tội phạm cụ thể và những bất cập của hình phạt này” của TS. Dương Tuyết Miên,
Tạp chí TAND số 5/2006; “Về hình phạt tiền quy định trong Bộ luật hình sự” của
Đỗ Văn Chỉnh đăng trên tạp chí TAND số 5/2007; “Hình phạt tiền và thực tiễn áp
dụng” của Đỗ Văn Chỉnh, Tạp chí TAND số 3/2009; “Hình phạt tiền quy định
trong BLHS năm 1999” của Vũ Thế Đoàn và Nguyễn Hải Bằng, Tạp chí TAND
số 01/2011; “Hình phạt tiền trong Luật hình sự Việt Nam: những vấn đề lý luận”



của Nguyễn Hồng Lâm đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 01/2012;
“Hồn thiện quy định về Hình phạt tiền trong BLHS Việt Nam hiện hành” của
Nguyễn Hoàng Lâm đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7/2012; “Một số ý
kiến về Hình phạt tiền theo quy định của BLHS năm 1999” của Văn Tâm, Tạp chí
Kiểm sát số 4/2013; “Hồn thiện các quy định về Hình phạt tiền của BLHS Việt
Nam” của ThS. Dỗn Trung Đồn, Tạp chí TAND kỳ II tháng 9/2013; Luận văn
thạc sỹ “ Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long
An” năm 2014 của ThS. Nguyễn Văn Đức.
Tuy nhiên, một số cơng trình nghiên cứu riêng về hình phạt tiền nhưng xét
về mặt thời gian tính đến nay đã tương đối xa, trong khi nhiều quy định pháp luật
hình sự về hình phạt này đã được sửa đổi, bổ sung cho nên tính thời sự khơng
cịn; một số cơng trình nghiên cứu khác chỉ nghiên cứu mang tính chất riêng lẻ
hoặc chỉ đề cập lướt qua mà khơng tổng hợp cũng như tồn diện về hình phạt tiền
trong hệ thống hình phạt của pháp luật hình sự Việt Nam. Trong khi đó, một trong
những phương hướng về chiến lược cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đã
xác định trong thời gian tới là giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền
đối với một số tội phạm. Chính phương hướng này đã đặt ra nhiệm vụ là cần phải
tiếp tục nghiên cứu những quy định về hình phạt tiền trong luật hình sự hiện hành.
Từ thực tiễn áp dụng hình phạt tiền của Tịa án nhân dân quận Bình Thạnh, thành
phố Hồ Chí Minh, chỉ ra những hạn chế, những vướng mắc bất cập, đề xuất các
giải pháp tiếp tục mở rộng và nâng cao hiệu quả áp dụng của hình phạt tiền.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về hình phạt tiền, phân tích
các quy định về hình phạt tiền và thực tiễn áp dụng ở quận Bình Thạnh, đề xuất
các giải pháp mở rộng áp dụng hình phạt tiền theo yêu cầu của cải cách tư pháp.


Với mục đích trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về áp dụng hình phạt tiền

như: khái niệm, đặc điểm, vai trò và ý nghĩa; quá trình hình thành, phát triển các
quy định về hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Thứ hai, bình luận làm rõ nội dung các quy định về áp dụng hình phạt tiền
trong BLHS hiện hành, đánh giá tình hình áp dụng hình phạt tiền của Tịa án nhân
dân quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh trong thực tiễn xét xử trên các
bình diện, kết quả đạt được, những hạn chế thiếu sót và nguyên nhân làm cơ sở
thực tế để xây dựng giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt này.
Thứ ba, Từ thực tiễn áp dụng hình phạt tiền của Tịa án nhân dân quận Bình
Thạnh, đề xuất tiếp tục mở rộng và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình
phạt tiền ở nước ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc áp dụng hình phạt tiền theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu: về nội dung: nghiên cứu áp dụng hình phạt tiền cả với
nghĩa là hình phạt chính và cả với nghĩa là hình phạt bổ sung; về chủ thể, địa
phương áp dụng: Tịa án nhân dân quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh; về
thời gian: từ năm 2013 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
Phương pháp luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận văn sử dụng
một số nguyên lý, quy luật và các cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện


chứng để phân tích cơ sở lý luận, đánh giá thực tiễn và đề xuất các kiến nghị phù
hợp với tình hình và yêu cầu mới.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối
chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê,

điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề
tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Qua việc nghiên cứu về lý luận áp dụng hình phạt tiền trong pháp luật
hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng hình phạt tiền tại Tịa án nhân dân quận
Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh, luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ nội dung
pháp lý áp dụng hình phạt tiền cũng như quá trình hình thành, phát triển của
hình phạt tiền, đưa ra bức tranh khái quát về tình hình áp dụng hình phạt tiền
trong thực tiễn ở nước ta hiện nay; đồng thời tìm ra những vướng mắc, bất cập
và đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục mở rộng, hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả của áp dụng hình phạt tiền trong thực tiễn.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết cho hoạt động
thực tiễn, nghiên cứu, giảng dạy pháp luật.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng hình phạt tiền.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về hình phạt tiền và
thực tiễn áp dụng tại quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.


