Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Định hướng và giải pháp cơ bản để phát triển Kinh tế tư nhân ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.65 KB, 77 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
LỜIMỞĐẦU
Trong điều kiện toàn cầu hoá diễn ra như hiện nay, kinh tế tư nhân (KTTN)
ngày càng thể hiện rõ vai trò tích cực của mình trong quá trình tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Đặc biệt, trong những năm thập niên cuối của thế kỷ XX vàđầu thế kỷ
XXI, khi Thuyết tự do hoáđược vận dụng rộng rãi ở nhiều nước và trào lưu cải
cách, mở cửa, thúc đẩy kinh tế thị trường trở thành phương thức chính thức thúc
đẩy tăng trưởng của nhiều nước đang phát triển vàđặc biệt là các nền kinh tế
chuyển đổi, KTTN một lần nữa khẳng định là một trong những cấu thành quan
trọng của mọi nền kinh tế quốc dân. Điều này cũng không ngoại lệ với Việt Nam.
Việt Nam chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, do vậy vai
trò của khu vực KTTN đang được chú trọng rất nghiêm túc vàđúng đắn.
Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX) đã chỉ rõ: “ Hơn 10 năm qua, thực hiện
đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, được sựđồng tình hưởng
ứng của nhân dân, KTTN gồm kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân,
hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư
nhân, đã phát triển rộng khắp trong cả nước đóng góp quan trọng vào phát triển
kinh tế, huy động các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải
thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định
chính trị- xã hội của đất nước”.
Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn gặp
nhiều vướng mắc, còn nhiều rào cản hạn chế sự phát triển và hoạt động kinh doanh
của khu vực kinh tế này.
Để tạo điều kiện cho KTTN phát triển đúng với tiềm năng của nó cần phải
có nhận thức đúng, cũng như cóđánh giáđúng về những đóng góp của khu vực
KTTN với sự phát triển kinh tếở Việt Nam. Chính vì vậy, em chọn đề tài “ Kinh tế
tư nhân Việt Nam - thực trạng và giải pháp” làm khoá luận tốt nghiệp.
Mục đích nghiên cứu đề tài là phân tích KTTN trên phương diện lý luận và
thực tiễn để tìm ra những nguyên nhân cụ thể và những rào cản cản trở sự phát
triển của khu vự kinh tế tư nhân, qua đó có thểđưa ra các giải pháp cũng như
phương hướng giúp thành phần kinh tế này có sự phát triển đúng hướng đạt hiệu


quả cao trong nền kinh tếđất nước.
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
Đề tài có kết cấu ba chương:
Chương1: Những vấn đề chung về KTTN
Chương2: Thực trạng phát triển KTTN ở Việt Nam.
Chương3: Định hướng và giải pháp cơ bản để phát triển KTTN ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1
NHỮNGVẤNĐỀCHUNGVỀKINHTẾTƯNHÂN
1. 1. KHÁINIỆMVÀĐẶCĐIỂM:
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
1.1.1 Khái niệm:
Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau và chưa thống nhất về
kinh tế tư nhân, điều này xuất phát từ quan điểm và cách nhìn nhận khác nhau về sở
hữu. Nếu chia sở hữu ra hai loại hình là sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân thì nền
kinh tế có hai bộ phận cấu thành là khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư
nhân.
Sở hữu Nhà nước được hiểu là hình thức sở hữu mà nhà nước là người đại
diện cho nhân dân nắm giữ các tư liệu sản xuất, còn sở hữu tư nhân là sở hữu cá
nhân của người sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước. Theo cách phân chia này
thì khu vực KTTN bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nếu ta chia kinh tế ra thành ba khu vực: khu vực quốc doanh, ngoài quốc
doanh và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy theo cách này, thì
KTTN, gồm loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 2000, các
hộ kinh doanh cá thể, người sản xuất nhỏ.
Tuy nhiên trong Đại hội Đảng toàn quốc lần IX của Đảng Cộng Sản, trong
sáu thành phần kinh tếđó có thể hiểu kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân là thuộc về KTTN.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất và kinh doanh dựa

trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và sử dụng lao
động làm thuê. Trong điều kiện quáđộ lên chủ nghĩa xã hội thành phần kinh tế này
đóng góp vai tròđáng kể. Xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, xã hội
hoá sản xuất, đặc điểm của thành phần kinh tế này do một nhà tư bản trong và ngoài
nước đầu tưđể sản xuất. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân bao gồm doanh nghiệp
tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp doanh.
Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế sở hữu mà thu nhập dựa hoàn toàn vào
lao động, vốn của bản thân và gia đình. Kinh tế cá thể tiểu chủ cũng là hình thức
kinh tế tư hữu nhưng có thuê lao động, tuy nhiên thu nhập chủ yếu dựa vào sức lao
động vốn có của bản thân và gia đình. Thành phần kinh tế này cũng giữ một vị trí
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
quan trọng trong nhiều ngành nghề. Cóđiều kiện phát huy nhanh và hiệu quả về
vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình.
Như vậy, khu vực kinh tế tư nhân theo quan điểm chính thức ở Việt Nam
bao gồm các hình thức kinh tế sau đây:
- Kinh tế cá thểđược hiểu là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay một
cá nhân hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động
của chính hộ hay cá nhân đó, không thuê mướn lao động làm thuê.
- Kinh tế tiểu chủ là hình thức kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý vàđiều
hành, hoạt động trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và có sử dụng lao
động thuê mướn ngoài lao động của chủ; quy mô vốn đầu tư và lao động nhỏ hơn
của các hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty
cổ phần.
- Kinh tế tư bản tư nhân bao gồm các doanh nghiệp đang hoạt động theo luật
doanh nghiệp của Việt Nam và chúng bao gồm các loại hình doanh nghiệp sau:
+Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
+Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp trong đó thành viên chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong

phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.
+Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệđược chia nhỏ thành
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổđông góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về nợ
và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào
doanh nghiệp.
+Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đóít nhất hai thành viên hợp danh.
Ngoài hai thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh
là cá nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của
công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
Trong phạm vi nghiên cứu của khoá luận về khu vực kinh tế tư nhân ở Việt
Nam, khu vực kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế bao gồm các đơn vị, cơ sở và cá
nhân sản xuất—kinh doanh dựa trên hình thức sở hữu tư nhân trong nước.
Các khái niệm về KTTN sẽ cho chúng ta một cái nhìn đúng đắn và có sự
phân tích chọn lọc về khu vực KTTN.
1.1.2 Đặc Điểm:
Thứ nhất: Kinh tế tư nhân là các đơn vị kinh doanh, hoạt động vì mục đích
hàng đầu là lợi nhuận.
Trong một số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước hay kinh tế tập
thể, mục tiêu lợi nhuận với họ không phải là hàng đầu và có một số doanh nghiệp
trong lĩnh vực công cộng hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận. Trong khi đó kinh tế
tư nhân luôn coi mục tiêu sinh lời đặt lên vi trí hàng đầu, nếu không sinh lời thìđồng
nghĩa với việc phá sản. Chính vì vậy, thước đo về mức độ sinh lời cũng phản ánh
được sự phát triển lớn mạnh của khu vực kinh tế này. Đương nhiên để sinh lời thì
kinh tế tư nhân phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, phải luôn đổi mới công
nghệ và quản lý…vàđây chính làđiều khiến cho kinh tế tư nhân luôn năng động,
linh hoạt và làđộng lực phát triển cho nền kinh tế.
Như vậy, khu vực kinh tế tư nhân hoạt động kinh doanh nhằm mục đích lợi

