Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Các biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 6 viết đoạn văn nlxh theo chương trình sgk mới đinh cầm châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.82 KB, 57 trang )

UBND THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến: Các biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 6 viết
đoạn văn nghị luận xã hội (theo chương trình SGK mới)
Bộ mơn (lĩnh vực): Ngữ văn

Năm học 2021 – 2022


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Các biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 6 viết đoạn
văn nghị luận xã hội (theo chương trình SGK mới).
2. Bộ môn (lĩnh vực) áp dụng sáng kiến: Ngữ văn.
3. Tác giả:
Họ và tên: Đinh Cầm Châu

Giới tính: Nữ

Ngày sinh: 04/10/1984
Trình độ chuyên môn: Cử nhân Ngữ văn.
Chức vụ, đơn vị cơng tác: Phó hiệu trưởng - Trường THCS Việt Hịa.
Điện thoại: 0962.511.122
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường THCS Việt Hòa
Địa chỉ: Khu 4 - Phố Văn – Phường Việt Hòa - Thành phố Hải Dương
Điện thoại:
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường THCS Việt Hòa.
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Giáo viên dạy Ngữ
văn THCS có sự quan tâm đến đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là dạy
học phần văn nghị luận xã hội còn rất mới mẻ với học sinh lớp 6. Tùy theo


thời lượng cho phép, giáo viên tổ chức dạy học theo các giải pháp đã nêu
cho phù hợp.
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2021 – 2022.

TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP
DỤNG SÁNG KIẾN

Đinh Cầm Châu
XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD&ĐT


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

Thông tin chung về sáng kiến
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Báo cáo sáng kiến
Tóm tắt sáng kiến
Mơ tả sáng kiến

1

1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến

1


2. Cơ sở lý luận

2

3. Thực trạng của vấn đề

4

4. Các giải pháp thực hiện

9

4.1. Hướng dẫn học sinh thực hiện tốt khâu tìm hiểu đề và tìm ý

9

4.2. Rèn cho học sinh thói quen lập dàn ý trước khi viết

11

4.3. Định hướng cách tạo lập một đoạn văn nghị luận xã hội hồn
chỉnh theo trình tự mạch lạc, hợp lý

12

4.4. Động viên, khuyến khích học sinh duy trì thói quen đọc để mở
rộng vốn sống, có thêm tư liệu viết

16


4.5. Chú trọng thực hành khi dạy – học các tiết tập làm văn về kiểu
bài nghị luận xã hội

16

4.6. Đa dạng hóa các dạng đề nghị luận xã hội, giúp học sinh nhận
diện, phát hiện vấn đề nghị luận một cách linh hoạt

18

4.7. Tích hợp với các đơn vị bài học có liên quan để rèn thêm kĩ
năng tạo lập văn bản nghị luận xã hội cho học sinh

21

5. Kết quả đạt được

24

6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng

27

Kết luận và khuyến nghị

28

Danh mục tài liệu tham khảo


31

Phụ lục

32->61


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

SGK

Sách giáo khoa

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

NXB


Nhà xuất bản

SK

Sáng kiến

KTĐG

Kiểm tra đánh giá

GDPT

Giáo dục phổ thông


BÁO CÁO SÁNG KIẾN
Tên Sáng kiến: Các biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 6 viết đoạn
văn nghị luận xã hội (theo chương trình SGK mới).
Chun mơn đào tạo của tác giả: Cử nhân Ngữ văn.
Chuyên môn t/g được phân công năm học 2021 - 2022: Ngữ văn.
1. Thời gian, đối tượng, điều kiện:
- Bắt đầu triển khai nghiên cứu: tháng 8 năm 2021
- Khảo sát (KS) đầu vào: tháng 9 năm 2021 (tuần 05)
+ Đối tượng KS: Học sinh lớp 6

+ Số lượng KS: 75 HS

+ Nội dung khảo sát: Khảo sát thái độ của học sinh đối với kiểu bài văn nghị
luận xã hội trong nhà trường; khảo sát qua thực hành làm bài tập.

- Khảo sát đầu ra: tháng 12 năm 2021 (tuần 17)
+ Đối tượng KS: Học sinh lớp 6

+ Số lượng KS: 75 HS

+ Nội dung khảo sát: Khảo sát học sinh qua bài KTĐG cuối học kì I.
- Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2021 – 2022
- Đối tượng áp dụng: Học sinh khối lớp 6.
- Điều kiện cần thiết để áp dụng: Giáo viên có ý thức đổi mới
phương pháp, đặc biệt là kiểu bài nghị luận xã hội SGK Ngữ văn 6 theo
chương trình GDPT 2018. Học sinh tích cực, hợp tác.
2. Lí do nghiên cứu: Kiểu bài văn nghị luận xã hội là kiểu bài có ý
nghĩa gắn liền với thực tiễn cuộc sống. Với HS lớp 6, đây là kiểu bài mới
được tiếp cận, cần được uốn nắn về phương pháp và rèn kĩ năng ngay từ
năm đầu tiên của cấp học, tạo nền tảng cho những năm học tiếp theo.
3. Các tồn tại trước khi có SK, ngun nhân:
* Về phía học sinh: Nhiều học sinh lớp 6 mới từ Tiểu học lên, còn rất bỡ
ngỡ với chương trình học và kiểu bài nghị luận xã hội là một kiểu bài mới
được làm quen, đòi hỏi kiến thức cuộc sống phong phú, khả năng lập luận.
* Về phía giáo viên: Trên thực tế, các tiết dạy kiểu bài văn nghị luận xã hội
ở lớp 6 khơng nhiều dẫn đến giáo viên cịn khó khăn về thời gian hướng dẫn,
rèn học sinh. Một số giáo viên chưa mạnh dạn trong đổi mới phương pháp.


