Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Bình luận bản án KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.24 KB, 24 trang )

TIỂU LUẬN
BÌNH LUẬN BẢN ÁN 02/2020/HC-ST NGÀY 04/06/2020 TẠI TAND TỈNH SÓC
TRĂNG VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH

Học phần: Luật Tố tụng Hành chính


BÌNH LUẬN BẢN ÁN 02/2020/HC-ST NGÀY 04/06/2020 TẠI TAND TỈNH SÓC
TRĂNG VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Tên viết tắt

Cụm viết tắt đầy đủ

Luật TTHC

Luật Tố tụng hành chính

TAND

Tịa án Nhân dân


MỞ ĐẦU.........................................................................................................................2
1. Tính cấp thiết đề tài.....................................................................................................2
2. Nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu...................................................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................3


Mục 1. Tóm tắt nội dung bản án...................................................................................4
Mục 2. Bình luận bản án...............................................................................................8
2.1. Căn cứ pháp lý áp dụng.............................................................................................8
2.2. Nhận xét việc áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc...............................................15
Mục 3. kiến nghị hoàn thiện pháp luật.......................................................................16
KẾT LUẬN...................................................................................................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................18
PHỤ LỤC......................................................................................................................19

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài.
Trong những năm qua, con người ln tìm tịi những thứ phát triển đổi mới mọi
thứ kể cả con người, con người là nhân tố thúc đẩy phát triển mạnh mẽ của toàn nhân
loại. Nhưng bên cạnh đó thực trạng báo động bởi vì ham vật chất khơng từ thủ đoạn,
mục đích mà có thể làm các việc như mua bán lậu. Hiện nay, trong hồn cảnh có rất
nhiều thay đổi nhiều mặt thì theo như xu hướng chung đó trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng
nói riêng đã xuất hiện thực trạng đáng lo ngại của rất nhiều vụ vận chuyển thuốc lá lậu
bất hợp pháp từ nhiều nơi. Hậu quả tiêu cực ảnh hưởng khơng tốt tới kinh tế mà cịn
ảnh hướng tới các nhãn hiệu đã mua bản quyền. Vì những lẽ đó “Bình luận Bản án
02/2020/HC-ST ngày 04/06/2020 tại TAND tỉnh Sóc Trăng về khiếu kiện quyết định
xử phạt vi phạm hành chính” là đề tài mà tác giả chọn để nghiên cứu nhằm mục đích,
ngun nhân của tình hình các vi phạm và hạn chế của thực trạng vận chuyển thuốc lá
lậu ở tỉnh Sóc Trăng. Đồng thời có những ý kiến đóng góp hồn thiện pháp luật nhằm
hướng tới sự phát triển rõ ràng, minh bạch.
Thực tế cho thấy những năm gần đây trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng tình hình vận
chuyển thuốc lá lậu bằng nhiều con đường ngày càng tăng cao. Với mong muốn góp
phần hồn thiện các quy định pháp luật, nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xuất phát từ

thực trạng hiện nay thông qua “Bản án 02/2020/HC-ST ngày 04/06/2020 tại TAND
tỉnh Sóc Trăng về khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính.” Từ đó nhìn
nhận vấn đề một cách rõ ràng, hiệu quả.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu vấn đề pháp luật về xử phạt hành chính thơng qua Bản án
02/2020/HC-ST ngày 04/06/2020 tại TAND tỉnh Sóc Trăng về khiếu kiện quyết định
xử phạt vi phạm hành chính. Để từ đó giúp chúng ta có những phương hướng, giải
pháp phịng ngừa, giảm thiểu số lượng hành vi vẫn chuyển thuốc lá lậu.

2


3. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu những pháp lý xung quanh xét xử trong Bản án 02/2020/HCST ngày 04/06/2020 tại TAND tỉnh Sóc Trăng về khiếu kiện quyết định xử phạt vi
phạm hành chính. Trên cơ sở đó phân tích được ưu điểm và nhược điểm của pháp luật
và thực trạng cách xử lí của Tịa án tỉnh Sóc Trăng. Cuối cùng tác giả đưa ra những
kiến nghị nhằm giảm thiểu số lượng hành vi vận chuyển thuốc lá lậu ở tỉnh Sóc Trăng.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm như:
Phương pháp nghiên cứu và tổng hợp bản án của bài nghiên cứu, ý kiến của Tòa
án, quy định pháp luật Việt Nam,… kết hợp phương pháp phân tích, bình luận, đối
chiếu những quy định pháp luật để tìm ra điểm hạn chế và thực trạng xét xử hiện nay
nhằm đưa ra những kiến nghị, giải pháp cần thiết, từ đó có một bài nghiên cứu Bản án
hoàn chỉnh