nhuận là hàng đầu, chính vì vậy đây làđặc điểm khác biệt so với một số doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước.
Thứ hai: Kinh tế tư nhân có quy môđa dạng và khả năng tối ưu hoá tổ chức
sản xuất.
Với đặc điểm hoạt động đa dạng trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh nên
kinh tế tư nhân luôn phải lựa chọn các quy mô phù hợp để tối ưu hoá tổ chức sản
xuất, cũng chính vì lẽđó mà kinh tế tư nhân tồn tại với quy mô rất đa dạng, từcác
công ty xuyên quốc gia khổng lồ cho tới doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây cũng
làđiểm khác biệt với các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Các doanh nghiệp
thuộc sở hữu Nhà nước thường có quy mô khá lớn, rất ít các doanh nghiệp quy mô
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
nhỏ. Lý do tồn tại các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn ở một số nước bởi lẽ,
một số doanh nghiệp cung cấp hàng hoá công cộng hoặc vì một lý do nào đó mà
doanh nghiệp đóđược tồn tại độc quyền nên quy mô lớn mới hiệu quả. Tuy nhiên
trên thực tế các doanh nghiệp quy mô lớn thuộc sở hữu nhà nước thường mở rộng
quy mô không vì sự tối ưu hoá sản xuất mà vìđộng cơ muốn mở rộng doanh nghiệp
để có thêm các đặc quyền và uy lực của người lãnh đạo. Điều này khác với kinh tế
tư nhân, quy mô sản xuất có thể mở rộng hoặc thu hẹp đểđạt mục tiêu tối ưu hoá
sản xuất. Cũng chính vì khả năng lựa chọn quy mô sản xuất hợp lý mà các doanh
nghiệp thuộc khu vực tư nhân sử dụng lao động một cách hiệu quả. Các chủ doanh
nghiệp tư nhân thường căn cứ vào yêu cầu thực sự của công việc để tuyển chọn
người và căn cứ vào năng lực đóng góp của người lao động để có cơ chế trả công
hợp lý, khuyến khích được người lao động vàđào tạo được một đội ngũ doanh nhân
và công nhân kỹ thuật lành nghề cho nền kinh tế. Đồng thời chủ doanh nghiệp cũng
có thể sa thải ngay tức thì những lao động yếu kém, không hiệu quả. Đây cũng
làđiểm khác biệt với cơ chế trả công một cách bình quân chủ nghĩa trong các doanh
nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, vàđó là một vật cản lớn cho tính hiệu quả của các
doanh nghiệp này.
Thứ ba: Kinh tế tư nhân là các đơn vị kinh tế có tính năng động và linh hoạt

cao trong hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Kinh tế tư nhân ra đời cùng với sự xuất hiện của nền sản xuất hàng hoá, nó
phát triển một cách tự nhiên vàđây làđiểm khác biệt với các doanh nghiệp thuộc sở
hữu Nhà nước hay sở hữu tập thể, các doanh nghiệp này thường được ra đời với sự
nỗ lực nhân tạo của Nhà nước và tập thể, tiếp theo là hàng loạt các ưu đãi để chúng
tồn tại và phát triển.
Sức sống của nền kinh tế tư nhân thể hiện ở tính năng động và linh hoạt. Với
một ý tưởng kinh doanh khả thi sẽ có thể tức thìđược hiện thực hoá bởi các đơn vị
sản xuất kinh doanh thuộc khu vực tư nhân. Quá trình ra quyết định nhanh chóng và
gọn nhẹđó chỉ cóđược ở các tổ chức kinh doanh thuộc khu vực tư nhân. Cũng vì sự
ra đời là khách quan và tính năng động, linh hoạt cao nên kinh tế tư nhân có khả
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
năng tồn tại và thích ứng với mọi hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của nền kinh tế. Thực
tế cho thấy trong thời gian dài, ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây kinh tế tư
nhân vẫn tồn tại ở những loại hình và mức độ khác nhau trong một số lĩnh vực cho
dù nó bị Nhà nước cấm đoán và phong toảở mọi phương diện. Thực tế cũng cho
thấy khi các chính sách cấm đoán ở các quốc gia này được nới lỏng đôi chút thì
kinh tế tư nhân hồi sinh và phát triển mạnh mẽ như “ nấm sau mưa”. Trong thời kỳ
trước đổi mới, khu vực tư nhân ở Việt Nam vẫn tồn tại xét ở góc độ khu vực tư
nhân phi chính thức. Sau đổi mới kinh tế, khu vực tư nhân phát triển mạnh mẽ mà
không nhận được sựưu ái của Nhà nước. Các chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ yêu cầu
được đối xử công bằng và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác chứ họ không
yêu cầu sựưu ái của Nhà nước đối với họ. Điều này minh chứng rõ tính năng động
và linh hoạt của kinh tế tư nhân trong bất kỳ hoàn cảnh kinh tế nào.
Thứ tư: Kinh tế tư nhân hoạt động dựa trên sự thống nhất giữa quyền sở hữu
và quyền sử dụng tài sản.
Vì kinh tế tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, cho
nên sự tồn tại dưới hình thức là các loại hình doanh nghiệp hay hộ gia đình, người
sản xuất nhỏ thì về bản chất nó vẫn thuộc sở hữu tư nhân. Người chủ sở hữu có

