1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước sang thiên niên kỷ thứ 3 của loài người, cùng với sự phát triển vượt
bậc về khoa học kỹ thuật và những thành tựu rực rỡ về kinh tế -văn hoá-giáo
dục, thì vẫn còn có tới 2/3 dân số thế giới sống trong cảnh nghèo đói, thiếu
nước sạch, thiếu sự chăm sóc y tế, giáo dục, thiếu những điều kiệ
n sinh hoạt
tối thiểu. Trong một nỗ lực chung, xoá bỏ nghèo đói, và giảm dần quãng cách
về trình độ phát triển giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới, hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA) đã có những đóng góp tích cực vì mục tiêu phát triển
toàn cầu.
Chính phủ Việt Nam hiện đang gánh vác trách nhiệm đưa đất nước tiến
lên con đường phát triển, thông qua việc đề cao các mục tiêu phát triển con
người, đã dành đượ
c sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc
tế. Tính đến năm 2000, tổng số vốn ODA giải ngân cho Việt Nam đã lên tới
7,6 tỷ USD, thông qua các chương trình, dự án xoá đói giảm nghèo, y tế, giáo
dục đào tạo, giao thông, cấp thoát nước, từng bước đã góp phần cải thiện các
chỉ số xã hội, nâng cao mức sống người dân, thúc đẩy quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hoá đấ
t nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh”.
Trong cả nước, Hà Nội cũng là một trong các tỉnh, thành phố thu hút
được nhiều vốn ODA trong các dự án phát triển kết cấu hạ tầng cơ sở. Nhiều
công trình hạ tầng giao thông, cấp thoát nước được xây dựng bằng nguồn vốn
ODA đã tạo ra những thay đổi khởi sắc trong nếp sống văn minh đô thị. Hiện
nay, chủ
trương chung của thành phố là tập trung thu hút, sử dụng vốn ODA
hình thành hệ thống cơ sở hạ tầng cơ sở hiện đại, tạo tiền đề cho phát triển
kinh tế.
Trong bối cảnh nguồn cung cấp ODA không ngừng giảm sút, sự cạnh
tranh quốc tế trong việc thu hút, sử dụng vốn ODA ngày càng diễn ra gay gắt
2
thì việc phân tích, đánh giá thực trạng sử dụng vốn ODA cho phát triển kết
cấu hạ tầng cơ sở ở Hà Nội, để tìm ra những tồn tại, khó khăn, có biện pháp
kịp thời tháo gỡ giải quyết là hết sức cần thiết.
Chính vì vậy tôi chọn đề tài “ Sử dụng vốn ODA trong xây dựng cơ sở
hạ tầng kỹ thuật ở Hà Nội”.
2. Mụ
c đích của đề tài
Một là, phân tích tình hình sử dụng vốn ODA trong phát triển cơ sở hạ
tầng kỹ thuật ở Hà Nội.
Hai là, đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA trong
phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu việc sử dụng v
ốn ODA trong phát triển hạ
tầng kỹ thuật thành phố Hà Nội, thực trạng sử dụng, những thành tựu và khó
khăn tồn tại.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Phương pháp luận được đề tài sử dụng là phương pháp duy vật biện
chứng.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể là phương pháp so sánh, phân tích và
tổng hợp, khái quát hoá vv...
5. Kết cấu của bài khóa luận
Ngoài lời mở
đầu, lời kết và danh mục tài liệu tham khảo, bài khoá luận
gồm 3 chương:
Chương I: Vài nét về nguồn hỗ trợ phát triển chính thức và vai trò
của nguồn vốn này đối với đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
Chương II:
Thực trạng sử dụng vốn ODA cho phát triển cơ sở hạ tầng
kỹ thuật thành phố Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn
ODA cho phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật thành phố Hà
Nội
3
4
CHƯƠNG 1 - VÀI NÉT VỀ NGUỒN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH
THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN NÀY ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ
PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG
1.1 TỔNG QUAN VỀ NGUỒN VỐN ODA
1.1.1 Khái niệm, bản chất và phân loại ODA
Khái niệm
Hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm các khoản viện trợ không hoàn
lại, viện trợ có hoàn lại, hoặc tín dụng ưu
đãi của chính phủ, các tổ chức phi
chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc, các tổ chức tài chính
quốc tế dành cho nước đang và chậm phát triển.
Nguồn vốn từ bên ngoài đưa vào các nước đang và chậm phát triển
được thực hiện thông qua các hình thức:
- Tài trợ phát triển chính thức (Official Development Finance -ODF) là
nguồn tài trợ chính thức của chính phủ cho mục tiêu phát triển. Nguồn vốn
này bao gồm ODA và các hình thứ
c ODF khác trong đó ODA chiếm tỷ trọng
chủ yếu.
- Tín dụng thương mại từ các ngân hàng (Commercial Credit by Banks)
là nguồn vốn chủ yếu hỗ trợ cho các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment-FDI) là loại
hình kinh doanh mà nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn, trực tiếp quản lý quá trình
sử dụng vốn, tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi, c
ũng như các nghĩa vụ tài chính
khác với cơ quan nhà nước.
- Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức phi chính phủ (Non
Governme-
ent Organization-NGO)
- Tín dụng tư nhân: loại vốn này có ưu điểm là hầu như không gắn với
bất
5
cứ điều kiện ràng buộc nào về chính trị, xã hội, song các điều kiện cho vay rất
khắt khe (thời hạn hoàn trả vốn ngắn và lãi suất vay cao), vốn được sử dụng
chủ yếu đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Vốn này
cũng được dùng để đầu tư phát triển và mang tính dài hạn. Tỷ trọng của vốn
dài hạn trong tổng s
ố có thể tăng thêm đáng kể nếu triển vọng tăng trưởng lâu
dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là khả quan.
Các dòng vốn quốc tế này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu một
nước kém phát triển không nhận được vốn ODA đủ mức cần thiết để hiện đại
hoá các cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, thì cũ
ng khó có thể thu hút được nguồn
vốn FDI, cũng như vay vốn tín dụng để mở rộng sản xuất kinh doanh. Nhưng
nếu chỉ tìm kiếm nguồn vốn tín dụng khác thì chính phủ sẽ không có đủ thu
nhập để trả nợ cho các loại vốn ODA.