3


Mục 1: Tóm tắt nội dung bản án
Đây là bản án số: 02/2020/HC-ST Ngày: 04 - 6 - 2020 về khiếu kiện quyết định

xử phạt vi phạm hành chính.
Đây là vụ khiếu kiện quyết định hành chính giữa:
 Người khởi kiện: Bà Trịnh Thị Tuyết M, sinh năm 1971. Địa chỉ: Tổ M, khóm
C, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang. Địa chỉ liên hệ: Tổ T, khóm V, phường N,
thành phố C, tỉnh An Giang. (Có mặt)
 Người bị kiện: Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng. Địa chỉ: đường C, Phường
H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
- Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Lâm Hồng N – Phó Chủ
tịch UBND tỉnh Sóc Trăng, theo Quyết định ủy quyền số 2730/UBND-NC ngày
20/12/2019 của Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng. Địa chỉ liên hệ: đường C, Phường
H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị V, sinh năm 1977. Địa
chỉ: Tổ T, khóm V, phường N, thành phố C, tỉnh An Giang. (Có mặt).
* Tại đơn khởi kiện ngày 19/11/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, cũng
như tại phiên tòa, người khởi kiện bà Trịnh Thị Tuyết M trình bày như sau:
Ngày 08/9/2019, bà M có quá giang xe của bà Phạm Thị V để đi thăm con đang
học tại Cần Thơ. Khi tới Cần Thơ, bà V rủ bà M đi Sóc Trăng chơi ln rồi khi nào về
hãy ghé thăm con, thấy bà V nói mấy lần nên bà M cũng đồng ý. Khi xe tới địa phận
Sóc Trăng thì bị lực lượng Cảnh sát kinh tế Cơng an tỉnh Sóc Trăng chặn xe lại kiểm
tra, lúc này bà M mới biết trên xe bà V có chở thuốc lá, Cảnh sát kinh tế mời bà M và
bà V đến trụ sở làm việc. Bà M khơng liên quan gì đến đồ đạc trên xe của bà V nhưng
Công an lập biên bản kêu bà M ký tên và cho rằng bà M có liên quan đến vấn đề chở
thuốc lá của bà V. Bà M không đồng ý ký biên bản nhưng do bà không biết, cán bộ lập
biên bản không đọc lại biên bản cho bà nghe và yêu cầu bà ký tên vào rồi cho bà về. Bà
là người đi nhờ trên chiếc xe bà V, hơn nữa bà V đã nhận là người vi phạm, bà không
4


liên quan gì đến việc chở thuốc lá trên. Nhưng sau đó, bà M nhận được Quyết định số
58/QĐ-XPVPHC ngày 04/11/2019 của Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng, xử phạt bà với

mức phạt là 85.000.000đồng. Bà M không đồng ý với quyết định này, nay bà khởi kiện
yêu cầu Tòa án giải quyết hủy bỏ Quyết định số 58/QĐ-XPVPHC ngày 04/11/2019 của
Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với bà Trịnh
Thị Tuyết M.
* Người bị kiện Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng có người đại diện hợp pháp có
văn bản số 37/UBND-NC ngày 08/01/2020 trình bày ý kiến như sau:
Vào lúc 00 giờ 30 phút, ngày 08/9/2019, Phòng Cảnh sát kinh tế Cơng an tỉnh
Sóc Trăng phối hợp cùng Tổ cơng tác Công an thị xã N tiến hành dừng phương tiện
mang biển kiểm sốt 83C-040.XX đang lưu thơng trên tuyến Quốc lộ 61B thuộc Khóm
S, Phường M, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng để kiểm tra. Kết quả kiểm tra phát hiện trên
phương tiện có vận chuyển 1.490 bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại được cất giấu
trong hầm xe, có các vách ngăn được thiết kế chuyên dụng do bà Phạm Thị V, sinh
năm 1977, nơi đăng ký HKTT: Tổ T, khóm V, phường N, thành phố C, tỉnh An Giang
và bà Trịnh Thị Tuyết M, sinh năm 1971, nơi đăng ký HKTT: Tổ M, khóm C, phường
C, thành phố C, tỉnh An Giang trực tiếp thực hiện. Tang vật, phương tiện bị tạm giữ
bao gồm:
1/ 01 chiếc ô tơ tải mang biển kiểm sốt 83C-040.XX (ngun chiếc đã
qua sử dụng).
2/ 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 003855 cấp ngày 25/3/2016;
3/ 01 Giấy chứng nhận kiểm định số KC-8410793, cấp ngày 02/5/2019;
4/ Thuốc lá điếu nhập lậu: 1.490 bao, trong đó 990 bao nhãn hiệu Hero,
500 bao nhãn hiệu Jet.
Qua làm việc, xác minh hành vi vi phạm của bà Trịnh Thị Tuyết M và bà Phạm
Thị V, thì lời khai của bà M thừa nhận là người trực tiếp điều khiển phương tiện 83C040.XX khi bị lực lượng Công an tiến hành kiểm tra phát hiện thuốc lá điếu nhập lậu
5