quyền quyết định hoàn toàn mọi quá trình sản xuất kinh doanh vàđương nhiên các
quyết định đóđi liền với quyền lợi và trách nhiệm của chính họ. Nguyên tắc hoạt
động của kinh tế tư nhân là “bốn tự”, đó là tự bỏ vốn, tự tổ chức, tự chủ trong kinh
doanh và tự bù lỗ. Đây là cơ chếđể gắn kết kết quả hoạt động (lợi ích) với năng lực
hoạt động của chính các chủ doanh nghiệp tư nhân. Kinh tế tư nhân hoạt động bởi
chính vốn liếng của mình (cho dù là vốn vay) nên mọi quyết định phải được cân
nhắc kỹ lưỡng và mang lại hiệu quả, tức phải sinh lời, phải làm cho hoạt động kinh
doanh luôn phát triển, đồng vốn phải không ngừng lớn lên. Điều này khác biệt với
các giám đốc doanh nghiệp Nhà nước hay nhà quản lý trong kinh tế tập thể, họ hoạt
động không dựa trên vốn hay không hoàn toàn trên đồng vốn của chính mình màđó
là vốn liếng của Nhà nước, của tập thể. Quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản
trong các đơn vị kinh tế này không có sự thống nhất, chính vì vậy mà trách nhiệm
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
và quyền lợi thường không đi liền với nhau, do đó các quyết định của họ sẽ có thể
không phản ánh sự thận trọng, kỹ lưỡng và tính hiệu quả. Mục đích lãnh đạo của họ
có thể không chỉ là làm cho doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận mà là các mục
đích khác như thăng tiến ở một chức vụ quản lý khác cao hơn.
Trên đây là các đặc điểm rõ nét nhất về khu vực kinh tế tư nhân ở các nước
khi so sánh với khu vực kinh tế công cộng vàđây cũng là những ưu thế của kinh tế
tư nhân so với kinh tế công cộng trong tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên kinh tế tư nhân cũng có mặt trái của nó mà chính vì lẽđó, sự tồn
tại khu vực kinh tế công cộng ở mọi quốc gia là khách quan và cần thiết bởi vai trò
của chúng trong việc cung cấp hàng hoá công cộng và một số hàng hoá - dịch vụ
khác mà khu vực tư nhân cung cấp không hiệu quả xét về khía cạnh hiệu quả xã hội.
Đối với các nước đang phát triển vàđang chuyển đổi, khu vực kinh tế tư
nhân có một sốđặc điểm sau:
+ Kinh tế tư nhân ở các nước chuyển đổi được hình thành từ nhiều con
đường khác nhau, ngoài hình thức tự phát triển, thành lập mới các doanh nghiệp tư
nhân thì còn một con đường khác là chuyển đổi sở hữu, tư nhân hoá các xí nghiệp

do Nhà nước sở hữu.
+ Quy mô của khu vực kinh tế tư nhân ở các nước đang phát triển còn nhỏ
bé, chiếm tỷ trọng không nhiều trong GDP, trình độ công nghệ lạc hậu và thiếu kỹ
năng quản trị và kinh nghiệm kinh doanh…
+ Đa phần các doanh nghiệp tư nhân ở các nước đang phát triển có quy mô
vừa và nhỏ, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp và năng lực cạnh tranh yếu kém.
Đây cũng làđặc điểm chung của nền kinh tế các nước đang phát triển, số các doanh
nghiệp tư nhân ở các nước này có quy mô lớn là rất ít.
1.2. VAITRÒCỦAKINHTẾTƯNHÂNTRONGNỀNKINHTẾQUỐCDÂN.
Trong một nền kinh tế thị trường, sự tăng trưởng và phát triển của khu vực
tư nhân và sự phát triển của cộng đồng gắn liền với nhau trong một mối quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau. Sự tăng trưởng và phát triển của khu vực tư nhân sẽđem lại thu
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
nhập cao hơn, y tế và giáo dục tốt hơn cho người dân và cộng đồng. Mặt khác, đối
với các doanh nghiệp, thu nhập cao hơn có nghĩa là thị trường rộng lớn hơn. Sức
khỏe và giáo dục tốt hơn thì lực lượng lao động có năng suất cao hơn và năng suất
cao hơn sẽđem lại nhiều lợi nhuận. Vai trò của KTTN trong nền kinh tế thị trường
được thể hiện trên nhiều khía cạnh nhưđóng góp quan trọng vào ngân sách nhà
nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động, huy động nguồn lực trong xã hội
vào sản xuất kinh doanh cho sản xuất kinh doanh…
Thứ nhất: Huy động mọi nguồn lực trong xã hội vào sản xuất kinh doanh,
làđộng lực chính cho tăng trưởng kinh tế, góp phần quan trọng vào sự phát triển
kinh tế –xã hội đất nước.
Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong việc huy động mọi nguồn lực
tiềm ẩn trong xã hội cho phát triển kinh tế. Nguồn lực này có thể tồn tại dưới các
thức khác nhau như: tài chính, đất đai, thiết bị máy móc, kinh nghiệm quản lý, kỹ
năng lao động…sự phát triển kinh tế tư nhân sẽ khai thác và sử dụng hiệu quả các
tiềm năng đó và xã hội hoá các yếu tố sản xuất tập trung vào phát triển kinh tế xã
hội.

Có thể khẳng định ở mọi quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, khu
vực kinh tế tư nhân có vai trò rất quan trọng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Do
tính năng động, linh hoạt và hiệu quả nên kinh tế tư nhân luôn có tốc độ tăng trưởng
cao hơn khu vực kinh tế công cộng và sựđóng góp này tạo động lực cho tăng trưởng
kinh tế các nước. Mức độđóng góp của khu vực kinh tế này vào GDP thường dao
động từ 40-70% GDP của nền kinh tếở hầu hết các quốc gia.
Nguồn vốn là yếu tốđầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất. Trong một nền
kinh tếđang phát triển nguồn vốn rất khan hiếm vàđặc biệt đối với các nền kinh tế
chuyển đổi như Việt Nam thì nguồn vốn càng khan hiếm hơn, khi các tổ chức tài
chính chưa phát triển và không có khả năng huy động tiền tiết kiệm từ dân cư, cũng
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
như hạn chế của ngân sách trong việc phân bổ vốn cho đầu tư. Do đó khả năng huy
động vốn của khu vực KTTN trở nên rất quan trọng.
Nếu các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN được đặt trong môi trường kinh
doanh bình đẳng vàđược tạo cơ hội thuận lợi thì các chủ doanh nghiệp có thể tự tin
mạo hiểm với khoản tiền tiết kiệm quý giá của bản thân họ, thậm chí của họ hàng và
bạn bè họđể theo đuổi mục tiêu lợi nhuận. Môi trường kinh doanh bình đẳng sẽ
khiến các chủ doanh nghiệp có thể kiểm soát ở mức độ nào đó các hoạt động và số
phận kinh doanh của họ. Tuy nhiên do hệ thống tài chính kém phát triển nên các
khoản tiền tiết kiệm có thể trở thành vốn sẵn có của các doanh nghiệp nhưng lại tồn
tại dưới hình thức khác nhau nằm ngoài các thể chế tài chính chính thức.
Thứ hai: Phát triển kinh tế tư nhân góp phần tạo ra các cơ hội việc làm. Một
kết quả của việc huy động vốn và hình thành vốn của các doanh nghiệp tư nhân là
tạo ra cơ hội việc làm cho các thành viên khác trong cộng đồng. Việc làm sẽ mạng
lại thu nhập cao cho những người lao động và nâng cao mức sống của gia đình họ.
Nhìn chung, chủ doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN khác với các nhà quản
lýở các doanh nghiệp nhà nước ở chỗ họ có quyền quyết định lớn hơn trong việc
thuê mướn lao động (số lượng, kỹ năng cần thiết của người lao động). Vì vậy không
những các doanh nhân hoàn toàn có thể tăng số lượng lao động làm thuêtheo ý họ