Chương 3: Yêu cầu tiếp tục mở rộng và các giải pháp bảo đảm áp dụng
đúng hình phạt tiền ở nước ta.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TIỀN
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của áp dụng hình phạt tiền
1.1.1. Khái niệm áp dụng hình phạt tiền

Trong các sách báo pháp lý của Việt Nam, khái niệm áp dụng hình phạt tiền
được đề cập đến trong nhiều tác phẩm với nội dung có những điểm khác nhau
nhất định. Đa số các nhà nghiên cứu coi áp dụng hình phạt tiền chỉ là một trong
các hình thức thực hiện pháp luật, song có nhà nghiên cứu lại coi áp dụng hình
phạt tiền đồng nghĩa với thực hiện pháp luật, tức là bao gồm tất cả các hình thức
thực hiện pháp luật [19] [59].
Trên cơ sở tìm hiểu các quan niệm khác nhau về áp dụng hình phạt tiền, có
thể đồng tình với quan niệm của đa số các tác giả coi áp dụng hình phạt tiền là
một trong các hình thức thực hiện pháp luật và đó là hình thức thực hiện pháp
luật có sự can thiệp của Nhà nước. Chúng tôi cho rằng nên xây dựng khái niệm
áp dụng theo hướng đề cập đến tất cả các đặc điểm của nó. Theo hướng này, có
thể định nghĩa về áp dụng hình phạt tiền như sau:
Áp dụng hình phạt tiền là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực Nhà nước,
do Tịa án tiến hành nhằm cá biệt hoá các quy phạm pháp luật hiện hành về hình
phạt tiền vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân và pháp nhân
thương mại phạm tội.
1.1.2. Đặc điểm áp dụng hình phạt tiền
Từ định nghĩa áp dụng hình phạt tiền ta thấy, áp dụng hình phạt tiền có các
đặc điểm sau:
Thứ nhất, áp dụng hình phạt tiền là hoạt động có tính tổ chức, quyền lực


Nhà nước.
Nếu quan niệm thực hiện pháp luật có bốn hình thức thì chỉ có duy nhất áp
dụng áp dụng hình phạt tiền là hình thức ln ln thể hiện tính tổ chức, quyền
lực Nhà nước. Điều đó được thể hiện qua chủ thể tiến hành, trình tự, thủ tục tiến
hành hoạt động áp dụng hình phạt tiền và kết quả của quá trình áp dụng hình
phạt tiền. Cụ thể:
Hoạt động áp dụng hình phạt tiền chỉ do các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành và mỗi chủ thể đó cũng chỉ

được phép áp dụng hình phạt tiền trong một phạm vi nhất định theo quy định của
pháp luật. Chẳng hạn, trong hệ thống các cơ quan, tổ chức Nhà nước thì chỉ Tồ
án mới có quyền xét xử để định tội và định hình phạt cho người hoặc pháp nhân
thương mại phạm tội. Chủ thể tiến hành áp dụng hình phạt tiền là thẩm phán.
Trong quá trình áp dụng hình phạt tiền, chủ thể có thẩm quyền áp dụng
nhân danh Nhà nước, sử dụng quyền lực Nhà nước để xét xử, ra các bản án có
giá trị bắt buộc phải chấp hành đối với các bị cáo và những người có liên quan.
Các mệnh lệnh, quyết định này ln thể hiện ý chí đơn phương của chủ thể có
thẩm quyền áp dụng mà khơng phụ thuộc vào ý chí của chủ thể là đối tượng áp
dụng. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, ý chí đơn phương của chủ thể có thẩm quyền
khơng thể là ý chí cá nhân, tuỳ tiện của người áp dụng mà phải là ý chí được xây
dựng trên cơ sở pháp luật, căn cứ vào pháp luật và phù hợp với pháp luật.
Các mệnh lệnh, quyết định áp dụng hình phạt tiền được Nhà nước bảo đảm
thực hiện bằng các biện pháp mang tính quyền lực Nhà nước. Thông thường, sau
khi ban hành ra các mệnh lệnh, quyết định áp dụng hình phạt tiền, các chủ thể có
thẩm quyền sẽ cơng bố cơng khai cho đối tượng áp dụng để họ biết mà thực hiện.
Áp dụng hình phạt tiền là hoạt động có tính tổ chức rất cao vì nó vừa là