nhưng không thừa nhận hành vi vi phạm. Bà M chỉ thừa nhận phương tiện 83C040.XX có cất giấu dưới hầm 1.490 bao thuốc lá điếu nhập lậu, bà chỉ là người quá
giang xe của bà V từ thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang đến thành phố Cần Thơ để
thăm con, nhưng khi đến Cần Thơ thì bà V không được khỏe nên đề nghị bà M làm tài

xế chở bà V xuống Sóc Trăng. Cịn bà Phạm Thị V khai số thuốc lá điếu nhập lậu
1.490 bao trên được bà V cùng bà Trịnh Thị Tuyết M mua lại của một người không
quen biết (không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể) tại khu vực Tịnh Biên, An Giang giáp với
biên giới Campuchia vận chuyển về thị xã N, tỉnh Sóc Trăng để bán kiếm lời chia nhau
tiêu xài. Khi bà V đi cùng bà M vận chuyển số thuốc lá điếu nhập lậu trên từ An Giang
về đến tuyến Quốc lộ 61B thuộc Khóm S, Phường M, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng thì
bị kiểm tra phát hiện quả tang. Bà V là người trực tiếp rủ rê bà M và bà M biết rõ đồng
ý cùng thực hiện việc mua bán, vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu nhưng mọi giao dịch
đều do bà V trực tiếp thực hiện. Phương tiện mang biển kiểm soát 83C-040.XX là do
bà V thuê lại với giá 300.000 đồng/ngày của một người tên Đào ở khu vực thị trấn Tịnh
Biên, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể). Khi th
khơng có làm hợp đồng và trước khi thuê phương tiện đã được thiết kế hầm, dạng hai
đáy chuyên dụng để vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu.
Qua xác minh phương tiện xe ô tơ biển kiểm sốt 83C-040.XX, Phịng cảnh sát
kinh tế Cơng an tỉnh Sóc Trăng đã thực hiện thơng báo tìm chủ sở hữu, người quản lý
hoặc sử dụng hợp pháp phương tiện vi phạm hành chính và tiến hành niêm yết, thông
báo trên phương tiện thông tin đại chúng, đã q thời hạn 30 ngày kể từ ngày thơng
báo tìm chủ sở hữu, người quản lý hoặc chủ sử dụng hợp pháp phương tiện vi phạm
hành chính nhưng khơng có ai đến liên hệ làm việc.
Đối với bà Trịnh Thị Tuyết M, mặc dù không thừa nhận hành vi vi phạm nhưng
bản thân bà M nhận thức được hành vi vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu là vi phạm
pháp luật và bị lực lượng kiểm tra phát hiện trong trường hợp quả tang. Kết quả đối
chất giữa bà M và bà V thì bà V tiếp tục khẳng định tồn bộ q trình thực hiện hành vi
6


vi phạm cả 02 người có sự bàn bạc, thống nhất vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu để
đem về Sóc Trăng tìm người bán kiếm lời chia nhau tiêu xài cá nhân. Quá trình làm
việc bà M trình bày chỉ đi chung với bà V 01 lần nhưng qua xác minh tại trạm thu phí
BOT Ơ Mơn đã thể hiện 02 người thường xuyên đi cùng nhau trên phương tiện 83C040.XX chứ không phải ngẫu nhiên quá giang xe như bà M trình bày. Ngồi ra, vào