Bản chất
Trước những năm 70-80, ODA được coi là nguốn vốn viện trợ của các
nước phát triển cho các nước đang và kém phát triển, nó chủ
yếu là viện trợ
không hoàn lại (cho không) dưới hình thức viện trợ bằng hàng hoá là chủ yếu.
Ngày nay, ODA được hiểu là “Hỗ trợ phát triển chính thức”, là hình
thức hợp tác phát triển giữa các nước đã công nghiệp hoá, các tổ chức quốc tế
với các nước đang phát triển. Theo quan điểm này, phần nhỏ của ODA là viện
trợ không hoàn lại, còn chủ yếu là các khoản vốn vay với điều kiệ
n ưu đãi. Do
vậy, ODA là nguồn vốn có khả năng ”gây nợ”. Khi tiếp nhận và sử dụng
ODA, do tính chất ưu đãi của nó nên gánh nặng nợ nần thường không thấy
ngay. Một số nước do không sử dụng hiệu quả nên có thể tạo ra sự tăng
trưởng nhất thời, nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do không
có khả năng trả nợ. Sự phức tạ
p ở chỗ, ODA không có khả năng đầu tư trực
tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu, xong việc trả nợ lại dựa vào xuất
khẩu để thu ngoại tệ. Theo Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ thế giới
(IMF), xác định một quốc gia có khả năng trả nợ nước ngoài là khi nước này
có thể thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ nợ nước ngoài hi
ện tại và tương lai mà
6
không cần dựa vào việc giảm hoặc bố trí lại lịch trả nợ hoặc chồng chất thêm
nợ, mà không ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Nước đó cần phải đạt các
tiêu chí sau:
- Tỷ lệ giữa nợ hiện tại theo thời giá so với xuất khẩu trong khoảng
200-250% (Tỷ lệ nợ tồn đọng).
- Tỷ lệ giữa dịch vụ
trả nợ so với tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch
vụ trong khoảng 22-25% (Tỷ lệ thanh toán tiền mặt ).
Nhiều nước nghèo mắc nợ nhiều sẽ không có khả năng đạt tỷ lệ này
trong
tương lai. Theo số liệu năm 1999, trong số những nước nợ nhiều nhất
có: Braxin (179 tỷ USD); Mêxicô (157 tỷ); Trung Quốc (129 tỷ USD);
Indonêxia (129 tỷ USD); Achentina (94 tỷ USD); Thái Lan (91 tỷ USD).
Nhiều nước nghèo hơn còn có mức nợ nước ngoài lớn hơn GNP. Chẳng hạn,
trong năm 1996, Nigiêria có GNP 27,6 tỷUSD- Nợ 31,4 tỷ USD; Jordan 7,1
tỷ USD- Nợ 8,1 tỷ USD; Lào 1,9 tỷ USD-Nợ 2,3 tỷ USD; Mozambique 1,5 tỷ
USD-Nợ 5,8tỷ USD.
ODA phải được hiểu là các “khoản vay”, không có nghĩa là “cho
không”, do đó các n
ước tiếp nhận viện trợ cần phải cân nhắc kỹ lưỡng trước
khi lựa chọn mỗi khoản vay, đồng thời phải quản lý và sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn vay này, tạo lực hút để thu hút những nguồn vốn khác (FDI, tín
dụng thương mại quốc tế v.v...), là cơ sở, tiền đề cho quá trình xây dựng và
phát triển đất nước.
Phân loại
Theo tính chất
- Viện trợ không hoàn lại: Là các khoản cho không, không phải hoàn
trả.
- Viện trợ có hoàn lại: Các khoản cho vay ưu đãi (Vay tín dụng với
điều kiện “Mềm”, lãi suất thấp, thời hạn khoản vay thường từ 20-30 năm, thời
gian ân hạn dài).
- Viện trợ hỗn hợp: Gồm một phần cho không, phần còn lại thực hiện
7
dưới hình thức vay tín dụng (Có thể ưu đãi hoặc thương mại).
Theo mục đích
- Hỗ trợ cơ bản: Là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây
dựng cơ bản
- Hỗ trợ kỹ thuật: Là những nguồn vốn giành cho chuyển giao tri
thức,
công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hoặc nghiên cứu
đầu tư, phát triển thể chế và nguồn nhân lực.... loại viện trợ này chủ yếu là
viện trợ không hoàn lại.
Theo điều kiện
- ODA không ràng buộc: Việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng
buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng.
- ODA có ràng buộc.
+ Bởi nguồn sử dụng: Có nghĩa là việc mua sắm hàng hoá, trang thiết
bị
hay dị
ch vụ bằng nguồn ODA chỉ giới hạn trong một số công ty do nước tài
trợ sở hữu hoặc kiểm soát (Đối với viện trợ song phương, hoặc công ty của
các nước thành viên (Với viện trợ đa phương).
+ Bởi mục đích sử dụng: chỉ được sử dụng ở một số lĩnh vực nhất định
hoặc một số dự án cụ th
ể.
+ ODA có thể ràng buộc một phần: Một phần chi ở nước viện trợ, phần
còn lại chi ở bất cứ nơi nào.
Theo hình thức
- Hỗ trợ dự án là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án
cụ thể. Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không
hoặc cho vay ưu đãi.
- H
ỗ trợ phi dự án bao gồm các hình thức sau:
+ Hỗ trợ cán cân thanh toán: Thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp
8
(Chuyển giao tiền tệ), hoặc hỗ trợ hàng hoá, hoặc hỗ trợ nhập khẩu. Ngoại tệ
hoặc hàng hoá chuyển giao qua hình thức này có thể được sử dụng để hỗ trợ
ngân sách.
+ Hỗ trợ trả nợ
- Viện trợ chương trình: là khoản ODA giành cho một mục đích tổng
quát với thời gian nhất định mà không phải xác định một cách chính xác nó
được sử dụng như thế
nào.