4. Các biện pháp đề ra:
4.1. Các biện pháp
- Hướng dẫn học sinh thực hiện tốt khâu tìm hiểu đề và tìm ý.
- Rèn cho học sinh thói quen lập dàn ý trước khi viết.
- Định hướng cách tạo lập một đoạn văn nghị luận xã hội hoàn chỉnh.
- Động viên, khuyến khích học sinh duy trì thói quen đọc để mở rộng vốn

sống, có thêm tư liệu viết.
- Chú trọng thực hành khi dạy – học kiểu bài nghị luận xã hội.
- Đa dạng hóa các dạng đề nghị luận xã hội, giúp học sinh nhận diện, phát
hiện vấn đề nghị luận một cách linh hoạt.
- Tích hợp với các đơn vị bài học có liên quan để rèn thêm kĩ năng tạo lập
văn bản nghị luận xã hội cho học sinh.
4.2. Điểm mới
Sáng kiến đã đưa ra hệ thống các giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu
quả dạy - học kiểu bài nghị luận xã hội lớp 6, gắn liền với nội dung sách
giáo khoa mới theo chương trình GDPT 2018.
5. Hiệu quả mang lại:
* Kết quả khảo sát trước khi áp dụng SK (Tháng 09/2021)
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
Số
Lớp
HS SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ
SL Tỉ lệ
SL Tỉ lệ
SL Tỉ lệ
38 01
09
20
06
02
6B
2,6%

23,7%
52,7%
15,8%
5,2%
6C

37

0

0%

12

32,5%

18

48,6%

04

10,8% 03 8,1%

* Kết quả khảo sát sau khi áp dụng SK (Tháng 12 năm 2021)
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Số

Lớp
HS SL Tỉ lệ
SL Tỉ lệ
SL Tỉ lệ
SL Tỉ lệ
6B
6C

38

08

37

07

21%
18,9%

20
17

52,6%
45,9%

10
12

26,4%
32,5%


0
01

0%
2,7%

Kém
Tỉ
SL
lệ
0
0%
0

0%

6. Khuyến nghị: Các nhà trường tiếp tục tạo điều kiện để GV nâng
cao trình độ, phương pháp…Sáng kiến cần được phát triển, thực hiện ở tồn
bộ chương trình Ngữ văn THCS.


TĨM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Năm học 2021 – 2022 là năm đầu tiên áp dụng chương trình GDPT
2018 đối với khối lớp 6 trên cơ sở định hướng dạy và học phát triển năng
lực, phẩm chất học sinh. Điểm mới về nội dung là bên cạnh kiểu bài văn tự
sự, miêu tả, SGK mới bổ sung thêm các kiểu bài biểu cảm và nghị luận.
Trong đó, kiểu bài nghị luận xã hội là điều khơng dễ dàng với các em lớp 6
mới từ Tiểu học lên bởi kiểu bài này đòi hỏi kĩ năng lập luận, vốn sống...

Trước đề bài nghị luận xã hội, nhiều học sinh rất lúng túng tìm ra cách làm
cho đúng cho chuẩn với yêu cầu của đề. Xuất phát từ điều đó, tơi lựa chọn
đề tài “Các biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 6 viết đoạn văn nghị luận xã
hội (theo chương trình SGK mới)”.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:
* Các điều kiện cần thiết đảm bảo cho việc dạy và học; một số phương tiện,
thiết bị hỗ trợ như máy chiếu, máy tính có kết nối Internet…
- Giáo viên: Phải lựa chọn, nghiên cứu phương pháp phù hợp với học sinh
và đảm bảo thời lượng thực hiện các giải pháp.
- Học sinh: Có hứng thú học tập, biết hợp tác, biết cách khai thác thêm các
thông tin…
* Thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến: Năm học 2021-2022, đối tượng
HS lớp 6.
3. Nội dung sáng kiến:
3.1. Các giải pháp đổi mới đã thực hiện:
Sáng kiến gồm các nội dung cơ bản:
1. Tìm hiểu chung về kiểu bài văn, đoạn văn nghị luận xã hội
2. Thực trạng của việc dạy – học kiểu bài văn nghị luận xã hội trong
chương trình Ngữ văn 6 mới.
3. Đề xuất các phương pháp hiệu quả:
- Hướng dẫn học sinh thực hiện tốt khâu tìm hiểu đề và tìm ý.
- Rèn cho học sinh thói quen lập dàn ý trước khi viết.