ngày 6/9/2019 (trước ngày vi phạm 02 ngày) bà M là người trực tiếp điều khiển
phương tiện 83C-040.XX chạy quá tốc độ quy định bị Cảnh sát giao thông Công an
thành phố Cần Thơ lập biên bản vi phạm hành chính. Qua việc này cho thấy sự gian
dối nhằm trốn tránh hành vi vi phạm, gây khó khăn, cản trở cơ quan chức năng trong
q trình xử lý. Bà M có đủ nhận thức khi ký tên vào biên bản vi phạm hành chính số
18 ngày 8/9/2019 và tự viết trình bày ý kiến của người vi phạm là thống nhất nội dung
biên bản, khơng có ý kiến gì khác. Vì vậy việc xem xét, xử phạt vi phạm hành chính
đối với bà M về hành vi vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu là có cơ sở, áp
dụng hình thức phạt tiền trung bình khung là phù hợp quy định pháp luật.
Đối với bà Phạm Thị V bản thân đã nhận thức được hành vi vận chuyển hàng
cấm là thuốc lá điếu nhập lậu là vi phạm pháp luật, bà thừa nhận và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về hành vi trên, bà cam kết sẽ chấp hành theo quy định pháp luật. Nên
việc xử phạt vi phạm hành chính đối với bà V là có cơ sở. Từ những chứng cứ, tài liệu
trên, xét thấy việc người được Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng giao quyền đã ký Quyết
định xử phạt vi phạm hành chính số 58/QĐ-XPVPHC ngày 4/11/2019 đối với bà Trịnh
Thị Tuyết M và bà Phạm Thị V, trong đó áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu
toàn bộ tang vật gồm số thuốc lá điếu nhập lậu và phương tiện xe ô tơ mang biển kiểm
sốt 83C- 040.XX dừng để vận chuyển 1.490 bao thuốc lá điếu nhập lậu là đảm bảo
tính khách quan, đúng người, đúng hành vi vi phạm và đúng pháp luật. Vì vậy những
nội dung bà M khởi kiện là không đúng sự thật, không đúng với nội dung, bản chất,
diễn biến của vụ việc và hoàn toàn khơng có cơ sở, đề nghị Tịa án khơng chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của bà M.
7


* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị V trình bày:
Ngày 08/9/2019, bà có chạy chiếc xe ơ tơ từ Châu Đốc đến Sóc Trăng, xe biển kiểm
soát 83C-040XX, Giấy chứng nhận đăng ký xe số 003855 cấp ngày 25/3/2016, Giấy
chứng nhận kiểm định số KC-8410793 cấp ngày 02/5/2019. Khi xe bà đi được một
đoạn thì có người bạn tên Trịnh Thị Tuyết M xin quá giang đi nhờ tới Cần Thơ thăm

con học đại học. Khi tới Cần Thơ bà rủ đi Sóc Trăng chơi rồi mới về thăm con thì bà M
cũng đồng ý. Đi đến địa phận Sóc Trăng thì Cảnh sát kinh tế Cơng an tỉnh Sóc Trăng
kiểm tra giấy tờ và xe thì phát hiện thuốc lá trong hộc xe nên lập biên bản, bà đã thừa
nhận thuốc lá của bà. Phịng Cảnh sát kinh tế Cơng an tỉnh Sóc Trăng đã tạm giữ tang
vật thuốc lá và xe, giấy tờ xe của bà. Nay bà trình bày mong Tịa án xem xét là bà vi
phạm chứ không phải bà M.
Mục 2. Bình luận bản án.
2.1. Căn cứ pháp lý áp dụng.
Để giải quyết vụ khếu kiện này Tòa án đã áp dụng căn cứ Căn cứ vào khoản 1

Điều 30, khoản 3 Điều 32, Điều 115, Điều 116, Điều 193, Điều 204, Điều 206,
Điều 211, Điều 213 và Điều 348 Luật Tố tụng hành chính; Khoản 1, 2 Điều 2;
điểm d khoản 1 điều 3; Điều 4; Điều 5; Điều 6; Điều 21; Điều 23; điểm đ khoản
1 Điều 24; khoản 3 Điều 38; Điều 58; khoản 1 Điều 66; khoản 2 Điều 67; Điều
81 Luật Xử lý vi phạm hành chính; Khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tịa
án. Cụ thể:
Thứ nhất, về sự vắng mặt: Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp theo ủy quyền
của người bị kiện Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng vắng mặt có văn bản đề nghị xét xử
vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 157, Điều 158 Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét
xử quyết định tiến hành xét xử vụ án vắng mặt người bị kiện.
8


Như vậy, về vấn đề bị đơn vắng mặt có đơn xin thì Tịa án đưa ra căn cứ khơng
phù hợp chưa thể hiện rõ ý chí của Điều luật. Trong mỗi Điều luật có rất nhiều ý khác
nhau, có thể phát sinh mâu thuẫn. Theo tác giả thì về sự vắng mặt của người bị kiện
vắng mặt có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt thì căn cứ khoản 1 Điều 157, khoản 1
Điều 158 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