1.1.2 Nguồn gốc lịch sử của ODA
ODA được hình thành sau đại chiến thế giới thứ II, các nước công
nghiệp phát triển đã có sự thoả thuận trợ giúp các nước thế giới thứ 3 dưới
dạng viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện ưu đãi. Ngày 14-2-
1960, tại Paris các nước đã ký thoả thuận thành lập tổ chức hợp tác kinh tế và
phát tri
ển (Organization for Economic and Development-OECD), tổ chức này
bao gồm 20 nước thành viên ban đầu đã đóng góp phần quan trọng nhất trong
việc cung cấp ODA song phương và đa phương. Trong khuôn khổ hợp tác
phát triển, các nước OECD đã lập ra các ủy ban chuyên môn, trong đó có Ủy
ban Hỗ trợ Hợp tác Phát triển (Development Assistance Committee-DAC),
nhằm giúp các nước đang phát triển phát triển kinh tế và nâng cao hiệu quả
đầu tư. Thành viên ban đầu của DAC gồm 18 nước. Thường kỳ các nước
thành viên của DAC thông báo cho
ủy ban các khoản đóng góp của họ cho
các chương trình viện trợ phát triển và trao đổi với nhau các vấn đề liên quan
đến chính sách viện trợ phát triển. Thành viên của DAC hiện nay gồm có: Áo,
Bỉ, Canada, Đan Mạch, Pháp, Đức, Ailen, Italia, Hà Lan, Nauy, Bồ Đào Nha,
Thụy Điển, Thụy Sĩ, Vương quốc Anh, Mỹ, Ôtrâylia, Niudilân, Nhật Bản,
Luxămbua, Tây Ban Nha và Liên minh Châu Âu-EC.
1.2 VÀI NÉT VỀ CỘNG ĐỒNG CÁC NHÀ TÀI TRỢ
1.2.1 Cộng đồng các nhà tài trợ
9
Nguồn cung cấp viện trợ song phương
- Các thành viên của DAC
Ngày 14-2-1960, tại Paris các nước đã thoả thuận thành lập tổ chức hợp
tác phát triển kinh tế-OECD, ban đầu gồm 20 viên thành viên. Trong khuôn
khổ hợp tác phát triển, các nước OECD đã lập ra các ủy ban chuyên môn
trong đó có DAC, ủy ban hỗ trợ hợp tác phát triển, ban đầu gồm 18 thành
viên, hiện nay là 21 thành viên. Thành viên hiện nay của DAC gồm có: Áo,
Bỉ, Canada, Đan Mạch, Pháp, Đức, Ailen, Italia, Hà Lan, Nauy, Bồ Đào Nha,
Th
ụy Điển, Thụy Sĩ, Vương quốc Anh, Mỹ, Ôtrâylia, Niudilân, Nhật Bản,
Luxămbua, Tây Ban Nha và Liên minh Châu Âu-EC. Trong tổng số ODA
viện trợ song phương, ODA từ các nước thành viên của DAC là lớn nhất.
Năm 1997, DAC cung cấp 48,324 tỷ USD bằng 0,22% GNP của các nước
này. Năm 2000 là 45,711 tỷ USD, bằng 0,205% GNP. Trong giai đoạn từ
1991-1997, tất cả các nhà tài trợ đều giảm ODA/GNP, riêng Mỹ là nước giảm
nhiều nhất. Viện trợ của nước này nă
m 1997 là 6878 tỷ USD, chiếm 0,09%
GNP (trong khi năm 1991 là 11709 tỷ USD-0,2%GNP). Thụy Điển và các
nước Bắc Âu vốn được coi là hào phóng cũng chỉ dành viện trợ 1% GNP của
mình.
Bảng 1
: Điều kiện cho vay của một số nhà tài trợ lớn
Đối tác Lãi suất
(%)
Thời hạn
(năm)
Ân hạn
(năm)
Hà Nội vay lại
(%)
Nhật Bản (OECF) 0,75 40 10 0,75-1
WB 0,75 30-40 5-10 6,5
ADB 1 15-20 5-7 6,5
Pháp (ADF) 1-2 15-20 4-6 3-5
Nguồn: Phòng viện trợ và vốn vay-Sở KHĐT Hà Nội
- Một số quốc gia khác
Đóng góp vào viện trợ song phương còn có một số quốc gia khác như:
Liên bang Nga, một số nước Đông Âu, Ả Rập, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn
Quốc, Singapore... Tuy nhiên, lượng viện trợ thông qua nguồn này là rất nhỏ.
Nguồn cung cấp viện trợ đa phương
10
Bên cạnh việc cung cấp ODA trực tiếp (đóng vai trò là các nhà tài trợ
song phương), các nước cung cấp ODA còn chuyển giao ODA cho các nước
đang phát triển thông qua các tổ chức viện trợ đa phương đó là:
- Các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc:
+ Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP)
+ Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNCEF)
+ Chương trình lương thực thế giới (WFP)
+ Quỹ dân số Liên hợp quốc (UNFPA)
+ Tổ chức Y tế thế giới (WHO)
+ Tổ chức nông nghiệp và lương thực (FAO)
Viện trợ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc thường được
thực hiện dưới hình thức viện trợ không hoàn lại, bằng nguồn vốn của Liên
hợp quốc. Ngân sách của Liên hợp quốc do các thành viên của Liên hợp quốc
đóng góp hàng năm. Mỹ là nước đóng góp nhiều nhất vào ngân sách c
ủa Liên
hợp quốc tuy nhiên hiện nay cũng là nước nợ những khoản phải đóng góp cho
Liên hợp quốc nhiều nhất.
- Quỹ tiền tệ quốc tế IMF: Được thành lập vào tháng 12 năm 1945
gồm 173 nước thành viên. Điều kiện cho vay của IMF khá khắt khe: Chính
phủ các nước đi vay phải cam kết không vi phạm điều lệ, phải thường xuyên
cung cấp các thông tin về tình hình tài chính tiền tệ của nướ
c mình, phải trả lệ
phí vay từ 0-5% giá trị khoản vay.
- Ngân hàng thế giới (WB): Ngân hàng thế giới gồm 5 tổ chức chính:
+ Ngân hàng tái thiết phát triển (International Bank for Reconstruction
and Development-IBRD). Lãi suất các khoản vay IBRD được điều chỉnh 6
tháng một lần, thời hạn trả nợ 15-20 năm, trong đó thời gian ân hạn là 5 năm.
+ Hiệp hội phát triển quốc tế (International Development Association-
IDA). Vay IDA không có lãi suất chỉ có phí dịch vụ 0,75%/năm, thời hạn vay
40 năm trong
đó có thời gian ân hạn 10 năm.
+ Công ty tài chính quốc tế (International Finance Corporation-IFC).