hình thức thực hiện pháp luật vừa là hình thức Nhà nước tổ chức cho các chủ thể
thực hiện các quy định của pháp luật. Vì thế, hoạt động này phải được tiến hành
theo những điều kiện, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ do pháp luật quy định.
Nói chung, các quyết định do các chủ thể có thẩm quyền ban hành ra trong
quá trình áp dụng hình phạt tiền có ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của người được
áp dụng, nó có thể tước bỏ của người ta lợi ích rất lớn bắt người ta phải gánh
chịu những hậu quả rất nặng nề chính là bản án hình sự. Do vậy, để đảm bảo tính
đúng đắn, chính xác của quá trình áp dụng hình phạt tiền, hoạt động này không
thể được tiến hành một cách tuỳ tiện mà phải theo những trình tự, thủ tục và trên
cơ sở những điều kiện rất chặt chẽ do pháp luật quy định.
Thứ hai, áp dụng hình phạt tiền là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối

với các quan hệ xã hội hay là hoạt động nhằm cá biệt hoá các quy phạm pháp
luật hiện hành vào những trường hợp cụ thể, đối với các cá nhân cụ thể.
Các quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự chung nên không chỉ rõ chủ
thể cụ thể và trường hợp cụ thể cần áp dụng. Khi một quy phạm nào đó được áp
dụng vào việc giải quyết một vụ việc thực tế của một chủ thể cụ thể thì có nghĩa
là quy phạm đó đã được cá biệt hố vào trường hợp của chủ thể đó. Tuy nhiên,
cần lưu ý rằng, các quy phạm được áp dụng vào việc giải quyết các vụ việc thực
tế, cụ thể hay được cá biệt hoá phải là các quy phạm pháp luật hiện hành hay các
quy phạm đang còn hiệu lực pháp lý. Vì vậy, khi tiến hành áp dụng hình phạt
tiền, chủ thể có thẩm quyền khơng thể lựa chọn và áp dụng các quy phạm pháp
luật đã hết hiệu lực.
Các đặc điểm trên làm cho áp dụng hình phạt tiền khác hồn tồn với các
hình thức thực hiện pháp luật khác, bởi lẽ, chủ thể của các hình thức tuân theo,
thi hành, sử dụng pháp luật có thể là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào trong xã hội;


trong khi đó, chủ thể tiến hành áp dụng hình phạt tiền chỉ có thể là chủ thể có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, áp dụng hình phạt tiền là hoạt động phải tuân theo những hình
thức và thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
Khi tuân theo, thi hành hoặc sử dụng pháp luật, chủ thể có thể khơng cần
đưa ra một quyết định pháp lý nào và cũng có thể khơng bị bắt buộc phải theo
những trình tự, thủ tục nhất định. Cịn khi áp dụng pháp luật hình phạt tiền, chủ
thể có thẩm quyền luôn bị bắt buộc phải tiến hành theo những điều kiện, trình tự,
thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định và bao giờ cũng phải đưa ra một quyết
định áp dụng hình phạt tiền để giải quyết vụ việc mà mình thụ lý. Có thể nói, áp
dụng hình phạt tiền bao hàm cả ba hình thức trên bởi lẽ, trong quá trình áp dụng
hình phạt tiền, chủ thể có thẩm quyền cũng có thể bị cấm thực hiện những hành
vi nhất định và họ phải tuân theo pháp luật, họ cũng phải thực hiện những nghĩa
vụ pháp lý nhất định, tức là phải thi hành pháp luật, đồng thời có những quyền

hạn nhất định tức là có thể sử dụng pháp luật.
Nếu xem xét một cách chi tiết, cụ thể trong thực tế cuộc sống thì sẽ có vô
vàn trường hợp cần áp dụng pháp luật, bởi lẽ, pháp luật được ban hành để điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong nhiều lĩnh vực của đời sống, từ dân sự,
hình sự đến hơn nhân và gia đình, tài chính, đất đai… Song nếu khái qt lại để
xem xét về mặt lý luận thì có thể thấy, hoạt động áp dụng hình phạt tiền được
tiến hành trong các trường hợp sau:
Khi quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt.
Xem xét nội dung các quy định cụ thể của pháp luật, ta thấy, mặc dù trong
nhiều quy phạm pháp luật đã quy định rõ quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ


thể, song các chủ thể khơng thể tự mình thực hiện được các quyền và nghĩa vụ
đó mà cần phải có sự can thiệp của Nhà nước thơng qua hoạt động của các cơ
quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền.
Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước đối với các chủ thể vi
phạm pháp luật.
Để bảo đảm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và tự giác
bởi mọi chủ thể trong xã hội, nhiều quy phạm pháp luật đã quy định các biện
pháp cưỡng chế Nhà nước cần áp dụng với người vi phạm trong phần chế tài của
nó. Việc áp dụng một biện pháp cưỡng chế Nhà nước cụ thể với một chủ thể cụ
thể là bắt họ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi hay những sự thiệt hại
nhất định về tài sản, về nhân thân, về tự do… Vì thế, để đảm bảo cơng bằng xã
hội, chỉ có các chủ thể có thẩm quyền mới có thể áp dụng và hoạt động áp dụng
của họ phải được tiến hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục chặt chẽ do
pháp luật quy định.
1.1.3. Ý nghĩa của áp dụng hình phạt tiền
- Áp dụng hình phạt tiền là một hoạt động có tính chất chuyển tải quy định
về hình phạt tiền vào trong thực tiễn, nếu khơng có hoạt động áp dụng thì nó

khơng thể chuyển tải trong thực tiễn mà chỉ dừng lại ở các quy phạm trên giấy,
khơng có giá trị thực tiễn. Trong hệ thống hình phạt, phạt tiền là hình phạt vừa
được quy định là HPC, vừa được quy định là HPBS. Như vậy, nếu coi hệ thống
hình phạt được cấu thành từ hai hệ nhỏ: hệ các HPC và hệ các HPBS thì hình
phạt tiền có mặt ở cả hai hệ đó. Việc áp dụng hình phạt tiền cho phép Tịa án áp
dụng có hiệu quả hơn đối với một số tội phạm trong lĩnh vực nhất định, giúp cho
việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người phạm tội, tránh
việc lạm dụng hình phạt tước tự do, đồng thời có thể sung quỹ Nhà nước một


khoản tiền nhất định. Tuy nhiên, quy định về hình phạt tiền chỉ có thể phát huy
vai trị của mình một cách đầy đủ khi chúng được các chủ thể có thẩm quyền áp
dụng trong việc xử lý các hành vi phạm tội tương ứng. Thiếu hoạt động này, quy
định về hình phạt tiền chỉ đơn giản là những quy định thiếu sức sống.
- Áp dụng hình phạt tiền cung cấp cơ sở thực tiễn cho việc đánh giá được
chất lượng của quy phạm pháp luật liên quan đến hình phạt tiền. Chỉ thơng qua
hoạt động áp dụng mới có thể xác định được chính xác là quy định của pháp luật
về hình phạt tiền có phù hợp hày khơng phù hợp từ đó để tìm ra hướng hồn
thiện các quy định về hình phạt tiền.
- Áp dụng hình phạt tiền có tác động rất lớn trong việc cải tạo giáo dục
người phạm tội cho nên khi áp dụng hình phạt tiền chúng ta thực hiện được các
mục đích đó. Hình phạt tiền là hình phạt có khả năng tác động một cách trực tiếp
và mạnh mẽ về mặt kinh tế đối với người phạm tội. Tuy mạnh mẽ và trực tiếp về
mặt hạn chế những lợi ích kinh tế đối với người bị áp dụng nhưng phạt tiền lại là
hình phạt nhẹ hơn so với cải tạo khơng giam giữ xét về mặt nghiêm khắc, đối với
những trường hợp cần được áp dụng biện pháp hình phạt có khả năng tác động
mạnh mẽ về mặt kinh tế của người phạm tội mà chưa cần sử dụng tới các hạn
chế pháp lý khác. Cần tránh quan điểm sai lầm là việc quy định phạt tiền là một
hình phạt trong hệ thống hình phạt của Luật hình sự thì khơng thể hiện được tính
nghiêm minh của pháp luật. Bởi vì trong trường hợp phạm tội mà tính nguy hiểm

của hành vi phạm tội chưa đến mức áp dụng hình phạt tù thì hình phạt khác nặng
hơn hình phạt này thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù cho người
phạt tội và hình phạt tiền là một hình phạt trong số đó. Có thể, nếu phạt tiền
(cùng với mức phạt cụ thể) được Tòa án tuyên phù hợp với tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, cũng như



×