Và bên cạnh đó Tịa án phải ghi rõ là Luật Tố tụng hành chính năm
bao nhiêu để khỏi nhầm lẫn, dễ làm mất đi quyền và lợi ích của cá
nhân khi họ khơng am hiểu về luật.
Thứ hai, về thẩm quyền giải quyết: Người khởi kiện bà Trịnh Thị Tuyết M yêu
cầu Tòa án giải quyết hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 58/QĐXPVPHC ngày 04/11/2019 của Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng (sau đây gọi tắt là
Quyết định số 58/QĐ-XPVPHC). Xét thấy, đây là vụ án khiếu kiện quyết định hành
chính về xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thuộc
thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng theo quy định tại khoản 1 Điều 30,
khoản 3 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính và khoản 3 Điều 38 Luật Xử lý vi phạm
hành chính và bà M có quyền khởi kiện theo quy định Điều 115 Luật Tố tụng hành
chính.
Như vậy, về vấn đề thẩm quyền giải quyết thì thẩm quyền giải quyết của Tòa án
cấp tỉnh là phù hợp với pháp luật. Tuy nhiên bên cạnh đó Tịa án cần nêu là văn bản
pháp luật năm bao nhiêu để tránh có nhầm lẫn ở các bản luật cũ và luật mới.
Thứ ba, Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 05/11/2019, cán bộ Phịng Cảnh sát

kinh tế Cơng an tỉnh Sóc Trăng đến địa phương nơi đăng ký thường trú của bà M
là Phường C, thành phố C, tỉnh An Giang để giao Quyết định số 58/QĐ-XPVPHC
cho bà M nhưng bà khơng có mặt ở địa phương, nên cùng ngày cán bộ Phòng
cảnh sát kinh tế Cơng an tỉnh Sóc Trăng đã tiến hành niêm yết Quyết định số

9


58/QĐ-XPVPHC đối với bà M. Đến ngày 10/11/2019, bà M nộp đơn khởi kiện
đến Tịa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng qua đường bưu chính. Đến ngày 20/11/2019
bà M trực tiếp nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng (thực hiện
sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện) yêu cầu hủy quyết định trên là còn thời hiệu
khởi kiện theo quy định tại Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.
Như vậy, về vấn đề thời hiệu Tịa án đưa ra căn cứ chưa thể hiện rõ ý chí của

Điều luật. Trong mỗi Điều luật có rất nhiều ý khác nhau, có thể phát sinh mâu thuẫn.
Do đó theo tác giả về thời hiệu khởi kiện trong trường hợp này căn cứ điểm a khoản 2
Điều 116 Luật Tố tụng hành chính 2015 là “01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết
được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thơi việc” từ
ngày 05/11/2019 đến 04/11/2020 thì trong trường hợp trên ngày 20/11/2019 bà M

trực tiếp nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng (thực hiện sửa
đổi, bổ sung đơn khởi kiện) yêu cầu hủy quyết định trên là còn thời hiệu khởi
kiện.
Thứ tư, đối với yêu cầu khởi kiện của bà M về việc hủy Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính số 58/QĐ-XPVPHC ngày 04/11/2019 của Chủ tịch UBND tỉnh Sóc
Trăng về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với bà. Nhận thấy: Lúc 00 giờ 30 phút,
ngày 08/9/2019 trên tuyến Quốc lộ 61B thuộc Khóm S, Phường M, thị xã N, tỉnh Sóc
Trăng, Phịng Cảnh sát kinh tế Cơng an tỉnh Sóc Trăng kiểm tra phương tiện xe ơ tơ
biển kiểm sốt 83C-040.XX do bà Trịnh Thị Tuyết M điều khiển, cùng đi trên xe có bà
Phạm Thị V phát hiện vận chuyển 1.490 bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại (gồm 990
bao nhãn hiệu Hero, 500 bao nhãn hiệu Jet). Sau đó lực lượng chức năng đã tiến hành
lập biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm. Qua kết quả xác minh, đến ngày
04/11/2019, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng ban hành Quyết định xử phạt vi phạm
hành chính số 58/QĐ-XPVPHC nội dung: Xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân
bà Trịnh Thị Tuyết M và bà Phạm Thị V, đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính:

10


Vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu có số lượng là 1.490 bao, gồm: 990
bao, nhãn hiệu Hero và 500 bao, nhãn hiệu Jet, quy định tại điểm a khoản 3 Điều 25
của khoản 22 Điều 1 Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 của Chính phủ
(sau đây gọi tắt là Nghị định số 124/2015/NĐ-CP); Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền,
cụ thể mức phạt tiền là 85.000.000 đồng đối với mỗi cá nhân (bà M, bà V).