11
Vay IFC lãi suất vay tính theo lãi suất trên thị trường vốn quốc tế. Thời gian
vay từ 3-15 năm, thời gian ân hạn 5-8 năm.
+ Cơ quan bảo lãnh đầu tư đa phương (Multilateral Investment
Guarantee Agency-MIGA).
- Ngân hàng phát triển Châu Á (Asia Development Bank-ADB) gồm
55 nước thành viên.
+ Vay từ nguồn vốn phát triển Châu Á (ADF): Nguồn này dành cho
các nước có thu nhập dưới 851USD/người/năm, không lãi suất, thời gian hoàn
trả 40 năm, thời gian ân hạn 10 năm, phí phục vụ 1%/năm.
+ Vay vốn thường xuyên (OCR) dành cho các nướ
c có thu nhập trên
851USD/người/năm, thời hạn vay 15-20 năm, thời gian ân hạn khoảng 7 năm,
lãi suất 5-7%/năm.
+ Vay vốn hỗ trợ kỹ thuật (IASF) thường là viện trợ không hoàn lại
dưới hình thức hỗ trợ kỹ thuật.
+ Vay vốn Nhật Bản (JSF).
- Tổ chức dầu mỏ OPEC gồm 13 nước thành viên, nguồn vốn của tổ
chức này nhỏ, cung cấp các khoản viện trợ
không hoàn lại và các khoản viện
trợ ưu đãi cho các nước kém phát triển.
- Quỹ Cô Oét.
- Ngân hàng phát triển Châu Phi.
1.2.2 Mục đích của các nhà tài trợ
Trong quá trình viện trợ ODA cho những nước đang phát triển, các nhà
tài trợ cũng theo đuổi những mục tiêu riêng, mưu cầu những lợi ích riêng cho
mình.
Mục tiêu thứ nhất, các nước phát triển sử dụng ODA như một công cụ
chính trị xác định vị
trí ảnh hưởng của mình tại nước hoặc khu vực tiếp nhận
ODA. Một số nước, tiêu biểu là Mỹ đã dùng ODA làm công cụ thực hiện ý đồ
“Gây ảnh hưởng chính trị trong thời gian ngắn”. Các nước này một mặt dùng
viện trợ để bày tỏ sự gần gũi tiến đến thân thiết về mặt chính trị, mặt khác tiếp
12
cận với các quan chức cao cấp của các nước đang phát triển mở đường cho
hoạt động ngoại giao trong tương lai. Qua đó, họ “Lái” các nước này chấp
nhận một lập trường nào đó trong ngoại giao, đồng thời can thiệp vào sự phát
triển chính trị của nước đang phát triển. Viện trợ kinh tế cũng là thủ đoạn
chính trong việc tiến hành thâm nhập văn hoá, tư tưởng đối v
ới nước nhận
viện trợ.
Mục tiêu thứ hai, các nhà tài trợ sử dụng ODA để mưu cầu kinh tế. Bỉ
và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hóa dịch vụ của
mình, Canada yêu cầu cao nhất tới 65%; Thụy Sĩ 1,7%; Hà Lan 2,2%. Nhìn
chung 22% viện trợ của DAC phải được sử dụng để mua hàng hoá của các
quốc gia viện trợ. Bản thân các nước phát triển nhìn thấy lợi ích c
ủa mình
trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang phát triển để mở mang thị trường
tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Nhật Bản là một minh chứng đầy đủ
về việc sử dụng ODA như là một công cụ ngoại giao lợi hại. Nhật Bản là một
quốc gia nghèo về tài nguyên thiên nhiên, họ lựa chọn con đường phát triển
kinh tế bằng việc
đẩy mạnh xuất khẩu. Do vậy, Nhật Bản rất cần mở rộng thị
trường ra nước ngoài để thúc đẩy sản xuất trong nước. Các nước Châu Á, đặc
biệt là khu vực Đông Nam Á đã thực sự hấp dẫn Nhật Bản về thị trường tiêu
thụ hàng hoá sản phẩm và thị trường đầu tư. Khu vực này có vị trí địa lý
thuận lợi, nguồn lao động dồ
i dào và rẻ mạt, tài nguyên thiên nhiên phong
phú, không quá xa Nhật Bản, về văn hoá có nhiều nét tương đồng. Thông qua
bồi thường chiến tranh, Nhật Bản đã bình thường hoá quan hệ ngoại giao với
các nước Đông Nam Á. Thời kỳ này, viện trợ của Nhật Bản chủ yếu là hàng
hóa, đây là cách tốt nhất để giới thiệu hàng hoá, dịch vụ của Nhật ra nước
ngoài. Từng bước Nhật Bản đã biến Đ
ông Nam Á thành thị trường tiêu thụ
sản phẩm hết sức an toàn cho mình. Đồng thời thông qua ODA và các điều
kiện ràng buộc, các công ty của Nhật có được những hợp đồng béo bở, có
được những cơ hội đầu tư ưu đãi. Trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
năm 1997, Nhật Bản đã có một quyết định quan trọng trong việc trợ giúp các
13
nước Đông Nam Á, là nơi chiếm tỷ lệ tương đối về mậu dịch và đầu tư của
Nhật. Nhật Bản đã nhận gánh vác một phần cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á
bằng kế hoạch trợ giúp do Bộ trưởng tài chính Nhật Kiichi Miyazawa đề xuất
vào tháng 10 năm 1998. Theo đó, Nhật Bản sẽ dành 15 tỷ USD tiền mặt cho
các nhu cầu vốn ngắn hạn, chủ yếu là lãi su
ất thấp và tính bằng đồng Yên và
dành 15 tỷ USD cho mậu dịch và đầu tư có nhân nhượng trong vòng 3 năm.
Tính đến đầu năm 1999, những nước được Nhật công bố dành cho sự trợ giúp
này gồm có: Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Philipin và Hàn Quốc. Các khoản
viện trợ nói trên được thực hiện vì lợi ích của hai bên, cứu nền kinh tế khu
vực để làm sống lại nền kinh tế Nhật Bản. Các khoản vay này được tính bằng
đồng Yên và gắn vớ
i các dự án do Công ty Nhật tham gia.
