Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bai thu hoach mon van hoa va phat trien quan điểm của đảng về vai trò của văn hóa đối với phát triển kinh tế xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.62 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do lao động của người
sáng tạo ra, được cộng đồng khẳng định tích lũy lại, tạo ra bản sắc riêng của
từng tộc người, từng xã hội. Trong Nghị quyết Trung ương 5 ( Khóa VIII),
Đảng ta khẳng định: Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và
tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng
nước và giữ nước…, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền
văn minh thế giới để không ngừng hồn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã
hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ
vang của dân tộc.
Thực tiễn đã chỉ ra, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc chỉ có thể
trở nên năng động, hiệu quả, bền vững chừng nào quốc gia đó đạt được sự kết
hợp hài hịa giữa kinh tế với văn hóa trong tiến trình phát triển.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cùng với quá trình đặt trọng tâm vào
đổi mới về kinh tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định đường lối xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Quan điểm này đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận của Đảng, đồng
thời cũng là kết quả tổng kết thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa Việt
Nam trong suốt q trình lãnh đạo của Đảng.
Chính bởi vai trị đặc biệt quan trọng của văn hóa đối với phát triển
kính tế - xã hội nêu trên, học viên đã lựa chọn chuyên đề: “Quan điểm của
Đảng về vai trị của văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội”.


1

NỘI DUNG
1 Khái niệm văn hóa
Khái niệm văn hóa thường được tiếp cận ở hai cấp độ lý luận và thực
tiễn. Ở cấp độ lý luận, văn hóa là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần


do loài người (cá nhân và cộng đồng) sáng tạo ra để phục vụ sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Bản chất của văn hóa là sự sáng tạo, vươn tới cái Chân Thiện - Mỹ, vươn tới các giá trị nhân văn đem lại hạnh phúc cho con người.
Văn hóa là “thiên nhiên” thứ hai do con người tạo ra để phục vụ con người. Ở
cấp độ thực tiễn, văn hóa thể hiện trong toàn bộ hoạt động sống của con
người, từ hoạt động sản xuất vật chất đến hoạt động tinh thần, phản ánh kiểu
lựa chọn sáng tạo của cá nhân và cộng đồng.
Như vậy, văn hóa vừa là sản phẩm sáng tạo của con người, vừa là môi
trường nhân tạo để nuôi dưỡng đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Cùng với thiên nhiên thứ nhất do tạo hóa tạo nên, văn hóa trở thành mơi
trường sống của con người, văn hóa được nhìn nhận là động lực của sự tiến
bộ xã hội. Cần phải khắc phục nhận thức phiến diện về văn hóa, đồng nhất
văn hóa với một vài hoạt động thuộc lĩnh vực tinh thần và xem nhẹ vai trị,
chức năng xã hội của nó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” 3. Người đã khẳng định:
“Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến và
phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, phương hướng xây dựng và phát
triển văn hoá đã được Đảng ta xác định là: “phát huy chủ nghĩa yêu nước và
truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam


2

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thụ tinh hoa văn hóa nhân loại, làm
cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng

người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào
mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống
tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”.
2 Quan điểm chỉ đạo của Đảng về vai trò của văn hóa đối với phát
triển kinh tế - xã hội
Ngày nay, khơng ai có thể phủ nhận vai trị quan trọng của văn hóa với
tư cách là nhân tố trực tiếp tham gia vào quá trình phát triển kinh tế. Lịch sử
phát triển của loài người cho thấy, ở bất kỳ thời kỳ nào, với bất kỳ quốc gia
nào, con người cũng đều đóng vai trị quyết định với q trình sản xuất, mà
trước hết, họ là một thực thể văn hóa. Tố chất con người (tinh thần u nước,
trình độ khoa học  công nghệ, tinh thần tổ chức xã hội, tính nhân văn...) có ý
nghĩa quyết định làm nên sức mạnh của văn hóa ở mỗi quốc gia - dân tộc. Và
do đó ở thời kỳ hiện đại, nói đến tiềm năng phát triển của mỗi quốc gia, người
ta không chỉ nói tới tài nguyên thiên nhiên, mà phải nói tới yếu tố quyết định
là văn hóa, được thể hiện qua năng lực sáng tạo, trí tuệ, tài năng, đạo đức của
con người ở quốc gia đó...
Với chức năng định hướng, đào tạo con người theo các giá trị chân thiện - mỹ, văn hóa có khả năng xây dựng, làm hình thành trong phẩm chất
của mọi thành viên xã hội ý thức phát huy các tiềm năng về thể lực, trí lực và
nhân cách để đóng góp vào sự nghiệp phát triển của dân tộc,... Cho nên không
ngẫu nhiên, UNESCO khẳng định rằng, nước nào tự đặt cho mình mục tiêu
phát triển kinh tế mà tách rời khỏi môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra
mất cân đối nghiêm trọng cả về kinh tế lẫn văn hóa, và tiềm năng sáng tạo của
những dân tộc ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều.