Hình thức xử phạt bổ sung: Tịch thu tang vật vi phạm hành chính là 1.490 (Một
nghìn bốn trăm chín mươi) bao thuốc lá điếu nhập lậu nêu trên, quy định tại điểm a
khoản 4 điều 25 của khoản 22 Điều 1 Nghị định số 124/2015/NĐ-CP; Tịch thu phương
tiện vận tải được sử dụng để vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu là 01 xe ơ tơ, biển kiểm
sốt số 83C-040.XX quy định tại điểm b khoản 4 Điều 25 của khoản 22 Điều 1 Nghị
định số 124/2015/NĐ-CP. Sau khi tiến hành niêm yết Quyết định số 58/QĐ-XPVPHC
trên đối với bà M và bà V thì bà M khơng đồng ý việc xử phạt vi phạm hành chính đối
với bà nên khởi kiện, còn bà V thừa nhận hành vi vi phạm và khơng khởi kiện, khơng
có u cầu đối với Quyết định số 58/QĐ-XPVPHC nên Hội đồng xét xử không đặt ra
xem xét đối với bà V.
Như vậy, về đối tượng xử phạt, mức phạt, hình thức xử phạt nội dung Tòa án đã
nêu căn cứ phù hợp. Tuy nghiên về mức xử phạt Tịa khơng nêu căn cứ bao nhiêu, dễ
nảy sinh sự nhầm lẫn không rõ ràng. Theo tác giả về mức xử phạt căn cứ tại khoản 2
Điều 25 Nghị định 124/2015 NĐ-CP ngày 19 tháng 11 năm 2015 thì “Đối với hành vi
bn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu có số lượng từ 500 bao trở lên thì người
có thẩm quyền đang thụ lý vụ việc phải chuyển ngay hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Điều 62 Luật
Xử lý vi phạm hành chính; trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng có quyết định khơng
khởi tố vụ án hình sự thì phạt tiền từ 70.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.”
Căn cứ khoản 4 Điều 23 Luật xử lí vi phạm hành chính 2012 thì “Mức tiền phạt
cụthể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt
được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể
11


giảm xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có
tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng khơng được vượt quá mức
tiền phạt tối đa của khung tiền phạt.” Theo đó mức xử phạt của bà M là 85.000.000đ
Thứ năm, về đổi tượng bị xử phạt Xét đối tượng bị xử phạt là bà Trịnh Thị


Tuyết M, thì thấy rằng bà M không thừa nhận hành vi vi phạm hành chính,
nhưng bà đã bị cơ quan chức năng phát hiện quả tang là người trực tiếp điều
khiển xe biển kiểm sốt số 83C- 040.XX có chứa hàng cấm là thuốc lá điếu nhập
lậu với số lượng 1.490 bao. Sau khi bị lập biên bản quả tang, bà M có đủ nhận
thức khi ký tên vào biên bản vi phạm hành chính số 18/BB-VPHC ngày 8/9/2019
và tự viết trình bày ý kiến của người vi phạm là thống nhất nội dung biên bản,
khơng có ý kiến gì khác. Bên cạnh đó, qua trích xuất camera BOT, Ơ Mơn, TP.
Cần Thơ thể hiện bà M, bà V thường xuyên đi cùng nhau trên phương tiện 83C040.XX chứ không phải ngẫu nhiên quá giang xe như bà M trình bày. Như vậy,
bà M là người trực tiếp điều khiển xe có hành vi vận chuyển hàng cấm là thuốc
lá điếu nhập lậu với số lượng 1.490 bao đã bị lập biên bản vi phạm hành chính số
18/BB-VPHC ngày 8/9/2019 đã đủ yếu tố cấu thành vi phạm hành chính, theo
quy định tại khoản 1, 2 Điều 2, Điều 4, Điều 5, Điều 58 Luật Xử lý vi phạm hành
chính và hướng dẫn tại khoản 22 Điều 1 Nghị định số 124.
Như vậy, về đổi tượng xử phạt Tòa án đã chỉ rõ đúng và phù hợp. Bên
cạnh đó Tịa án cần nêu Luật xử lí vi phạm năm bao nhiêu tránh trường hợp sử
dụng sai văn bản pháp luật. Tuy nhiên Tòa án cần chỉ rõ căn cứ vì Luật khơng
quy định cụ thể mà chỉ nằm mục riêng. Theo đó căn cứ khoản 22 Điều 1 Nghị
định 124/2015/NĐ-CP thì
“Mức phạt đối với hành vi này được quy định tại khoản 22 Điều 1, Nghị định 124 như
sau:
12


+ Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500 ngàn đến 1 triệu trong trường hợp hàng cấm là
thuốc lá điếu nhập lậu có số lượng dưới 10 bao;
+ Phạt tiền từ 1 triệu đến 2 triệu trong trường hợp hàng cấm là thuốc lá điếu nhập
lậu có số lượng từ 10 bao đến dưới 20 bao;
+ Đối với hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu có số lượng từ 500
bao trở lên thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu cơ quan tiến hành tố tụng có
quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự thì phạt tiền từ 70 triệu đến 100 triệu…”