Như vậy viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là sự trợ
giúp hữu nghị, mà còn là một công cụ lợi hại để kiếm lời cả về kinh tế và tài
chính cho nước tài trợ. Những nước cấp viện trợ gò ép các nước nhận phải
thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của bên viện trợ. Khi
nhận viện trợ các nướ
c cần cân nhắc kỹ lưỡng các điều kiện của các nhà tài
trợ. Không vì lợi ích trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ
hỗ trợ phát triển chính thức phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của
nhau, bình đẳng cùng có lợi, chung sống hoà bình.
1.2.3 Sự phân bố ODA trên thế giới
Sự phân phối ODA trên thế giới diễn ra không đồng đều giữa các quốc
gia, giữa các châu l
ục. Kể từ năm 1970, ODA chủ yếu hướng vào tiểu vùng
Shahara, riêng Nhật Bản lại ưu tiên cho Châu Á.
- Phân phối ODA theo nhóm nước: Do ODA chủ yếu mang tính chất
hỗ trợ phát triển nên phần lớn ODA tập trung cho những nhóm nước có thu
nhập thấp và những nhóm nước chậm phát triển. Viện trợ từ các nước DAC
tập trung vào những nước có thu nhập thấp (Latest Income Countries-LIC
s
),
các nước chậm phát triển nhất (Latest Development Countries-LDC
s
) cũng
được viện trợ ngày càng tăng kể từ những năm 1970. Nhật Bản, Anh, Thụy Sĩ
14
và các nước Bắc Âu tập trung viện trợ các nước LIC
s
, trong đó các nước Bắc
Âu tập trung vào các nước LDC
s
.
- Phân phối ODA theo lĩnh vực của DAC:
+ Giáo dục, y tế: 16,8%
+ Cung cấp nước và vệ sinh: 6,6%
+ Vận tải, thông tin, năng lượng: 24,5%
+ Nông nghiệp: 9,5%
+ Giảm nợ: 5,7%
+ Cứu trợ khẩn cấp: 5,1%
+ Hỗ trợ chương trình: 4,7%
+ Còn lại là các lĩnh vực khác
1.2.4 Những ưu đãi của ODA
So với hình thức vay vốn và tài trợ khác, ODA mang nhiều tính ưu đãi
hơn. Các khoản vốn ODA thường có thời gian vay (th
ời gian hoàn trả) dài,
thường từ 20-30 năm trở lên, có thời gian ân hạn dài (thời gian chỉ phải trả lãi
vay chưa phải trả nợ gốc). Thông thường ODA có một phần viện trợ không
hoàn lại (tức là cho không), đây chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho
vay thương mại. Yếu tố cho vay được xác định dựa vào thời gian cho vay,
thời gian ân hạn và so sánh giữa mức lãi suất viện trợ và mức lãi suất tín d
ụng
thương mại trong tập quán quốc tế. Đối với ODA ưu đãi yếu tố không hoàn
lại ít nhất đạt 25% giá trị khoản vay. Nguồn vốn vay của các tổ chức WB,
ADB chỉ có phí phục vụ, thời hạn cho vay dài bao gồm cả thòi kỳ ân hạn, cụ
thể:
Vay IDA không lãi suất, phí phục vụ 0,75%/năm, thời hạn vay 40 năm
bao gồm cả thời kỳ ân hạn 10 năm; Vay ADF không lãi suất, phí phụ
c vụ 1%
thời hạn vay 40 năm bao gồm cả thời kỳ ân hạn 10 năm; Vay của các chính
phủ tuỳ thuộc vào loại đồng tiền cho vay khác nhau thì có mức lãi suất khác
nhau, thời gian vay từ 20-30 năm trong đó thời kỳ ân hạn 5-10 năm.
Tính ưu đãi của ODA còn được thể hiện ở chỗ nó chỉ dành riêng cho
15
các quốc gia đang và chậm phát triển và vì mục tiêu phát triển. Thông thường
mỗi nước cung cấp ODA đều có những chính sách riêng tập trung vào những
lĩnh vực họ quan tâm hoặc có khả năng (công nghệ, kinh nghiệm quản lý...).
Đồng thời mục tiêu ưu tiên của các nước cũng thay đổi theo từng giai đoạn.
Vì vậy, việc nắm được hướng ưu tiên của các nước, các tổ chức là hết sức cần
thiết
đối với những nước tiếp nhận viện trợ.
1.3 VAI TRÒ CỦA ODA TRONG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ
TẦNG
1.3.1 Đặc điểm của đầu tư cho cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật là một bộ phận cơ bản của kết cấu hạ tầng kinh
tế xã hội có vai trò quan trọ
ng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của một
vùng, một quốc gia. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm các bộ phận chủ yếu sau:
- Hệ thống giao thông
- Hệ thống cấp nước sạch
- Hệ thống thoát nước
- Công viên, cây xanh
- Vệ sinh, môi trường
- Hệ thống chiếu sáng công cộng
- Hệ thống bưu chính vi
ễn thông
Đầu tư cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng kỹ thuật có một số đặc điểm chủ
yếu sau:
-
Các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật đòi hỏi một khối lượng
vốn, vật tư, lao động lớn. Do đó, các giai đoạn của quá trình đầu tư, đặc biệt
là giai đoạn chuẩn bị đầu tư phải được tiến hành nghiêm túc, tỷ mỷ đảm bảo
tính chính xác và khoa học. Khi xây dựng các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng
cần nghiên cứu, đánh giá các nguồn vốn huy động (vốn ngân sách, vốn tư
nhân, vốn nước ngoài...) về: khả
năng huy động, lãi suất, điều kiện vay vốn,
thời hạn vay, tiến độ giải ngân, phương thức hoàn trả... để tìm ra nguồn vốn
phù hợp. Đồng thời, dự tính các nguồn cung cấp vật tư (trong nước, quốc tế,
16
đơn vị cung cấp, giá cả...), và dự tính các nguồn lao động sử dụng (lao động
địa phương, chuyên gia trong nước, chuyên gia quốc tế...). Trong giai đoạn
thực hiện dự án phải đảm bảo triển khai đúng tiến độ, rút ngắn thời gian thi
công, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, lao động, vật tư. Bên cạnh đó, phải xem
xét khía cạnh hậu dự án: lao động hậu dự án, vật tư, thiết b
ị hậu dự án... Một
số dự án lớn (thuộc lĩnh vực giao thông, cấp, thoát nước...) thu hút hàng ngàn
lao động và vô số máy móc, thiết bị. Sau khi các dự án này hoàn thành cần có
kế hoạch giải quyết việc làm cho số lao động dôi dư và huy động máy móc,
thiết bị sử dụng cho các công trình, dự án khác.