3

Chúng ta xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội

chủ nghĩa, và điều Ðảng ta khẳng định: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đã
chỉ rõ vai trò cực kỳ quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển của đất
nước. Vì vậy, cần nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trị của văn hóa trong sự
nghiệp đổi mới.
Dù chứa đựng một số giá trị mang tính nhân loại phổ biến, thì khi nói
đến văn hóa của mỗi dân tộc, là nói tới đặc trưng riêng, tới hệ thống giá trị
văn hóa riêng của dân tộc đó. Ðây là di sản quý báu, đã được tích lũy, trao
truyền và bổ sung qua nhiều thế hệ, và chính các đặc điểm riêng trong sự sinh
tồn của dân tộc đã làm cho văn hóa mang bản sắc riêng. Ðồng thời với q
trình tích lũy, trao truyền và bổ sung ấy, văn hóa của dân tộc cịn tiếp nhận
một số tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác thơng qua q trình tiếp biến
văn hóa, và động thái này đã làm cho văn hóa vừa đậm đà bản sắc dân tộc,
vừa có tính thời đại, tính nhân loại, phù hợp với sự phát triển kinh tế. Ðiều đó
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong thời kỳ cách mạng khoa học và công
nghệ, trước xu thế tồn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ. Do vậy, sự phát triển đòi
hỏi phải nâng cao vai trò, vị thế của văn hóa trong hoạt động kinh tế, văn hóa
khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, quyết định sự tăng trưởng và
phát triển bền vững. Và cũng do vậy, trong xã hội hiện đại, con người phải
được xã hội tạo điều kiện và phải tự mình xây dựng yếu tố nền tảng của văn
hóa là sự hiểu biết, là tri thức, kinh nghiệm, là phong cách ứng xử, là nhận
thức về cống hiến và hưởng thụ,... trong quá trình học tập, lao động để duy trì,
phát triển cuộc sống. Các yếu tố này, nếu được khai thác, phát huy sẽ trở
thành một động lực to lớn đối với sự phát triển kinh tế.
Cùng với quan điểm khách quan, khoa học trong việc tiếp thu tinh hoa
tốt đẹp của văn hóa nhân loại, Ðảng ta khẳng định, bản sắc văn hóa, tinh thần
dân tộc là nguồn tài nguyên của dân tộc, của đất nước. Có thể nói rằng, trong
lịch sử hàng chục thế kỷ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta, nguồn lực



4

quan trọng nhất trong truyền thống văn hóa là tinh thần yêu nước, chủ nghĩa
yêu nước. Từ khi ra đời, Ðảng ta đã động viên, bồi dưỡng và cổ vũ toàn dân
phát huy cao độ tinh thần yêu nước để giành lại, giữ vững độc lập dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực tế cho thấy, những thành tựu to lớn mà toàn
Ðảng, toàn dân, toàn quân ta đã đạt được trong hơn nửa thế kỷ qua có vai trị
của bản lĩnh, của bản sắc văn hóa Việt Nam, của sức mạnh của văn hóa Việt
Nam.
2.1 Đường lối của Đảng về văn hóa trong thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước
Xây dựng và phát triển văn hóa khơng phải là một vấn đề riêng, nó liên
quan mật thiết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Mục tiêu của sự nghiệp đổi mới là phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh, trong đó phải giải quyết hài
hoà giữa sự phát triển kinh tế và văn hóa, bảo đảm cho đất nước phát triển bền
vững và lâu dài. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh tới vai trò của
việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa này
vừa phải là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động kinh tế phải đặt con
người ở vị trí trung tâm của sự phát triển, vừa phải chú ý đến hiệu quả kinh tế,
vừa phải chú ý đến hiệu quả xã hội và văn hóa. Đồng thời, phải chú trọng khai
thác văn hóa như một nguồn lực đặc biệt để phát triển kinh tế - xã hội, nhất là
phát triển các ngành cơng nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa và du lịch văn
hóa… Như vậy, văn hóa khơng phải là kết quả thụ động của nền kinh tế mà là
nguyên nhân, động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.