Thứ sáu, về cơ sở biên bản vi phạm hành chính số 18/BB-VPHC ngày
08/9/2019, ngày 14/9/2019 Phịng Cảnh sát kinh tế Cơng an tỉnh Sóc Trăng ban hành
Quyết định số 10/QĐ-KDTHTGTVPTGPCC (bút lục 91), đến ngày 07/10/2019 tiếp
tục ban hành Quyết định số 07/QĐ-KDTHTGTVPTGPCC (bút lục 119) về việc gia
hạn. Ngày 04/11/2019, Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng ban hành Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính số 58/QĐ-XPVPHC ngày 04/11/2019 là trong thời hiệu, thời hạn xử
phạt theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 6, khoản 1 Điều 66 Luật Xử lý vi phạm
hành chính.
Như vậy, về việc gia hạn quyết định thì Tịa án đã nêu rõ đúng căn cứ phù hợp
nhưng bên cạnh đó Tịa án nên chỉ rõ Luật xử lí vi phạm hành chính năm bao nhiêu,
tránh trường hợp nhầm lẫn sử dụng văn bản pháp luật ko có hiệu lực.
Thứ bảy, về thẩm quyền xử phạt, Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng ủy quyền cho
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng xử phạt (theo Quyết định số 69/QĐ-GQXP ngày
31/12/2018 của Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng) là đúng thẩm quyền theo quy định
điểm đ khoản 1 Điều 24, khoản 3 Điều 38 Luật Xử lý vi phạm hành chính và hướng
dẫn tại khoản 22 Điều 1 Nghị định số 124.
Như vậy, về thẩm quyền của Chủ tich UBND tỉnh Sóc Trăng được Tòa án áp
dụng pháp luật là phù hợp.

13


Thứ tám, về hình thức xử phạt chính là phạt tiền với mức xử phạt tiền
85.000.000 đồng là đúng với quy định tại điểm a khoản 3 của khoản 22 Điều 1 Nghị
định 124/2015 ngày 19/11/205 của Chính phủ.
Như vậy, Tòa án đã nêu đúng mức xử phạt. Nhưng về căn cứ Tịa án nêu khơng
phù hợp, rõ ràng. Theo tác giả căn cứ đoạn 3 khoản 22 Điều 1 Nghị định 124/2015
ngày 19/11/205 của Chính phủ thì “Đối với hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá
điếu nhập lậu có số lượng từ 500 bao trở lên thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình
sự; nếu cơ quan tiến hành tố tụng có quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự thì phạt

tiền từ 70 triệu đến 100 triệu…”
Căn cứ khoản 4 Điều 23 Luật xử lí vi phạm hành chính 2012 thì “Mức tiền phạt
cụthể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt
được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể
giảm xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có
tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng khơng được vượt quá mức
tiền phạt tối đa của khung tiền phạt.” Theo đó mức xử phạt của bà M là 85.000.000đ
Thứ chín, Đối với việc tịch thu phương tiện vi phạm hành chính là 01 xe ơ tơ
biển kiểm sốt 83C- 040.XX là phương tiện dùng vào việc vận chuyển thuốc lá điếu
nhập lậu, tịch thu là đúng theo điểm b khoản 4 của khoản 22 điều 1 Nghị định
124/2015 ngày 19/11/2015 của Chính phủ.
Như vậy, việc tịch thu phương tiện Tịa án nêu căn cứ không rõ ràng trong các
Văn bản pháp luật. Theo tác giả căn cứ Điều 26 Luật xử lí vi phạm hành chính 2012 thì
“Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là việc sung vào ngân sách nhà
nước vật, tiền, hàng hoá, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi phạm hành chính,
được áp dụng đối với vi phạm hành chính nghiêm trọng do lỗi cố ý của cá nhân, tổ
chức.

14


Việc xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu được thực hiện theo
quy định tại Điều 82 của Luật này.”
Thứ mười, Về án phí hành chính sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện bị bác tồn bộ
nên người khởi kiện phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định tại khoản 1
Điều 348 Luật Tố tụng hành chính và hướng dẫn tại Điều 32 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tịa án.
Như vậy, về án phí hành chính Tịa án căn cứ phù hợp với pháp luật về án phí.
2.2. Nhận xét việc áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc.

- Áp dụng cơ sở pháp lý: nhìn chung việc áp dụng các cơ sở pháp lý của Tòa án
nhân dân tỉnh Sóc Trăng tại Bản án số: 02/2020/HC-ST Ngày 04/06/2020 mang tính cụ
thể đúng yêu cầu vấn đề cần giải quyết. Tuy nhiên, bên cạnh đó Tịa án vẫn chỉ nêu
chung chung các điều luật mà không nêu rõ ràng cụ thể là áp dụng tại điểm nào, khoản
nào trong Điều luật đó làm cho mâu thuẫn nếu trong trường hợp Điều luật đó có nhiều
điểm, nhiều khoản. Chính vì thế trong việc căn cứ pháp luật thì Tòa án phải áp dụng cụ
thể, rõ ràng điểm, khoản, Điều luật để bảo vệ quyền lợi đôi bên một cách phù hợp và
chính xác.
Cụ thể: về vấn đề thời hiệu Tịa án chỉ nói chung chung trong khi trong Điều 116
Lt Tố tụng hành chính có nhiều khoản và mỗi khoản lại biểu hện một ý chí khác
nhau. Do đó theo tác giả về thời hiệu khởi kiện trong trường hợp này căn cứ điểm a
khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính 2015 là “01 năm kể từ ngày nhận được
hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thơi
việc” từ ngày 08/09/2019 đến 07/09/2020 thì trong trường hợp trên ngày 20/11/2019