- Định hướng cách tạo lập một đoạn văn nghị luận xã hội hồn chỉnh.
- Động viên, khuyến khích học sinh duy trì thói quen đọc để mở rộng vốn
sống, có thêm tư liệu viết.
- Chú trọng thực hành khi dạy – học kiểu bài nghị luận xã hội.
- Đa dạng hóa các dạng đề nghị luận xã hội, giúp học sinh nhận diện, phát
hiện vấn đề nghị luận một cách linh hoạt.

- Tích hợp với các đơn vị bài học có liên quan để rèn thêm kĩ năng tạo lập
văn bản nghị luận xã hội cho học sinh.
3.2. Đánh giá kết quả đạt được từ chuyên đề dạy học:
* Tính mới, tính sáng tạo: Sáng kiến quan tâm đến việc đổi mới
phương pháp, phát huy tính tích cực, phát triển năng lực của học sinh, đặc
biệt là năng lực tạo lập văn bản trong dạy – học kiểu bài văn nghị luận xã
hội đối với học sinh lớp 6 theo chương trình SGK mới.
* Khả năng áp dụng: Trong dạy- học kiểu bài nghị luận xã hội; ở
nhiều đối tượng học sinh.
* Về lợi ích thiết thực của sáng kiến: Nâng cao hiệu quả dạy – học;
GV có tài liệu tham khảo hữu ích trong việc tổ chức dạy học theo phương
pháp mới ở kiểu bài văn nghị luận xã hội theo chương trình GDPT 2018.
* Về hiệu quả xã hội: Góp phần đào tạo con người phát triển tồn
diện, có đủ các năng lực cần thiết để xây dựng xã hội.
4. Giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến: Những giải pháp đưa ra
có giá trị thiết thực trong việc dạy và học kiểu bài văn nghị luận xã hội, đặc
biệt có ý nghĩa với học sinh lớp 6 mới tiếp cận với kiểu bài này.
5. Đề xuất, kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng
kiến:
GV cần thấy được vai trò của kiểu bài nghị luận xã hội, có ý thức đổi
mới phương pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng dạy – học; Các nhà
trường tiếp tục hoàn thiện cơ sở vật chất phục vụ dạy học, tạo điều kiện để
GV nâng cao trình độ, đổi mới phương pháp…Sáng kiến cần được phát
triển, thực hiện ở tồn bộ chương trình Ngữ văn THCS.


MƠ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến
Nghị luận xã hội là kiểu bài quan trọng được biên soạn và giảng dạy
trong chương trình sách giáo khoa từ bậc THCS đến THPT hiện nay. Bởi

trang bị cho học sinh kiến thức về xã hội là vô cùng cần thiết. Mục tiêu cụ
thể của ngành khi đưa kiểu bài này vào chương trình gắn liền với việc đổi
mới mục tiêu dạy – học môn Ngữ văn trong nhà trường. Học văn, các em
không chỉ nắm bắt được giá trị nội dung tư tưởng, cái hay cái đẹp của tác
phẩm, tài năng nghệ thuật độc đáo của nhà văn mà còn cần hiểu biết những
vấn đề phong phú của thực tiễn cuộc sống, những gì đang diễn ra xung
quanh các em, những phẩm chất đạo đức con người, quan niệm sống, mơi
trường sống…. Từ đó, các em chọn cho mình một lối sống phù hợp, đúng
đắn, có ý nghĩa.
Hơn thế, nghị luận xã hội thật sự là một kiểu bài có khả năng kích
thích tư duy sáng tạo của học sinh: đưa ra các vấn đề bức thiết của xã hội để
các em suy nghĩ, tìm cách giải quyết thấu đáo, định hướng cho các em cách
sống chuẩn mực từ những hiểu biết về xã hội. Với mục tiêu thiết thực ấy,
học sinh sẽ hiểu sâu sắc hơn hàng loạt các vấn đề quanh mình như: mơi
trường, giao thơng, tệ nạn xã hội…; đó cũng là các vấn đề về đạo đức, lối
sống như: lịng biết ơn, tình u thương con người, sự tự tin, phẩm chất dũng
cảm, trung thực… Tất cả góp phần hình thành các năng lực, kĩ năng sống
cần thiết cho các em: kĩ năng phân tích và xử lý tình huống, kĩ năng giao
tiếp, ứng xử, năng lực tư duy, sáng tạo…
Năm học 2021 – 2022 là năm đầu tiên áp dụng chương trình GDPT
2018 đối với khối lớp 6 trên cơ sở định hướng và mục tiêu dạy và học phát
triển năng lực, phẩm chất học sinh. Điểm mới về nội dung so với chương
trình SGK Ngữ văn 6 trước đó là bên cạnh kiểu bài văn tự sự, miêu tả, SGK
mới bổ sung thêm các kiểu bài biểu cảm và nghị luận. Trong đó, kiểu bài
nghị luận xã hội yêu cầu học sinh lớp 6 viết dưới hình thức một đoạn văn.