- Thời gian thực hiện các dự án kết cấu hạ tầng kỹ thuật thường kéo
dài.Vì vậy, khâu chuẩn bị dự án phải tốt mới đảm bảo triển khai dự án được
thuận lợi. Phải lập kế hoạch đầu tư theo thời gian và đảm bảo hoàn thành dự
án ở từng khâu, hạng mục đúng tiến độ. Quá trình đầu tư kéo dài, do đó phải
phân k
ỳ đầu tư chia thành nhiều giai đoạn, hạng mục. Công trình, hạng mục
nào hoàn thành sẽ đưa ngay vào sử dụng phát huy hiệu quả, tạo tiền đề cho
công trình, hạng mục tiếp theo triển khai thực hiện.
- Các dự án kết cấu hạ tầng kỹ thuật chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
bất định: lạm phát, trượt giá, biến động về tỷ giá... Cần phân tích độ nhạy cảm
của dự án, lựa chọn phương án có tính khả thi cao, hiệu quả ngay cả khi xảy
ra biến động. Đồng thời, dự tính trước các biến động (về quy mô, mức độ...)
để có kế hoạch đối phó, giải quyết kịp thời.
- Tính chất kỹ thuật của các dự án thường rất phức tạp. Ngay từ khi
lập dự án, phân tích kỹ thuật cần được nghiên cứu với sự trợ giúp, từ vấn của
các chuyên gia kỹ thuật chuyên sâu (trong nước và quốc tế) về từng khía cạnh
của dự án. Quyết định đúng đắn trong phân tích kỹ thuật s
ẽ loại bỏ các dự án
không khả thi, giảm chi phí, tổn thất, giảm ô nhiễm và kéo dài tuổi thọ công
trình.
- Các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật thường có tuổi thọ kéo dài
5-
17
10 năm, thậm chí hàng trăm năm. Vì vậy, quá trình vận hành cần phải kết hợp
với bảo trì, bảo dưỡng nhằm nâng cao chất lượng phục vụ và tuổi thọ của
công trình.
- Vị trí của các công trình cố định, gắn liền với các điều kiện về địa
hình, địa chất, khí hậu và các điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội. Do đó,
ch
ọn địa điểm triển khai dự án có quyết định không nhỏ tới sự thành công của
dự án và có tác động lớn đến văn hoá, kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng
của địa phương nơi có dự án triển khai thực hiện.
- Các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật có hiệu quả kinh tế-xã hội
lớn, tuy nhiên hiệu quả tài chính trực tiếp thường khó
đánh giá, khó xác định,
khả năng thu hồi vốn thấp.
Nghiên cứu những đặc điểm nói trên của đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ
thuật cho phép chúng ta có những biện pháp quản lý tối ưu và lựa chọn các
nguồn vốn đầu tư phù hợp.
1.3.2 Vai trò của đầu tư cho cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Cơ sở hạ tầng k
ỹ thuật không trực tiếp tham gia vào quá trình sản
xuất tạo ra của cải vật chất, nhưng có vai trò hết sức quan trọng thúc đẩy sản
xuất phát triển, là cơ sở nền tảng nâng cao chất lượng cuộc sống con người.
Đầu tư cho cơ sở hạ tầng đô thị có những vai trò cơ bản sau:
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Theo thống kê của WB, cứ 1% đầu tư
cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở
các nước đang phát triển sẽ tạo ra 1% tốc độ tăng trưởng của GNP. Mối quan
hệ này thể hiện qua chỉ số ICOR
Vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật
ICOR =
Mức tăng GNP
Mối quan hệ giữa đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật và tăng trưởng,
phát triển kinh tế còn được thể hiện qua mô hình dưới đây:
18
P
AS
Y
AD
1
AD
2
Tăng đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật kéo theo tăng nhu cầu lao
động, vật tư... làm tăng cầu đầu tư (D1) dẫn đến làm dịch chuyển đường tổng
cầu từ AD
1
-AD
2
, sản lượng tăng từ Y
1
-Y
2
, mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt
được.
Mặt khác, khi thành quả của công cuộc đầu tư phát huy tác dụng, các
công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật được đưa vào phục vụ đời sống nhân dân,
nó sẽ tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành khác
phát triển, từ đó làm tăng giá trị sản xuất (GO) của các ngành, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
Tạo ra sự chuyển dịch kinh tế
Đầu tư, đặc biệt là đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật được chính phủ
các nước sử dụng như một công cụ điều chỉnh tốc độ tăng trưởng như mong
muốn và điều chỉnh cơ cấu kinh tế. Ở các nước đang phát triển, tăng cường
đầu tư cho kế
t cấu hạ tầng kỹ thuật một mặt tạo ra sự tăng trưởng nhanh ở khu
vực công nghiệp và dịch vụ, mặt khác sẽ thúc đẩy (hoặc hạn chế) sự phát triển
của một số ngành, kết quả là sẽ kéo theo sự chuyển dịch kinh tế. Thực tế, ở
Việt Nam trong thời gian qua là một ví dụ, việc tăng cường đầu tư cho kết cấu
h
ạ tầng kỹ thuật ở các khu công nghiệp (Bình Dương, Sóng Thần...), các vùng
kinh tế trọng điểm (Hà Nội, Hải Phòng, TP HCM...) đã tạo tiền đề thúc đẩy sự
phát triển mạnh mẽ trong các lĩnh vực công nghiệp-du lịch-dịch vụ ở các
19
vùng đó nói riêng và cả nước nói chung (giá trị sản xuất công nghiệp ở Hà
Nội năm 2001 tăng 10,6%; TP HCM tăng 14,5%...). Bên cạnh đó, việc phát
triển công nghiệp, du lịch, dịch vụ, xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng
làm giảm quỹ đất nông nghiệp, giảm diện tích vùng nguyên liệu của một số
ngành công nghiệp chế biến (mía đường, dầu thực vật...), kết quả làm giảm
tương đối sự
phát triển của các ngành này, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp-du lịch-dịch vụ ở Việt Nam trong thời gian vừa
qua.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật cũng có tác
dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ (giữa
nông thôn và thành thị, giữa đồng bằng và miền núi), góp phầ
n xóa đói, giảm
nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân (thông qua các chương trình
xoá đói giảm nghèo, chương trình nước sạch nông thôn...) thúc đẩy phát triển
kinh tế vùng.