mà còn có thể nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân lực trong cộng
đồng.
Thứ ba: Phát triển kinh tế tư nhân góp phần tạo nguồn thu thuế cho chính
phủđóng góp quan trọng vào ngân sách nhà nước, làm gia tăng tổng sản phẩm quốc
dân, thông qua các khoản thu thuế mà các doanh nghiệp tư nhân phải đóng góp cho
nhà nước. Những năm gần đây khu vực kinh tế tư nhân chiếm tới 49% vào GDP cả
nước. Điều đó chứng tỏ rằng khu vực kinh tế này đang phát triển rất mạnh trong nền
kinh tế và tạo cho nền kinh tế ngày càng mạnh mẽ.
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
Cùng với những ưu thế, sức sống tự phát mãnh liệt, và có khả năng lựa chọn
quy mô phù hợp, KTTN là một khu vực năng động, dễ thích nghi. Trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế cùng với xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế và với vai trò
riêng của mình KTTN tạo ra cho mỗi quốc gia nhiều cơ hội phát triển nền kinh tế
của mình.
Tuy nhiên bên cạnh những ưu thế vốn cóđó thì KTTN vẫn còn những mặt
hạn chế của mình.
KTTN có thể phá vỡ cơ cấu kinh tế hợp lý của nền kinh tế, do KTTN thường
đầu tư vào ngành thương mại, dịch vụ, sản xuất ở những vùng đông dân cư như thị
xã, thành phố… tức là lượng doanh nghiệp xuất hiện ở thành phố là rất lớn.
KTTN có thể tạo ra sự phân hoá giàu nghèo lớn trong xã hội. Vìđặc điểm của
KTTN là “ mạnh ai nấy chạy” tạo ra sư giãn cách lớn trong thu nhập.
Với quy mô còn nhỏ, khả năng ứng dụng khoa học công nghệ chưa cao vì
vậy trong qúa trình hội nhập kinh tế KTTN rất khó cạnh tranh với các chủ thể kinh
tế bên ngoài.
Vì mục tiêu của KTTN luôn là tối đa hoá lợi nhuận, chạy theo lợi nhuận do
đó họ sẵn sàng bất chấp mọi điều kiện để tăng doanh thu. Nhưng hạn chế mà khu
vực KTTN này mang lại là cũng rất đáng kể. KTTN phát triển mạnh dẫn đến sựtập
trung tài sản vào tay một số cá nhân. Điều này vừa tạo ra sự phân hoá về thu nhập
vừa có thể tạo điều kiện cho một số kẻ lũng đoạn thị trường, rồi chạy theo thu nhập

sẽ làm họ bỏ qua vấn đề môi trường tạo ô nhiễm môi trường và vấn đề công bằng
xã hội mà nền kinh tế nào cũng mong muốn đạt tới.
Như vậy KTTN có vai trò rất tích cực trong qúa trình thúc đẩy sự phát triển
kinh tế, nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại những mặt tiêu cực mang tính chất kìm hãm
sự phát triển của nền kinh tế và của khu vực này. Để hạn chế những tiêu cực này
đòi hỏi Nhà Nước phải có biện pháp can thiệp thích hợp và những chính sách cụ
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
thểđể có thể làm cho khu vực KTTN phát huy hết những vai trò tích cực của nó và
hạn chế tối đa những mặt tiêu cực mà nó có thể gây ra.
1. 3 KINHNGHIỆMPHÁTTRIỂN KTTN ỞMỘTSỐQUỐCGIA:
1. 3. 1 Phát triển kinh tế tư nhân ở một số nước:
* Hungary:
Trên thế giới hiện nay có hơn 180 quốc gia có nền kinh tế thị trường với khu
vực tư nhân làm nòng cốt. Tuy nhiên chỉ có hơn 30 quốc gia trong sốđó trở nên
giàu có một số nước trước đây đi theo mô hình kế hoạch hoá tập trung, phủ nhận sự
tồn tại của khu vực KTTN do đó mà nền kinh tếđã lâm vào tình trạng trì trệ kém
phát triển.
Sự tồn tại của KTTN trong nền kinh tế thị trường là tất yếu. Tuy nhiên để
phát triển bền vững cần có các điều kiện sau:
- Tự do hoá nền kinh tế, mở rộng tự do cạnh tranh, phát huy tối đa thế mạnh
của cơ chế thị trường tạo điều kiện phát triển KTTN phát huy được vai tròđịnh
hướng điều tiết của Nhà Nước bằng chiến lược và các công cụ chính sách.
- Các nước có khu vực KTTN phát triển đãđạt được những thành công lớn
trong phát triển kinh tế là các nước NIC, Tây Âu, các nước thuộc Châu Á Thái Bình
Dương. Đây là những nước có khu vực KTTN phát triển năng động nhất.
Hungary là nước đầu tiên ở Trung Âu thực hiện cải cách kinh tế và chính trị,
tiên phong trong số các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện công cuộc cải cách sang
nền kinh tế thị trường. Về mặt lịch sử, Hungary đã thực hiện những bước đi đầu tiên
trong việc tự do hoá chính sách kinh tế của mình bằng việc đưa ra một “cơ chế kinh

tế mới” với nhiều lần thử nghiệm cải cách vào năm 1953, 1956 và 1968. Hungary
cũng là nước đầu tiên trong khối Đông Âu thực hiện tư nhân hoá trên cơ sở thị
trường (kể cả khu vực mang tính chiến lược như năng lượng và ngân hàng). Những
cải cách khu vực công (y tế, giáo dục) cũng bắt đầu được thực hiện.
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
Hai thành quả quan trọng trong thời kỳ chuyển đổi luôn được nhắc tới ở
Hungary là: Tư nhân hoá và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chiến lược tư nhân
hoáở Hungary là bán tài sản của nhà nước theo nguyên tắc thị trường. Trong giai
đoạn 90 -91 chỉ có 10% tổng số tài sản nhà nước được tư nhân hoá, trong giai đoạn
1992 – 1994 là hơn 40%. Năm 1989, thị phần của khu vực tư nhân tính theo GDP
chiếm 18% nhưng tốc độ tư nhân hoá tăng lên, đến cuối năm 1993 khu vực KTTN
đóng góp 50% GDP và cuối năm 1997 là 80%. Đến cuối 1990 quá trình tư nhân hoá
coi nhưđã hoàn thành: Tài sản của nhà nước chỉ còn chưa đến 20% chủ yếu là trong
ngành công nghiệp mang tính chiến lược.
Tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước là yếu tố quan trọng nhất trong chuyển
đổi thể chế do nó tạo ra cơ sở vật chất cho kinh tế thị trường, đồng thời tạo ra sự
thay đổi tư duy về sở hữu (chuyển sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân). Nhờ có
sự thống nhất giữa nhà nước và dân chúng nên quá trình tư nhân hoáở Hungary diễn
ra thuận lợi, không có xung đột gay gắt và kéo theo các chuyển đổi hoà bình khác
trong xã hội. Trong số các nước Đông Âu, Hungary là nước thực hiện quá trình
chuyển đổi sở hữu nhanh và toàn diện hơn cả. Trước năm 1990, hầu hết các phương
tiện sản xuất đều nằm trong tay chính phủ: có 1850 doanh nghiệp nhà nước với tổng
giá trị ghi trên sổ sách vào khoảng 20-25 tỷ USD (khoảng 3000 tỷ HUF theo tỷ giá
hiện nay). Năm 1989 – 1990 lĩnh vực này đóng góp 10 – 15% GDP, hiện nay là
70-75% GDP, tỷ lệ này tương đương với các nước trong liên minh Châu Âu.
Tuy nhiên quá trình tư nhân hoáở Hungary không diễn ra đều đặn. Đầu thập
kỷ 90, Hungary đã tiến hành tư nhân hoá những cơ sở kinh doanh nhỏ sau đó mới
tiến hành tư nhân hoá các doanh nghiệp lớn của nhà nước. Kinh nghiệm tư nhân hoá
những doanh nghiệp nhỏđã giúp cho việc tư nhân hoá những doanh nghiệp lớn suôn