Trên thực tế, làm văn nghị luận xã hội quả thật không dễ với đông đảo
học sinh, đặc biệt là các em lớp 6 mới từ Tiểu học lên, bởi kiểu bài này
khơng chỉ địi hỏi kĩ năng lập luận mà còn là sự thể hiện vốn sống, ý thức

quan tâm đến xã hội, bản lĩnh tư duy độc lập và một thế giới tâm hồn phong
phú, nhạy cảm. Khi đứng trước đề bài nghị luận xã hội, nhiều học sinh rất
lúng túng tìm ra cách làm cho đúng cho chuẩn với yêu cầu của đề.
Trước thực tế nói trên, tôi trăn trở, đặt ra các câu hỏi: Làm thế nào để
các em lớp 6 hình thành được kĩ năng viết tốt một đoạn văn nghị luận xã hội,
tạo cơ sở cho các năm học tiếp theo? Và cái đích cuối cùng đó là các em có
được vốn sống, rèn được kĩ năng sống từ những bài văn nghị luận xã hội
trong nhà trường. Xuất phát từ điều đó, tơi lựa chọn đề tài “Các biện pháp
hướng dẫn học sinh lớp 6 viết đoạn văn nghị luận xã hội (theo chương trình
SGK mới)”. Hi vọng với cái nhìn và phạm vi ứng dụng cụ thể cho phần dạy
– học kiểu bài nghị luận xã hội, đề tài sẽ phần nào góp một tiếng nói dù cịn
nhỏ bé vào việc nâng cao hiệu quả dạy - học môn Ngữ văn 6 theo chương
trình GDPT 2018 nói riêng và ở trường THCS nói chung theo hướng hiện
đại, đem lại kết quả khả quan hơn cho học sinh.
2. Cơ sở lí luận
2.1. Kiểu bài nghị luận xã hội
- Nghị luận: (nghị là xem xét, trao đổi; luận là bàn bạc, đánh giá) là
kiểu bài văn dùng lý lẽ, dẫn chứng và cách thức lập luận để phân tích, bàn
luận, đánh giá về một (những) vấn đề nào đó.
- Xã hội: các vấn đề của đời sống con người (triết học, lịch sử, kinh tế,
đạo đức, văn học nghệ thuật, lối sống, cách ứng xử…).
-

Nghị luận xã hội là những bài văn dùng lí lẽ và luận bàn về các vấn

đề xã hội (thực trạng xã hội, các hiện tượng đời sống, vấn đề về lối sống của
con người, các mối quan hệ của con người trong xã hội…) nhằm thể hiện
suy nghĩ, thái độ, tiếng nói chủ quan của người viết về vấn đề đặt ra, góp
phần tạo nên những tác động tích cực tới con người, bồi đắp những giá trị
nhân văn và thúc đẩy sự tiến bộ chung của xã hội.



2.2.

Đoạn văn nghị luận xã hội

2.2.1. Khái niệm đoạn văn
- Đoạn văn là đơn vị cơ sở của văn bản, là một tập hợp các câu diễn đạt
một nội dung nhất định. Đoạn văn được mở đầu bằng chỗ lùi đầu dòng, viết
hoa chữ cái đầu tiên và kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng.
- Đoạn văn đúng và hay luôn đảm bảo sự liên kết về nội dung và hình
thức:
+ Dấu hiệu liên kết về nội dung:
++ Liên kết chủ đề (các câu phải phục vụ chủ đề chung của đoạn văn).
++ Liên kết lơ-gíc (các câu trong đoạn văn phải được sắp xếp theo một
trình tự hợp lí).
+ Dấu hiệu liên kết hình thức thường biểu hiện qua phép liên kết:
++ Phép lặp từ ngữ: sử dụng lặp đi lặp lại một (một số) từ ngữ nào đó ở
các câu khác nhau để tạo sự liên kết.
++ Phép đồng nghĩa, trái nghĩa và liên tưởng: sử dụng các từ ngữ đồng
nghĩa, trái nghĩa hoặc cùng trường liên tưởng ở các câu khác nhau để tạo sự
liên kết.
++ Phép thế: sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ có tác dụng thay thế từ
ngữ đã có ở câu đứng trước.
++ Phép nối: sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ biểu thị quan hệ với câu
đứng trước.
2.2.2. Cấu trúc đoạn văn phù hợp
Đoạn văn nghị luận xã hội gắn với một quan điểm/ ý kiến / vấn đề
được trích dẫn hoặc được gợi ra từ văn bản đọc hiểu là đoạn văn có câu chủ
đề.

Câu chủ đề: là câu bao chứa trọn vẹn nội dung chính của đoạn văn,
câu có hình thức ngắn gọn, đầy đủ thành phần chính, có thể đứng ở đầu hoặc
cuối đoạn văn, tùy thuộc cấu trúc đoạn văn.
Ví dụ đoạn văn nghị luận về ý nghĩa của tình yêu thương:


Tình yêu thương như một thứ ánh sáng sưởi ấm tâm hồn mỗi người.
Yêu thương là động lực mạnh mẽ giúp con người nhanh chóng thay đổi cảm
xúc, giúp con người hạnh phúc vì nhận được sự quan tâm đến từ phía người
trao. Nó truyền cảm hứng sống tới những con người cô đơn, bất hạnh, giúp
họ vươn lên trong cuộc sống. u thương có sức mạnh cảm hóa kì diệu với
những con người “lầm đường lạc lối”, mang lại niềm hạnh phúc, niềm tin
trong cuộc sống. Ngồi ra, tình u thương chính là cơ sở để con người
hồn thiện nhân cách, tạo dựng một xã hội văn minh. Trong cuộc sống, ta
khơng khó nhận ra những biểu hiện của tình u thương. Đó là tình cảm cha
mẹ dành cho ta mỗi ngày, là hành động của các bạn nhỏ mọi miền Tổ quốc
quyên góp chút sức lực hoặc vật chất nhỏ bé ủng hộ đồng bào miền Trung
sau cơn bão lũ. Bên cạnh đó là những người chiến sĩ áo trắng hết lịng vì
sức khỏe nhân dân, những người chiến sĩ an ninh nhân dân nêu cao tinh
thần bảo vệ an ninh Tổ quốc…
2.3. Các chủ đề nghị luận xã hội trong SGK Ngữ văn 6 chương trình
GDPT 2018
Các chủ đề tập trung thể hiện rất quen thuộc, gần gũi với học sinh và bám
sát theo chương trình Ngữ văn mới. Mỗi chủ điểm trong các bộ SGK Ngữ
văn (Cánh diều – Kết nối tri thức với cuộc sống – Chân trời sáng tạo) chung
quy lại đều là những vấn đề có ý nghĩa, tạo ấn tượng, có sự tác động đến tư
tưởng của học sinh. Có thể ví dụ như phương pháp học tập trong mùa dịch
Covid-19, kĩ năng đọc sách, tìm hiểu về những nét văn hóa truyền thống của
dân tộc, bảo vệ mơi trường, vì sao chúng ta phải đối xử thân thiện với động
vật?… Mỗi chủ đề khơi gợi trong học sinh sự hứng thú, tìm tịi và cũng như

nhằm giáo dục nhận thức, tư tưởng đến những điều tốt đẹp nhất, hướng
chúng ta đến cái thiện, đánh thức trong các em niềm tự hào dân tộc và trách
nhiệm của bản thân đối với quê hương, đất nước. Đồng thời học được cách
thuyết phục người đọc, người nghe bằng việc nêu ý kiến, sử dụng lí lẽ và
bằng chứng cụ thể.


3. Thực trạng của vấn đề
3.1. Thuận lợi
- Một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá giờ dạy của giáo
viên đứng lớp là đề ra mục tiêu kiến thức, kỹ năng, thái độ, định hướng phát
triển năng lực, nhiệm vụ học tập rõ ràng; tổ chức và điều khiển học sinh học
tập tích cực, chủ động, có phương pháp hỗ trợ và khuyến khích hoạt động
học hiệu quả. Điều này thúc đẩy giáo viên không ngừng đổi mới phương
pháp để đáp ứng yêu cầu đổi mới, trong đó có việc nâng cao hiệu quả giảng
dạy mơn Ngữ văn nói chung và kiểu bài văn nghị luận xã hội trong chương
trình Ngữ văn 6 nói riêng.
- Kiểu bài văn nghị luận xã hội thường xoay quanh những vấn đề thiết
thực, gần gũi với học sinh, gắn với cuộc sống hằng ngày như vấn đề mơi
trường, an tồn giao thơng, tệ nạn xã hội…. nên các em dễ dàng tiếp cận để
viết bài văn trình bày suy nghĩ, quan điểm của mình.
3.2. Khó khăn, hạn chế trong q trình thực hiện và nguyên
nhân:
     * Về phía học sinh:
- Đối với học sinh lớp 6 vừa từ Tiểu học lên, nhận thức về đời sống xã
hội của các em vẫn còn nhiều hạn chế. Tiếp cận kiểu bài nghị luận xã hội
hồn tồn mới mẻ ngay từ học kì I (dù chỉ là yêu cầu viết một đoạn văn hoặc
thực hành nghe, nói, trình bày ý kiến về một vấn đề) nhưng chắc chắn sẽ
khiến các em không tránh khỏi những bỡ ngỡ ban đầu.
- Bên cạnh đó, một bộ phận học sinh tỏ ra ngại học văn, có xu hướng

thiên về các môn khoa học tự nhiên hoặc ngoại ngữ. Một số em chưa có thói
quen chủ động tìm hiểu khám phá bài học, cịn thờ ơ, thậm chí chán nản.
Việc tự học, tự soạn văn, chuẩn bị cho bài học trên lớp hay tự rèn khả năng
tạo lập văn bản của một số học sinh cịn đối phó, thậm chí có em bị lệ thuộc
vào gợi ý hướng dẫn của các loại sách tham khảo như: “Để học tốt…”,
“Những bài văn mẫu...”… Những tài liệu này, vơ hình chung đã làm hạn chế