Góp phần duy trì sự phát triển bền vững
Phát triển bền vững được hiểu là sự phát triển trong đó những quyền lợi
cơ bản của con người được bảo đảm. Sự phát triển phải thoả mãn những yếu
tố sau: Sự
xoá bỏ nghèo đói và bóc lột, sự giữ gìn và tăng cường các nguồn
tài nguyên, sự tăng trưởng cả về kinh tế lẫn văn hoá xã hội và sự thống nhất
giữa môi trường sinh thái và kinh tế trong hoạch định chính sách. Đầu tư cho
kết cấu hạ tầng tạo ra sự tăng trưởng bền vững được thể hiện dưới các góc độ
sau:
- Điều tiết tốc độ t
ăng trưởng giữa các vùng, giảm sự mất cân đối.
- Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập.
- Tạo động lực cho các ngành khác phát triển.
- Xoá đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân.
- Giảm ô nhiễm môi trường , giảm tình trạng quá tải cho hệ thống cơ
20
sở hạ tầng hiện có ở các vùng, miền tập trung đông dân cư, những khu đô thị
lớn, nâng cấp và tạo mới những cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại, thúc đẩy quá
trình đô thị hoá.
1.4 BÀI HỌC SỬ DỤNG ODA TRONG PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG KỸ
THUẬT CỦA CÁC NƯỚC
1.4.1 Bài học thành công
Các nước như Bostwana, Chi lê, Hàn Quốc, Malaysia, Srilanka... đã sử
dụ
ng có hiệu quả nguồn vốn vay và tài trợ nước ngoài, tạo thế và lực, đẩy
nhanh quá trình phát triển kinh tế. Sự thành công trên bắt nguồn từ những
nguyên nhân sau:
- Có chiến lược, chính sách thu hút vốn ODA rõ ràng. Có sự tổ chức,
điều phối nhịp nhàng giữa các cơ quan thực hiện, đẩy nhanh tốc độ giải ngân
vốn ODA và sử dụng có hiệu quả.
- Có sự cân nhắc kỹ lưỡng từng nguồ
n vốn vay và tài trợ: về điều kiện
vay, thủ tục, qui mô... để lựa chọn ra nguồn vốn tài trợ tối ưu phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
- Có sự điều phối, huy động các nguồn vốn đối ứng để đẩy nhanh tốc
độ giải ngân.
- Có chiến lược đào tạo, hình thành độ
i ngũ cán bộ kỹ thuật có trình
độ năng lực tham gia trực tiếp vào dự án
- Có sự thẩm định, chọn lọc dự án kỹ lưỡng, kết hợp với việc giám sát
thực hiện dự án nghiêm túc.
- Có khả năng quản lý nợ nước ngoài, đồng thời có chiến lược, kế
hoạch vận động, kêu gọi tài trợ vốn ODA cho từng chương trình, dự án, mục
tiêu cụ
thể.
1.4.2 Bài học thất bại
Một số quốc gia không thành công trong công tác huy động, sử dụng
nguồn vốn vay và tài trợ quốc tế đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật, phải kể
đến là các quốc gia khu vực nam Sahara (SSA): Ghana, Senegal, Tazania...
21
Trong những thập niên 70-90, các quốc gia khu vực này nhận được một
khối lượng lớn vốn ODA từ cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế. Tuy nhiên, do
quản lý và sử dụng không hiệu quả, tốc độ tăng trưởng của các quốc gia khu
vực này dường như lại ngược với tỷ lệ tăng về số lượng của các nguồn vốn
vay và tài trợ. Những khoản vốn ODA “chồng ch
ất” trở thành gánh nặng “nợ
nần” đối với các quốc gia này.
Vốn ODA cho các nước này một phần để hỗ trợ ngân sách, phát triển
xã hội, còn phần lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho đất nước. Những
nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự thất bại:
- Chính phủ các nước không cân nhắc kỹ lưỡng các điều kiện và thủ
tụ
c các nước cấp đưa ra để lựa chọn ra nguồn tài trợ tối ưu, mà chỉ quan tâm
đến thu hút tối đa nguồn vốn này, do đó nhiều khoản ODA không phát huy
được hiệu quả bởi các chi phí phát sinh (Phải mua hàng của nước cấp, các dự
án phải giao cho công ty của nước cấp thực hiện...).
- Do cơ cấu tổ chức quản lý vốn ODA yếu kém: Chính phủ Tazania
chưa bao giờ hình thành một chiến lược rõ ràng để
huy động và quản lý
nguồn vốn nước ngoài. Các chiến lược phát triển của Tazania đều tối đa hoá
nguồn ODA nhưng hoàn toàn không có tiêu chí để sử dụng có hiệu quả nguồn
vốn này.
- Còn sự thất bại trong các dự án cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Ghana là
thiếu sự điều phối giữa các cơ quan thực hiện. Bên cạnh đó, sự điều phố
i của
nhà tài trợ là quan trọng để hỗ trợ cho công tác điều phối của chính phủ, nhằm
sử dụng các nguồn nội lực một cách có hiệu quả.
- Sự thiếu năng lực trong quá trình sử dụng vốn ODA: Các chương
trình, dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật không phát huy được hiệu
quả do thiếu các nguồn lực về tổ chứ
c và nguồn lực trong nước, cụ thể là
chính phủ không thành công trong việc cung cấp vốn đối ứng và nhân sự. Sự
thiếu chuyên môn thẩm định dự án ODA tại các đơn vị thực hiện là một trong
những nguyên nhân dẫn đến sự chậm trễ trong vấn đề giải ngân vốn.
22
- Sự thất bại của các nước SSA (South of Shahara Africa) là do quá phụ
thuộc vào nguồn vốn vay nước ngoài, không có chiến lược phát triển phù hợp
với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của đất nước và chính sách thích hợp với từng
giai đoạn, trên cơ sở phát huy nội lực và tạo vốn từ bên trong, sử dụng có hiệu
quả nguồn vốn ODA tài trợ.