sẻ. Quá trình chuẩn bị tư nhân hoá những doanh nghiệp lớn thực hiện tốt do đã lựa
chọn được đối tượng cóđủ khả năng vật chất để tiếp tục duy trì hoạt động có hiệu
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
quả trên cơ sởđổi mới công nghệ. Việc tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước lớn
được thực hiện từ 1993 – 1996 (ngân hàng, doanh nghiệp ngành năng lượng… )
Tư nhân hoáở Hungary được thực hiện đại trà từ 1993 – 1997. Năm 1994 do
có bầu cử một số thay đổi cơ cấu chính trị nên quá trình tư nhân hoá chậm lại. Đỉnh
cao của quá trình tư nhân hoá là năm 1995: 1/3 số doanh nghiệp được tư nhân hoá
trong năm 1995, kể cả các ngành chiến lược nhưđiện, năng lượng…
Chính phủ Hungary đã xây dựng cơ sở pháp lý cho việc tư nhân hoá bằng
việc ban hành một số luật. Luật công ty đảm bảo cơ sở cho các công ty cổ phần và
các loại hình công ty hoạt động. Năm 1995, Hungary ban hành luật tư nhân hoá, luật
tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần và công ty trách nhiệm
hữu hạn. Toàn bộ doanh nghiệp nhà nước của Hungary đều được chuyển sang hoạt
động theo luật công ty trước khi tư nhân hoá.
Từ năm 1992 – 1995, các quy định của nhà nước đã thay đổi nhiều lần: Nội
dung điều chỉnh chủ yếu là những doanh nghiệp nhà nước cần duy trì mức sở hữu
50%, 60% hay 100%. Đến năm 1995 đãđịnh nghĩa chính xác doanh nghiệp không
tư nhân hoá bao gồm một số công ty dịch vụ công cộng, chiến lược hoặc quốc
phòng. Hiện nay đã xác định nhà nước sẽ nắm giữ cổ phần lâu dài trong các công ty
điện lực (duy trì mức sở hữu 51%) công ty bán buôn, bán lẻ dược phẩm, công ty
thép và sẽ duy trì lâu dài sở hữu nhà nước trong 3 doanh nghiệp thuộc ngành năng
lượng, 3 doanh nghiệp hàng không, 27 nông trường, 17 lâm trường, 24 doanh
nghiệp giao thông liên tỉnh và một ngân hàng…
Các hình thức tư nhân hoáở Hungary được quy định rõ ràng trong luật tư
nhân hoá cụ thể:
- Đấu thầu công khai là hình thức chủ yếu được áp dụng. Hơn 90% tài sản
nhà nước được tư nhân hoá thông qua đấu thầu công khai. Nhờđóđãđạt được tính
chất minh bạch rõ ràng. Trên thực tế, việc tư nhân hoá những công ty lớn được thực

hiện thông qua hình thức đấu thầu để lựa chọn đối tác đầu tư.
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
- Thông báo bán công khai: Các điều kiện bán được thông báo để người mua
biết bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán: Một phần nhỏ doanh nghiệp áp dụng
hình thức này. Một thành quả lớn là có doanh nghiệp được đưa ra bán trên thị
trường chứng khoán London và Newyork. Khi mới bắt đầu tư nhân hoá thông qua
thị trường chứng khoán (1995), các tổ chức môi giới hưởng tỷ lệ 5 – 10% hoa hồng,
đến năm 1999 tỷ lệ này giảm còn 1 – 1,5%.
- Bán cho nhàđầu tư chiến lược: Hình thức này áp dụng đối với những doanh
nghiệp có tầm quan trọng về quốc phòng hoặc chính trịđặc biệt hoặc có nguy cơ sẽ
cóđối thủ cạnh tranh mua lại nhằm mục đích thôn tính chiếm lĩnh thị trường. Chỉ có
1-2 trường hợp thông qua mời thầu (an ninh, quốc phòng).
- Bán gọn, bán trả góp, khoán, cho thuê lâu dàiđối với các nhà quản lý và
tập thể cán bộ công nhân viên doanh nghiệp đối với mỗi doanh nghiệp nhỏ: Hình
thức này không thành công nên không phổ biến.
Hungary không áp dụng hình thức cho không tài sản, trừ trường hợp di
chuyển tài sản từ trung ương cho chính quyền địa phương. Hungary không dùng
phiếu chứng nhận (voucher) như Tiệp khắc, Ba Lan làđúng đắn vìđây chỉ là biện
pháp phân chia lại tài sản của nhà nước; không phải là hình thức tư nhân hoá mang
lại hiệu quả. Ýđồ của các nhà chính trịở Hungary là chuyển tài sản vào tay những
người có vốn và tiếp tục sử dụng tài sản đó vào sản xuất kinh doanh.
- Phiếu đền bù: chủ yếu được phát hành cho những người bị thiệt hại trong
thời kỳ xã hội chủ nghĩa, được lấy từ tài khoản thu do tư nhân hoá.
Trong luật tư nhân hoá quy định các đối tượng không được phép tham gia
mua cổ phần, nhưng về cơ bản không hạn chếđối tượng mua cổ phần. Do trước thời
kỳ xã hội chủ nghĩa không có tư sản tư nhân nội địa để tham gia mua tài sản này, do
người Hungary nghèo nên chỉ tham gia những lĩnh vực yêu cầu ít vốn như thương
nghiệp bán lẻ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Không những thế những doanh nghiệp
này chỉ có khả năng tồn tại chứ không đểđổi mới công nghệ do thiếu vốn.

Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
Hungary không có chiến lược quáưu đãi cho người mua nội địa thông qua
phiếu đền bù và tín dụng ngân hàng. Hungary có chương trình cổ phần hoá cho
người lao động nhưng thực ra quy mô không lớn vì tư nhân hoá nhằm mục tiêu
hiệu quả và chọn đối tượng có vốn nhiều nhất.
Hungary có chính sách khuyến khích người nước ngoài tham gia cổ phần
hoá. Khoảng 60 -62% tài sản doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá cho người
nước ngoài. Sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng
30% GDP.
Tuy nhiên trong quá trình tư nhân hoáở Hungary nổi lên một vấn đề quan
trọng là nợ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp nhà nước và nợ ngân hàng rất lớn.
Sau đây là hình ảnh mà khu vực kinh tế tư nhân Hungary cóđược trong
những năm cuối 1980.
Bảng 1.1: Tăng trưởng công nghiệp tư nhân vừa và nhỏ và của thương nghiệp bán
lẻ tư nhân ở Hungary.
Năm
Số lượng thợ
thủ công làm
riêng(%)
Số công nhân
của các thợ
thủ công(%)
Số tư thương
bán lẻ (%)
Số lao động
của các tư
thương (%)
1984 100 100 100 100
1985 104. 8 108. 1 113. 7 121. 5

1986 108. 4 116. 1 113. 7 121. 5
1987 110. 8 183. 1 142. 1 169. 5
1988 121. 1 263. 3 154. 2 188. 1
1989 125. 8 346. 3 176. 9 208. 8
Nguồn: K. Balazs và M. laki (199. trang504)
Số liệu trên cho thấy khu vực KTTN ở Hungary có tốc độ tăng trưởng khá
nhịp nhàng năm sau luôn cao hơn năm trước điều đó thể hiện khu vực KTTN vừa
và nhỏ này đang được đểý và phát triển. Tuy nhiên đa số các xí nghiệp là những
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
doanh nghiệp tư bản nhỏ, các xí nghiệp tư bản quy mô vừa cũng nổi lên nhưng có
thưa thớt. Các xí nghiệp tư bản quy mô lớn cũng được phát triển nhưng số lượng rất
ít. Để cho việc hình thành các xí nghiệp tư bản quy mô vừa và lớn có thể trở thành
phổ biến hơn, đất nước, trên phương diện chính trị, phải tiến tới cách mạng dân chủ
và bước vào giai đoạn hậu xã hội chủ nghĩa hoặc ít nhất cũng đạt trạng thái trong đó
các yếu tố của quá trình cải cách và của sự thay đổi cách mạng và hệ thống đãđược
hoà quyện vào nhau.
Xác định cho mình các yếu tố cơ bản đó. Hungary bắt đầu chuyển đổi kinh
tế vào những năm 1990. Trong quá trình chuyển đổi, nước này rất chú trọng phát
triển KTTN, xoá bỏý tưởng sở hữu Nhà nước phải giữưu thế, thiết lập một nền kinh
tế thị trường tự do. Hungary đã lựa chọn con đường phát triển hữu cơ của khu vực
KTTN bằng cách tạo điều kiện cho sự phát triển từ dưới lên trên của khu vực tư
nhân bằng cách xoá bỏ những rào cản, cản trở sự phát triển vủa khu vực kinh tế này,
phải tôn trọng sở hữu tư bản, đưa ra các chính sách hỗ trợ cho khu vực KTTN phát
triển, thực hiện quá trình tư nhân hoá các công ty thuộc sở hữu nhà nước không
hiệu quả băng cách bán cho tư nhân trong và ngoài nước, các doanh nghiệp không
có khả năng tồn tại thì cho phá sản, có hệ thống pháp luật rõ ràng, đồng bộ tạo hành
lang pháp lý cho khu vực KTTN phát triển, thực hiện ràng buộc ngân sách đối với
các doanh nghiệp thuộc khu vưc tư nhân .
Với các chính sách đó, KTTN của Hugarry đã có sự phát triển mạnh mẽ

vàđạt được những thành tựu to lớn hàng năm doanh nghiệp tư nhân mới xuất hiện,
đồng thời các doanh nghiệp yếu kém lại đào thải, giải quyết nhiều công ăn việc làm,
kích thích tính cạnh tranh trong nền kinh tế, hoàn thiện thị truờng và thu hút vốn
đầu tư nước ngoài.
* Trung Quốc:
Bước vào đột phá Trung Quốc hướng vào kinh doanh hộ gia đình quy mô
nhỏ vàđặc biệt trong nông nghiệp. Tầm quan trọng của các hộ kinh doanh qui mô
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
ngoài nông nghiệp cũng đã tăng lên rất đáng kể ( số liệu dưới đây sẽ cho ta thấy
điều này).
Bảng 1. 2: Sự phát triển khu vưc tư nhân phi nông nghiệp.
Năm 1981(nghìn) 1988(nghìn) 1988/1981(%)
Số các xí
nghiệp tư nhân
1829 14527 794
Số lao động
trong xí nghiệp
tư nhân
2274 23049 1. 014
Nguồn: Beijing Review,27-2-1989 và Peoples Daily 11-3-1989
Các lĩnh vực hoạt động chủ yếu được thừa nhận thấy trong hình thức này là
sửa chữa và bảo dưỡng, vận chuyển hành khách và hàng hoá, xây dựng, thương
nghiệp bán lẻ, ăn uống, và các dịch vụ khác.
Trung Quốc có rất nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, trước đây Trung
Quốc đã xây dựng nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và sự kém phát triển, trì
trệ là không tránh khỏi. Sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, vai trò
KTTN trong nền kinh tế thị trường đã làm cho Trung Quốc “thay da đổi thịt” nền
kinh tế. Có thể nói thay đổi quan trọng nhất trong nền kinh tế Trung Quốc những
năm 90 là việc tư nhân hoá. Theo thống kê, 80% doanh nghiệp do nhà nước sở hữu