óc sáng tạo, suy nghĩ của người học, biến học sinh thành những người quen
suy nghĩ, diễn đạt bằng những ý vay mượn, lệ thuộc quá nhiều vào sách vở.
Riêng với kiểu văn nghị luận xã hội với hệ thống lí lẽ, lập luận…, nhiều em
cho là khơ khan, khơng sinh động, hấp dẫn như các văn bản truyện. Vì vậy,
dễ hiểu khi các em thụ động, thiếu hứng thú để tìm tịi, nghiên cứu, sáng tạo.
- Kĩ năng làm văn của nhiều học sinh lớp 6 còn hạn chế: đứng trước
một đề văn các em không xác định được yêu cầu của đề bài, từ đó khó có thể
xác định và tìm được hướng đi của bài, thậm chí các em chỉ làm qua loa, đại
khái cho xong, có em còn làm lạc đề hoặc làm thiếu ý, đoạn văn thiếu mạch
lạc rõ ràng. Cá biệt nhiều em không cần suy nghĩ cách làm, khi giáo viên
giao đề văn thì ngay lập tức đi tìm sách tham khảo để xem để chép hoặc dựa
vào dàn ý cô giáo cho sẵn để làm dẫn đến bài viết không linh hoạt khơ cứng,
khơng chân thật, có phần gượng ép.
- Kiểu loại văn nghị luận xã hội phạm vi bao hàm của nó rất rộng đa
dạng phong phú, mn hình mn vẻ trong khi đó thời lượng dành cho phần
lí thuyết cịn ít dẫn đến kĩ năng làm bài còn hạn chế.
Bảng 1: Ý kiến khảo sát thái độ của học sinh lớp 6 đối với kiểu bài văn nghị luận xã
hội

(mẫu số 1)

Nội dung


Thái độ của học sinh đối
với kiểu bài văn nghị luận
xã hội.

Kết quả

Nhàm chán

30%

Học chỉ để biết

30%

Học để đối phó với các
giờ kiểm tra.
Học để rèn các kĩ năng,
năng lực cần thiết

40%

10%

Tinh thần học tập của học

Khơng thích học

30%


sinh

Bình thường

40%


Ngại học, ngại tìm hiểu

20%

u thích

10%

Mong muốn đối với giờ Được tích cực học tập, tự
Ngữ văn hiện nay, đặc học học, tự tìm hiểu.

100%

biệt đối với các tiết học Được rèn kĩ năng làm bài

90%

kiểu bài văn nghị luận xã Không phải ghi chép
hội.
nhiều

100%


     Bảng trên cho thấy một số vấn đề như sau:
- Về thái độ của học sinh trong các tiết học kiểu bài văn nghị luận xã
hội: nhiều em còn thờ ơ với kiểu bài này, cho rằng học chỉ để biết, để đối
phó với kiểm tra và một số tỏ ra rất nhàm chán, cho rằng đây là kiểu bài rất
khơ khan, khó học.
- Thời lượng các tiết học cịn ít nên các em chưa được rèn nhiều về kĩ
năng làm bài vì vậy khi thực hành vào làm các đề cụ thể, còn nhiều lúng
túng từ khâu nhận diện đề, tìm ý, lập dàn ý đến q trình viết thành đoạn văn
hồn chỉnh. Nhiều học sinh cịn có tâm lý ngại đọc, nghiên cứu, tìm hiểu để
mở mang kiến thức, vốn sống.
  * Về phía giáo viên:
- Thời gian để rèn kĩ năng cho các em và thực hành đa dạng các dạng
bài ngay trên lớp là chưa nhiều bởi thực tế số lượng các tiết dạy kiểu bài văn
nghị luận còn chiếm tỉ lệ rất ít (chủ yếu thực hành dưới dạng bài nói: trình
bày ý kiến về một vấn đề, chưa có nhiều điều kiện thực hành viết một đoạn
văn ngay trên lớp). Do vậy, mặc dù giáo viên đã có ý thức ra bài tập rèn
luyện kĩ năng làm văn cho học sinh tuy nhiên hệ thống bài tập chưa nhiều,
đôi khi chưa cung cấp đầy đủ, đa dạng các dạng văn nghị luận xã hội cả về
nội dung và phương pháp dẫn đến học sinh lúng túng khi xác định dạng bài,
phương pháp làm bài và hệ thống luận điểm, luận cứ...


Tơi đã tiến hành khảo sát để tìm hiểu thực trạng dạy kiểu bài nghị
luận xã hội trong chương trình Ngữ văn 6 ở một số trường THCS thông qua
phiếu khảo sát ý kiến của giáo viên, kết quả như sau:
Bảng 2: Ý kiến đánh giá của giáo viên về kiểu bài văn nghị luận xã hội và việc
cần thiết rèn kĩ năng làm kiểu bài này cho học sinh trong chương trình Ngữ văn lớp 6:
(mẫu số 2)

Nội dung khảo sát


Kết quả (tỉ lệ)

Vai trò của kiểu bài văn nghị

Rất quan trọng

60%

luận xã hội trong nhà trường,

Bình thường

30%

Khơng quan trọng

10%

đặc biệt với học sinh khối lớp
6.