bà M trực tiếp nộp đơn khởi kiện tại Tịa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng (thực hiện
sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện) yêu cầu hủy quyết định trên là còn thời hiệu khởi kiện.

15


Áp dụng pháp luật nội dung: Trường hợp trên Tòa án áp dụng các văn bản luật
nội dung để giải quyết vụ việc trên là và Luật xử lí vi phạm hành chính 2012, bởi vì
vào thời điểm này các văn bản pháp luật này đang phát sinh hiệu lực pháp lý và đồng
thời đây là văn bản điều chỉnh các vấn đề về xử lí về vụ việc hành chính. Do đó, tịa án
áp dụng giải quyết là đúng pháp luật.
Bên canh đó Tịa án đã áp dụng các nghị định trong quan hệ hành chính này là:
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, Nghị định số 124/2015/NĐ-CP;
- Áp dụng pháp luật tố tụng: Trường hợp trên Tòa án áp dụng pháp luật tố tụng
để giải quyết vụ việc trên là Luật Tố tụng hành chính 2015 việc áp dụng các văn bản

pháp luật này để giải quyết một cách phù hợp vì vụ việc giải quyết trên được pháp luật
Hành chính bảo vệ. Mặt khác Tòa án chỉ nêu chung chung là Luật Tố tụng hành chính
mà khơng nêu rõ là Luật Tố tụng hành chính năm bao nhiêu khi áp dụng.
Mục 3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Thứ nhất, về văn bản pháp luật:
- Hiện tại đã có văn bản pháp luật thay thế cho Nghị định 124/2015/NĐ-CP là
Nghị định 98/2020/NĐ-CP có hiệu lực từ 15 tháng 10 năm 2020. Tuy nhiên mặc dù có
sửa đổi chỉ rõ hơn về vấn đề mua bán thuốc lá lậu từ 1500 bao trở xuống nhưng bên
cạnh đó cịn có bất cập là Tòa án mới chỉ dừng lại ở trường hợp 1500 bao trở xuống,
nhưng trong hiện tại có rất nhiều vụ án với mức độ nghiêm trọng lên đến 1500 bao trở
lên tương đối nhiều. Chính vì như vậy theo tác giả Tòa án cần ban hành cụ thể các
trường hợp 1500 bao trở lên.
- Về vấn đề quy định chủ thể đang khơng có sự thống nhất trong đối tượng bị xử
phạt trong vi phạm hành chính. Theo đó khoản 2 Điều 2 Luật xử lí vi phạm hành chính
2012 “Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình
thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành
vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạt hành chính”.
Tuy nhiên ở nghị định 98/2020 thì chủ thể ngồi cá nhân hoặc tổ chức thì cịn có cả các
16


chủ thể khác. Khoản 2 Điều 2 Nghị định 98/2020 thì “Hộ kinh doanh được thành lập
theo quy định của pháp luật; hộ gia đình sản xuất nơng, lâm, ngư nghiệp, làm muối và
những người bán hàng rong, quà vặt, bn chuyến, kinh doanh lưu động, làm dịch vụ
có thu nhập thấp không phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật vi phạm
các quy định tại Nghị định này bị xử phạt như đối với cá nhân vi phạm.”. Theo đó, các
văn bản pháp luật phải có sự thống nhất để q trình xử lí, áp dụng pháp luật diễn ra
phù hợp.
Thứ hai, kiến nghị với TAND tỉnh Sóc Trăng
- Tịa án khi xét xử cần nói rõ ràng những ý chí của từng Điều khoản của luật,

khơng lan man, chung chung gây khó hiểu cho người tham gia xét xử.
- Tòa án chỉ nêu chung chung là Luật Tố tụng hành chính, Luật xử lí vi phạm
hành chính mà khơng nêu rõ là văn bản pháp luật năm bao nhiêu khi áp dụng.
- Về thời hiệu Tịa án áp dụng ngày khởi kiện khơng rõ ràng là ngày, tháng, năm
nào thời gian quyết định hành chính, hành vi hành chính cịn có hiệu lực.

17



×