từ cấp huyện trở xuống đãđược tư nhân hoá. Các chương trình tư nhân hoáđều do
chính quyền địa phương khởi xướng với lý do quan trọng nhất là số nợ của khu vực
nhà nước đang dần lớn lên.
Năm 1995, chính quyền Trung ương sau nhiều lần khảo sát điều tra đãđưa ra
chính sách “nắm lớn, thả nhỏ” theo đó nhà nước chỉ chú trọng vào từ 500 – 1000
doanh nghiệp lớn và cho thuê hoặc bán các doanh nghiệp nhỏ hơn. Đến năm 1997,
500 doanh nghiệp nhà nước lớn nhất đã nắm giữ 37% tổng số của các doanh nghiệp
công nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, nộp 46% tổng số thuế các doanh nghiệp nhà
nước phải nộp và chiếm 63% tổng số lợi nhuận trong khu vực nhà nước. Tuy nhiên,
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhỏ hơn do các chính quyền địa phương nắm
giữ lại rất thấp. Năm 1995, chỉ có 24,3% doanh nghiệp tư nhân làđội mũđỏ trong
khi có tới 72,5% doanh nghiệp địa phương đội mũđỏ.
Từ chính sách “thả nhỏ” đã xuất hiện thuật ngữ “thay đổi sở hữu”. Kể từ
năm 1994, thuật ngữ này đã trở nên phổ biến trên toàn đất nước. Nội dung của “thay
đổi sở hữu” bao hàm cả khoán và cho thuê, hai biện pháp được sử dụng trước đây
và các biện pháp như bán, chuyển thành công ty do người lao động nắm giữ hay
chuyển thành hợp tác xã. Chính sách này đã có tác động trực tiếp tới các doanh
nghiệp đội mũđỏ. Tính đến 2001 khu vực KTTN của Trung Quốc đẵđóng góp 50%
vào GDP, thu hút trên 20 triệu lao động, góp 40.1% vào tổng giá trị sản lượng công
nghiệp.
- Hình ảnh cơ cấu đa sở hữu: Từ chỗ trong nền kinh tế chỉ tồn tại sở hữu nhà
nước và sở hữu tập thể thì cho đến nay Trung Quốc công nhận sự tồn tại của đa
loại hình sở hữu và kinh tế nhiều thành phần.
- Đổi mới quản lý nhà nước tạo dựng môi truờng pháp lý cho KTTN bằng
cách xây dựng một hành lang pháp lý thuận lợi khuyến khích cho khu vực tư nhân
phát triển như xây dựng luật doanh nghiệp cá thể, luật công ty hợp danh, luật công
ty …vv
- Mở cửa thị trường cho doanh nghiệp tư nhân, sau khi gia nhập WTO thị

trường Trung Quốc đã mở cửa cho nhiều đối tác nước ngoài và khuyến khích các
doanh nghiệp tham gia hội nhập. Tuy nhiên một số lĩnh vực mà các doanh nghiệp tư
nhân vẫn chưa được phép tham gia như tài chính, thị trường đất đai, trước sự khôi
phục nhanh chóng của khu vực tư nhân Trung Quốc cho rằng phải nhanh chóng có
các chính sách mở cửa các lĩnh vực này để doanh nghiệp tư nhân có thể tham gia
phá vỡ thếđộc quyền nhà nước.
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
- Thúc đẩy sự hình thành và ra đời các tổ chức trung gian để tìm kiếm các cơ
hội kinh doanh, quan hệ với các cơ quan công quyền, đào tạo thu thập thông tin, duy
trì trật tự thị trường.
Một số vấn đề cần tiếp tục được giải quyết trong phát triển kinh tế tư nhân ở
Trung Quốc:
Về tài chính có 3 cách để các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các nguồn tài
chính: vay phi chính thức, vay từ ngân hàng và huy động vốn thông qua thị trường
chứng khoán.
Tính phi chính thức của doanh nghiệp tư nhân (cái cản trở tiềm năng phát
triển kinh tế tư nhân)
- Các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ không
thực hiện ghi chép sổ sách kế toán đầy đủ, nhiều trường hợp doanh nghiệp tư nhân
cốý sửdụng mánhkhoé trong việc ghi chép và lưu trữ nhiều loại sổ sách kế toán.
- Doanh nghiệp tư nhân dường như không cóý thức tuân thủ pháp luật.
- Các doanh nghiệp tư nhân không có cơ chế quản lý nội bộ hợp lý, không
minh bạch rõ ràng.
- Các doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa đánh giáđúng nguồn vốn con người.
Chẳng hạn 80 doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệpFDI, các doanh nghiệp tư
nhân thường trả một mức lương thấp cho các sinh viên mới tốt nghiệp.
Trên đây là kinh nghiệm của một số nước có nền kinh tế tương đồng như
Việt Nam. Trước đây các nước này đều theo cơ chế tập trung. Sau khi đổi mới họđã
nhận thức được vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân vàđã kịp thời nắm bắt cơ hội

đó bằng những chính sách phù hợp với KTTN bước đầu đã tạo ra những thành công
đáng kể.
1.3.2 Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân cho Việt Nam:
Trong bối cảnh hiện nay trên thế giới, khi mà nền kinh tếđang trong tiến
trình toàn cầu hoá, khu vực hoá…. Khi mà vai trò của khu vực kinh tế tư nhân đang
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
ngày một chiếm giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế các nước trên thế giới thìđối
với Việt Nam hiện nay cũng đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất
nước, cần thấy được vai trò quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh
tếđất nước mà cũng phải tham khảo kinh nghiệm phát triển của các nước trên thế
giới. Dưới đây là một số kinh nghiệm, bài học Việt Nam cần rút ra cho quá trình
phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
Thứ nhất : Thống nhất nhận thức, quan điểm về kinh tế tư nhân.
Từ kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của Hungary và Trung Quốc
chúng ta có thể thấy rằng khu vực kinh tế tư nhân hoàn toàn có thể phát triển năng
động trong môi trường kinh tế thị trường. Đảng cộng sản, Nhà nước hoàn toàn có
khả năng quản lý, giám sát vàđịnh hướng sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân.
Có một thực tế làở Việt Nam và Trung Quốc cam kết chính trị gần nhưđóng
vai trò quyết định cho sự phát triển kinh tế tư nhân. Tại Trung Quốc khu vực tư
nhân đã phát triển mạnh mẽ sau chuyến công du của Đặng Tiểu Bình. Tuyên bố của
ông đã có tác động mạnh mẽ hơn nhiều các đạo luật, chính sách, đã thực sự giải
phóng tư tưởng, tâm lý và những vướng mắc cản trở sự phát triển của kinh tế tư
nhân lúc đó. Với Việt Nam, chúng ta cần thống nhất nhận thức rằng khu vực tư
nhân thực sự làđộng lực tăng trưởng kinh tế quan trọng, là khu vực chủ yếu giải
quyết việc làm, phát huy mọi tiềm lực của người dân. Để thúc đẩy phát triển kinh tế
tư nhân năng động này Việt Nam cần những cam kết từ phía Đảng và Chính phủđể
giải phóng tư tưởng đối với kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân không là “mầm mống
của bạo loạn”, “nguyên nhân gây mất ổn định chính trị, xã hội” màđã “góp phần giữ
vững ổn định chính trị – xã hội đất nước”, “những Đảng viên đang làm chủ doanh