Chỉ trong các tiết học về

40%

kiểu bài
Rèn kĩ năng làm kiểu bài văn
nghị luận xã hội cho học sinh


Thường xuyên
Đan xen trong các tiết

30%
30%

học văn bản có nội dung
tích hợp phần văn nghị
luận xã hội

Phương pháp dạy học thường
sử dụng

Đọc - chép

10%

Phát vấn

40%

Tổ chức hoạt động nhóm

20%

Đa dạng nhiều hình thức

30%

Khuyến khích học sinh tự tìm


Thường xun

30%

hiểu, tra cứu thêm thơng tin

Thỉnh thoảng

60%

Khơng u cầu

10%

Thường xuyên

20%

để làm bài
Rèn kĩ năng làm việc theo


Thỉnh thoảng

50%

Không hướng dẫn

30%


Giao các bài tập thực hành về

Thường xun

20%

kiểu bài cho học sinh làm trên

Thỉnh thoảng

50%

Khơng u cầu

30%

nhóm (hoặc dự án học tập)

lớp và ở nhà, kết hợp chấm,
chữa bài, rút kinh nghiệm cho
các em
Bảng thống kê trên cho thấy:

- Cịn tình trạng giáo viên chưa có quan niệm đúng về tầm quan trọng
của kiểu bài văn nghị luận xã hội cho học sinh, nhất là với học sinh khối 6.
- Phương pháp và kĩ thuật dạy học nhằm hình thành và phát triển kĩ
năng làm kiểu bài văn nghị luận xã hội còn chưa phong phú, linh hoạt.
- Giáo viên chưa hướng dẫn đại bộ phận học sinh phát huy tinh thần
tự học, sáng tạo, tự tìm hiểu, thực hành. Thời lượng tiết học ít, thực hành

trên lớp khơng nhiều nhưng cịn tình trạng giáo viên ngại giao nhiệm vụ học
tập về nhà cho các em có thể xuất phát từ tâm lý không muốn gây áp lực học
tập hoặc ngại chấm, chữa bài vì mất nhiều thời gian.
4. Các giải pháp thực hiện:
Xuất phát từ thực trạng trên, để nâng cao hiệu quả giảng dạy kiểu bài
văn nghị luận xã hội trong chương trình Ngữ văn 6 SGK mới thì giáo viên
cần phải đổi mới phương pháp một cách triệt để và sử dụng linh hoạt các
phương pháp dạy học tích cực, mục tiêu là rèn được kĩ năng nhận diện đề,
tạo lập văn bản cho học sinh và nâng cao năng lực nhận thức, giải quyết và
xử lý vấn đề thực tiễn từ những kiến thức, kĩ năng được hình thành từ kiểu
bài văn nghị luận xã hội đã học. Sau đây, tôi mạnh dạn đề xuất các phương
pháp mà tôi đã tiến hành thử nghiệm để anh chị em đồng nghiệp tham khảo.
4.1. Hướng dẫn học sinh thực hiện tốt khâu tìm hiểu đề và tìm ý
Nhiều học sinh thường có một nhược điểm: chủ quan, hấp tấp, cầm đề
là viết ngay – đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến kết quả bài làm


khơng được như ý. Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn, yêu cầu học sinh đọc
kĩ đề bài, chú ý những từ khóa của đề sau đó phân tích đề, hạn chế tối đa các
lỗi như xa đề, lạc đề, thiếu ý, bỏ sót yêu cầu…
4.1.1. Đọc kĩ đề để nhận diện đúng kiểu bài
Việc đọc là cơ sở để hiểu yêu cầu của đề bài. Giáo viên cần phải nhắc
nhở, hình thành kĩ năng cho học sinh đó là ngay khi cầm đề trên tay, các em
cần tạo được thói quen đọc kĩ, chú ý gạch chân vào những từ ngữ quan
trọng, những cách diễn đạt nhằm nhấn mạnh ý, những cách nói bóng bẩy,
nhiều nghĩa... Với một đề bài có nhiều thơng tin được diễn đạt bằng nhiều
câu, nhiều vế, học sinh cần biết chia tách đối tượng để tìm hiểu từng nội
dung cụ thể, thấy được yêu cầu chung của đề. Từ việc nắm được nội dung
của đề, học sinh cần xác định và phân biệt rõ đó là kiểu bài nào, tránh nhầm
lẫn giữa tự sự/miêu tả/biểu cảm với nghị luận:

Nếu là kiểu bài nghị luận xã hội, nội dung của đề thường xoay quanh
một sự việc hiện tượng, đời sống xã hội có ý nghĩa, đáng khen, đáng chê hay
đáng suy nghĩ (ví dụ: các cuộc vận động giúp đỡ đồng bào trong đại dịch
Covid-19, vấn đề ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội…) hoặc bàn về lĩnh vực
tư tưởng, đạo đức, phẩm chất, lối sống…của con người (ví dụ: lịng u
nước, tính trung thực, khiêm tốn, dũng cảm.../ tình mẫu tử, tình phụ tử, tình
anh em, tình bạn, tình thầy trị...)…
Khác với kiểu bài tự sự (đề bài thường yêu cầu “kể lại…”, “kể về…”),
kiểu bài biểu cảm (đề bài thường yêu cầu “nêu cảm nhận của em…”), kiểu
bài miêu tả (đề yêu cầu “tả lại…”) thì kiểu bài nghị luận xã hội, đề thường
yêu cầu “em hãy trình bày ý kiến của mình về vấn đề….”, “…ý kiến của em
như thế nào?”.
Hướng dẫn học sinh thực hiện tốt khâu tìm hiểu đề, tạo thành thói
quen, thành kĩ năng trước khi bắt tay vào lập ý và làm bài, giáo viên đã giúp
học sinh đi đúng hướng, hạn chế được tình trạng lạc đề, sai kiểu bài, sai
phương pháp làm bài…