23
CHƯƠNG 2- THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VỐN ODA CHO PHÁT
TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1 TỔNG QUAN VỀ ODA Ở VIỆT NAM
Từ năm 1990 trở về trước, nguồn viện trợ ODA chủ yếu từ Liên Xô
(cũ) và các nước Đông Âu. Phần lớn viện trợ không hoàn lại dưới dạng viện
trợ hàng hoá hoặc hỗ trợ kỹ thuật. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông
Âu năm 1991 cũng chấm dứt dòng viện trợ này. Từ năm 1991-1993, hoạt
động ODA ở Việt Nam “trầm lắng”, gầ
n như không đáng kể. Sự khơi thông
lại dòng viện trợ giữa Việt Nam và quốc tế được đánh dấu vào ngày 9 tháng
11 năm 1993-Hội nghị quốc tế các nhà tài trợ dành cho Việt Nam đã khai mạc
tại Pari (Pháp). Tham gia hội nghị này gồm 22 quốc gia và 17 tổ chức quốc tế.
Thông qua hội nghị, Việt Nam đã dành được sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng
đồng quốc tế trên quan
điểm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước”.
Đồng thời, các nhà tài trợ cam kết dành 1,86 tỷ USD ODA cho Việt Nam và
thiết lập diễn đàn hội thoại thường niên giữa Việt Nam và cộng đồng tài trợ
quốc tế thông qua hội nghị nhóm tư vấn (Consultant Group-CG) do WB chủ
trì, có sự tham khảo ý kiến chính phủ Việt Nam và chương trình phát triển
Liên hợp quốc UNDP.
Từ năm 1993 đến nay, trung bình ODA mà nhà tài trợ hứa cung c
ấp
mỗi năm 2,2 tỷ USD và tổng cộng tới nay là 17,5 tỷ USD, mức giải ngân 8 tỷ
USD.
2.1.1 ODA phân bổ theo ngành
Vốn ODA giải ngân trong năm 2000 được phân bổ theo cơ cấu ngành
thể hiện ở Bảng 2.
Vốn ODA có sự phân bổ không đồng đều giữa các ngành, phân ngành.
Trong các ngành, cơ sở hạ tầng thu hút được nhiều vốn ODA nhất 741 triệu
USD, chiếm 56% tổng vốn ODA. Trong đó, ngành năng lượng đã chiếm hơ
n
vốn đầu tư cho các công trình hạ tầng lớn, năm 2000 đạt 403 triệu USD,
24
chiếm 31% tổng nguồn vốn ODA. Lĩnh vực phát triển con người, phát triển
nông thôn cũng được sự quan tâm chú ý của các nhà tài trợ quốc tế, đứng ở vị
trí thứ 2, 3 lần lượt với mức vốn ODA là 207 triệu USD và 185 triệu USD.
Nhìn chung, vốn ODA phân bổ theo ngành là phù hợp với những dự kiến lớn
của chính phủ đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm (2001-
2010), cũng như chiến lượ
c cho các ngành trong những thập kỷ tới.
Bảng 2
: Vốn ODA giải ngân phân bổ theo ngành trong năm 2000 ở
Việt Nam
Ngành Vốn ODA
(trUSD)
Tỷ lệ
(%)
1. Cơ sở hạ tầng
- Năng lượng
- Giao thông vận tải
- Nước sạch và vệ sinh môi trường
- Phát triển đô thị
741
401
244
70
19
56
31
19
5
1
2. Phát triển con người
- Y tế
- Giáo dục đào tạo
- Phát triển xã hội
207
107
85
15
16
8
7
1
3. Phát triển nông thôn
- Phát triển vùnglãnh thổ
- Nông nghiệp
185
101
84
14
8
6
4. Hỗ trợ chính sách và thể chế 78 6
5. Quản lý tài nguyên thiên nhiên và phát triển
công nghiệp
76 5
6. Cứu trợ khẩn cấp 24 2
7. Hỗ trợ giải ngân nhanh (SAC/PRGF) 14 1
Tổng 1.325 100
Nguồn: Báo cáo điều tra ODA của UNDP
2.1.2 ODA phân bổ theo loại hình
- Hỗ trợ dự án đầu tư: 71%
- Hỗ trợ kỹ thuật độc lập: 21%
- Hỗ trợ cán cân thanh toán: 6%
- Hỗ trợ kỹ thuật gắn với đầu tư:1%
- Viện trợ lương thực và cứu trợ khẩn cấp: 1%
25
(Nguồn: Báo cáo điều tra ODA của UNDP)
2.1.3 ODA phân bổ theo đối tác tài trợ
Mười nhà tài trợ lớn nhất trong năm 2000 chiếm hơn 90% ODA giải
ngân được thể hiện trong Bảng 3.
Bảng 3
: Mười nhà tài trợ ODA lớn nhất trong năm 2000
Nhà tài trợ Vốn ODA (trUSD) Tỷ lệ (%)
Nhật Bản 531 44
ADB 199 17
WB 158 13
Pháp 71 6
Liên hợp quốc 52 4
Đức 51 4
Ôtrâylia 48 4
Thụy Điển 47 4
Đan Mạch 37 3
Liên minh Châu Âu (EU) 16 1
Tổng 1.210 100
Nguồn: Báo cáo điều tra ODA của UNDP
Nhật Bản đã củng cố vị trí là nhà tài trợ lớn nhất, với mức giải ngân
trong năm 2002 đạt 531 triệu USD. Đầu tư của Nhật Bản tập trung vào một số
ngành như: năng lượng, giao thông vận tải (xây dựng đường quốc lộ, khôi
phục cầu), xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn và y tế.
ADB có mức giải ngân lớn th
ứ hai (gần 200 triệu USD), chủ yếu thuộc
các lĩnh vực giao thông vận tải, năng lượng, hỗ trợ cho lĩnh vực thể chế, chính
sách.
Sau khi đạt đỉnh cao năm 1998 (258 triệu USD), mức giải ngân của
WB giảm dần, trong năm 2000 158 triệu USD, chiếm 13% tổng vốn ODA cả
nước. Tài trợ của WB phần lớn tập trung cho ngành năng lượng, giao thông
vận tải, các chương trình cấp nước, vệ sinh môi trườ
ng.
Giải ngân của các tổ chức Liên hợp quốc ổn định trong giai đoạn 1998-
2000 ở mức 52-53 triệu USD, thông qua thực hiện các chương trình, dự án