nghiệp tư nhân chấp hành tốt điều lệĐảng và Pháp luật, chính sách của nhà nước thì
vẫn làĐảng viên của Đảng”.
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
Vấn đề tiếp theo là quan niệm về sự “bóc lột”. Chúng ta không thể coi một
doanh nhân bỏ vốn đầu tư tạo việc làm mang lại thu nhập ổn định cho người lao
động đồng thời phải chịu rủi ro trong kinh doanh là bóc lột.
Thứ hai: Cải cách doanh nghiệp nhà nước:
Khi chuyển đổi sang kinh tế thị trường, một trong những nội dung quan
trọng mà các nước chuyển đổi phải thực hiện là xây dựng khu vực kinh tế tư nhân
lớn mạnh. Do đó, vấn đề cải cách doanh nghiệp nhà nước là mục tiêu hàng đầu.
Việc kết hợp cải cách doanh nghiệp nhà nước với phát triển kinh tế ngoài
quốc doanh phụ thuộc trước hết vào định hướng chiến lược của quốc gia về mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân. Đối với các nước
chuyển đổi ởĐông Âu như Hungary thìđịnh hướng chiến lược phát triển kinh tế của
họ là dựa hẳn vào khu vực kinh tế tư nhân. Tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước là
yếu tố quan trọng nhất trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Việt Nam đang trong
quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tếthị trường,
cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước được coi là trọng tâm hàng đầu. Do vậy
cần sắp xếp lại và thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Định hướng chiến lược hoặc sựđiều chỉnh có tính chiến lược đối với hai khu
vực kinh tế của Trung Quốc được thực hiện theo hướng “nắm lớn, thu nhỏ”, kinh tế
nhà nước phải nắm giữ chi phối những ngành nghề lĩnh vực then chốt của nền kinh
tế quốc dân.
Cải cách doanh nghiệp nhà nước điều quan trọng là phải tiến hành đồng thời
các chính sách phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ngay từ khi bắt đầu các
chương trình cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Ngoài ra việc cải cách các doanh nghiệp nhà nước tất yếu dẫn đến chuyển
dịch lao động giữa khu vực nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân. Do đó phải có
chính sách hỗ trợ người lao động tìm kiếm việc làm mới ở khu vực ngoài quốc

doanh.
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
Việt Nam tuy đã chuyển đổi sang cơ chế thị trường, nền kinh tế nhiều thành
phần coi trọng sự phát triển của KTTN song trong bước đi còn rụt rè, nên đóng góp
của khu vực này còn rất hạn chế so với các nước khác. Do vậy chúng ta phải mau
chóng nhìn nhận khách quan thực tiễn trong và ngoài nước đểđẩy mạnh KTTN phát
triển đúng với tiềm năng của nó, đểđưa nền kinh tế vào đúng quỹđạo của nền kinh
tế toàn cầu.
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 2
THỰCTRẠNGPHÁTTRIỂNKINHTẾTƯNHÂNỞ VIỆT NAM
2. 1. QUANĐIỂMCỦA VIỆT NAMVỀPHÁTTRIỂNKINHTẾTƯNHÂNTỪ
1986 ĐẾNNAY.
Giai đoạn trước đổi mới(1986) do các yếu tố khách quan và chủ quan dẫn
đến quan điểm, nhận thức của Việt Nam về khu vực kinh tế tư nhân còn hạn chế,
không thấy được vai trò của KTTN đối với nền kinh tế, cũng như chưa thấy được
sự tồn tại của KTTN là một sự khách quan, là một đòi hỏi tất yếu của lịch sử phát
triển của nhân loại. Giai đoạn này nhìn chung KTTN không được thực sự thừa
nhận, các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu giới hạn trong khu vực hộ kinh doanh,
thường không có tư cách pháp nhân chắc chắn và hoạt động chủ yếu ở thị trường
ngầm. Tuy nhiên đến cuối thập kỷ 80, có rất nhiều thương nhân hoạt động khắp đất
nước và nhiều hoạt động tư nhân quy mô nhỏở cả khu vực nông thôn và thành thị,
mặc dù họ không được chấp nhận chính thức.
Chính tư tưởng không đúng đắn này đã làm cho nền kinh tế ngày càng khủng
hoảng và suy sụp, nền kinh tế tiêu điều, đời sống nhân dân ngày càng đi xuống.
Trước tình hình đóĐảng và Nhà nước đãđưa ra những chính sách cấp bách nhằm
cứu vãn tình hình. Những chính sách này đã tạo điều kiện cho KTTN hồi sinh và
phát triển trở lại và ngày một khẳng định vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân.

Cụ thể: số hộ kinh doanh tăng từ khoảng 0.84 triệu năm 1990 lên 2.2 triệu hộ năm
1996 và 3 triệu hộ tính đến cuối 2004, ngoài ra cả nước còn có khoảng 130.000
trang trại và trên 10 triệu hộ nông dân sản xuất hàng hoá.
Như vậy là thấy được rằng sự phục sinh của khu vực KTTN là một yếu tố
khách quan của nền kinh tế. Năm 1986 là mốc quan trọng đánh dấu sự thay đổi về
quan điểm, nhận thức của Đảng ta về KTTN.
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
Năm 1985, mặc dù về hình thức, kinh tế xã hội chủ nghĩa gồm hai thành
phần là quốc doanh và tập thể vẫn giữ tuyệt đối trong nền kinh tế. Song do đã xuất
hiện những hạn chế, những yếu kém của nền kinh tế giai đoạn này mà hai thành
phần kinh tế trên không thể khắc phục. Nền kinh tế lúc này rơi vào khủng hoảng và
sa sút nghiêm trọng, lạm phát gia tăng, sản xuất đình trệ, đời sống dân cư khó khăn.
Lúc này đã xuất hiện các quan điểm mới vềđổi mới nền kinh tế. Tất cả các yếu tố
khách quan và chủ quan đóđã dẫn đến một dấu ấn quan trọng trong nhận thức của
Đảng ta, đó làđại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI (tháng 12/1986) đãđề ra
đường lối đổi mới nền kinh tế. Đây là giai đoạn đánh dấu những thay đổi căn bản
trong nhận thức về KTTN, sựđổi mới đó của Đại hội là xác định mục tiêu xây dựng
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước và phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó thị trường tự do và những người sản
xuất thuộc khu vực tư nhân được chấp nhận như là những bộ phận không thể thiếu
trong quá trình phát triển kinh tế.
Dưới đây là những điểm đổi mới trong tư duy từĐại hội Đảng lần thứ VI:
Thứ nhất: Đại hội xác định cơ chế thị trường có thể và cần phải cùng tồn tại
trong xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai: thừa nhận vai trò chủ thểđộc lập của doanh nghiệp và các hộ gia
đình.
Thứ ba: xác định kinh tế tư nhân là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, là chủ
thể kinh tế khác trong quan hệ cạnh tranh.
Các quan điểm này đãđược Đảng hoàn thiện trong các kìĐại hội Đảng tiếp

theo làĐại hội VII, VIII và IX. Mục tiêu kinh tế thị trường của Việt Nam được xác
định là: Xây dựng nền kinh tế thị trường có sựđiều tiết của Nhà nước và phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau thời kìđổi mới này Việt Nam đãáp dụng nhiều chính sách quan trọng
vàđồng bộđể xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang kinh tế thịtrường.
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT

×