Ví dụ: Đề văn: Em có ý kiến gì về nhận xét “Đi tham quan, du lịch,
chúng ta sẽ được mở rộng tầm mắt, học hỏi được nhiều điều”?
(SGK Ngữ văn 6 tập I, trang 85 – Bộ Cánh diều)
Với đề văn này, chỉ khi học sinh xác định đúng vấn đề (lợi ích của
tham quan, du lịch) và xác định đúng kiểu bài nghị luận xã hội (trình bày ý
kiến), các em mới đi đúng hướng, tránh lạc sang kiểu bài tự sự, miêu tả, biểu
cảm (kể/ tả/ bộc lộ cảm xúc về một chuyến tham quan, du lịch đáng nhớ).
4.1.2. Đặt câu hỏi để tìm ý
Bất kì bài văn/ đoạn văn nào cũng cần tìm ra các ý chính - tìm ra hệ
thống luận điểm chính, khung sườn cho bài văn. Vậy làm thế nào để tìm
được ý? Sau khi học sinh xác định được kiểu bài nghị luận thì cần bám vào
nội dung của đề để lập ý.

Để thực hiện bước tìm ý, học sinh bắt buộc phải đặt câu hỏi hình thành
ý cho bài văn.
Ví dụ:
Đề văn: “Sách mở ra trước mắt ta những chân trời mới” (M. Gorki)
Học sinh có thể đặt các câu hỏi để tìm ý:
- Sách là gì?
- Sách đem đến những lợi ích như thế nào?
- Cần có thái độ ra sao đối với sách?
Tìm hiểu đề và tìm ý là những thao tác, kĩ năng quan trọng để tạo lập
văn bản. Việc tìm hiểu đề, tìm ý khơng phải là việc mới mẻ song việc luyện
tập cho học sinh có thói quen tìm hiểu đề và tìm ý như thế nào có hiệu quả
thì khơng phải thầy cơ nào cũng chú ý hướng dẫn các em. Trong thực tế vẫn
cịn tình trạng học sinh tìm hiểu đề, tìm ý theo hình thức chiếu lệ, qua loa,
chưa khai thác hết vai trò của thao tác này. Muốn hình thành kĩ năng cho các
em, phụ thuộc rất nhiều vào tâm huyết của người giáo viên đứng lớp và ý
thức của mỗi học sinh.


4.2. Rèn cho học sinh thói quen lập dàn ý trước khi viết
Tạo lập một văn bản giống như dựng một ngôi nhà trước hết phải đủ vật
liệu cần thiết, vật liệu ở đây chính là các luận điểm, luận cứ, các ý lớn, ý
nhỏ, các dẫn chứng. Trước khi viết bài, người viết tiến hành dựng khung cho
ngôi nhà hay còn gọi làm đề cương, lập dàn ý cho bài viết. Đây là bước quan
trọng vì khơng thể viết bài mà không lập dàn ý.
Lập dàn ý là lựa chọn và sắp xếp những nội dung cơ bản dự định triển
khai vào bố cục của văn bản. Hai thao tác chính là: lựa chọn và sắp xếp. Lập
dàn ý giúp người viết xác định được trọng tâm của đề bài, bao quát được
những nội dung chủ yếu của bài văn, tránh được tình trạng xa đề, thiếu ý, lặp
ý, triển khai ý không cân xứng…, phân bố được thời gian hợp lý khi làm bài.
Ở lớp 6, học sinh mới làm quen với kiểu bài nghị luận xã hội. Căn cứ

vào mục đích, u cầu của chương trình GDPT 2018, học sinh chỉ dừng lại
bàn luận một khía cạnh của vấn đề xã hội dưới hình thức đoạn văn ngắn,
mức độ đơn giản (một vài câu đến tối đa khoảng ½ trang giấy thi). Tuy là
đoạn văn ngắn nhưng các em vẫn phải xây dựng bố cục một đoạn văn gồm
đủ ba phần: Mở đoạn, thân đoạn và kết đoạn. Trong đó:
* Bước 1: Xây dựng câu mở đoạn
- Câu mở đoạn: Thường dùng một câu (Câu tổng – chứa đựng thông tin
của đề bài yêu cầu. Câu này mang tính khái quát cao).
* Bước 2: Xây dựng thân đoạn
- Các câu tiếp theo: Giải thích các cụm từ khóa, giải thích các thuật ngữ
(giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng) - cần ngắn gọn, đơn giản.
- Phân tích, chứng minh vấn đề:
+ Đặt ra các câu hỏi và trả lời: Tại sao? Biểu hiện như thế nào? Ý nghĩa
của vấn đề đó đối với cuộc sống của con người? Tác động hoặc tác hại của
vấn đề nghị luận đối với cuộc sống và con người? Sau đó bình luận, chứng
minh từng ý lớn (có thể chọn theo các mơ típ viết từ: Gia đình, nhà trường,
xã hội; hoặc: trong học tập, lao động, sinh hoạt hằng ngày…).



×