5

Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Quan điểm này nhấn mạnh đến tư tưởng nhất quán của Đảng và Nhà
nước ta về đảm bảo tính thống nhất và tính đa dạng của nền văn hóa Việt
Nam hiện đại. Tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam thể hiện ở sự
thống nhất về truyền thống yêu nước và tinh thần đại đoàn kết của các dân
tộc anh em trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thống nhất ở việc
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với việc xây
dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa; thống nhất ở ý chí và nguyện vọng
chung của cộng đồng các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Tính
thống nhất là điều kiện để đảm bảo sự phát triển đa dạng của văn hóa các
dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam. Hiện nay, trên đất nước ta có 54 dân tộc với
các đặc trưng văn hóa khác nhau. Các giá trị và các đặc trưng văn hóa đó bổ
sung, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, làm phong phú cho nền văn hóa Việt
Nam và củng cố sự thống nhất quốc gia.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cùng với quá trình đặt trọng tâm vào
đổi mới về kinh tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định đường lối xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Quan điểm này đánh dấu sự phát triển  tư duy lý luận của Đảng, đồng
thời cũng là kết quả tổng kết thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa Việt
Nam trong suốt q trình lãnh đạo của Đảng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6-1991) đã xác định nền văn hóa
tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như vậy, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản

sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ trọng yếu trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.


6

Đến Đại hội XI, nhiệm vụ chăm lo phát triển văn hóa được đúc kết cơ
đọng hơn, cụ thể hơn, tập trung vào 4 nội dung quan trọng: 
Một là, củng cố và tiếp tục xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh,
phong phú, đa dạng; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh trong
việc cưới, việc tang, lễ hội…; triển khai cuộc vận động xây dựng gia đình
Việt Nam góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn
hóa, cịn người Việt Nam, ni dưỡng giáo dục thế hệ trẻ.
 Hai là, phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá
trị các di sản văn hóa truyền thống, cách mạng. Theo đó, tiếp tục phát triển
nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất
nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống,
lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước; cổ vũ, khẳng định cái đúng,
cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc
các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di
sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc. Xây dựng và thực hiện các
chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần,
tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật
sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.
Ba là, chú trọng phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ
chức và phản biện xã hội của các phương tiện thơng tin đại chúng vì lợi ích
của nhân dân và đất nước. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ
hoạt động báo chí, xuất bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có
năng lực đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ mới.
Bốn là, đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học,

nghệ thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới. Xây dựng một số
trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá
văn hóa Việt Nam ra nước ngồi. Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát
triển văn hóa của các nước, giới thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc
sắc của nước ngồi với cơng chúng Việt Nam. Ngăn chặn, đẩy lùi, vô hiệu


7

hóa sự xâm nhập và tác hại của các sản phẩm đồi trụy, phản động từ nước
ngoài vào nước ta; bồi dưỡng và nâng cao sức đề kháng của công chúng nhất
là thế hệ trẻ.
Như vậy, đến Đại hội XI, các quan điểm của Đảng về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam theo mục tiêu tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
tiếp tục được khẳng định. Nhưng từ thực tiễn đời sống văn hóa của đất nước
những năm qua, đặc biệt là trong xu thế hội nhập, có sự tác động nhiều chiều
của q trình tồn cầu hóa, của nền kinh tế thị trường…, Đảng ta đã xác định
bốn đầu việc cần được cấp ủy đảng, chính quyền các cấp và nhất là ngành văn
hóa coi trọng, tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhằm tiếp tục xây dựng nền
tảng tinh thần của xã hội.
Để xây dựng và phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, đồng
thời vẫn bảo đảm tính hiện đại, phù hợp với thực tiễn đất nước theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XI địi hỏi việc tăng cường quản
lý nhà nước về văn hóa càng trở nên cấp thiết trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế như hiện nay. 
Tuy nhiên, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng nhận định: Lĩnh
vực văn hóa cịn nhiều vấn đề bức xúc, chậm được giải quyết. Đặc biệt là việc
xây dựng nếp sống văn hóa chưa được coi trọng đúng mức. Tình trạng suy
thối, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm
đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ. Quản lý nhà nước về văn hóa còn nhiều sơ

hở, yếu kém. Đấu tranh ngăn ngừa văn hóa phẩm độc hại chưa được chú ý
đầy đủ, cịn nhiều khuyết điểm, bất cập. Q trình tồn cầu hóa cũng là nguy
cơ làm mai một bản sắc văn hóa dân tộc. Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức,
lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng hơn, tổn hại
khơng nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà nước, niềm tin của nhân dân.Việc xây
dựng và phát triển toàn diện con người Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa chưa tạo ra được sự chuyển biến rõ rệt... Qua đó, Đảng ta


8

cũng đã xác định các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý văn hóa và
xây dựng nền văn hóa mới:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của các thiết chế
hiện có; tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hoá, nâng cao
hiệu quả lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn
hoá; thực hiện nghiêm túc các văn bản luật pháp về văn hóa, thơng tin mà Nhà
nước ban hành, củng cố nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý văn hóa ở cấp
xã, phường; giải quyết tốt các chế độ, chính sách cho hoạt động văn hóa ở cơ
sở và đáp ứng tốt nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân; thực hiện chủ
trương "Nhà nước và nhân dân cùng làm" và xã hội hóa các hoạt động văn
hoá. Tiếp tục chỉ đạo và quản lý hiệu quả hoạt động xây dựng và hoàn thiện
các thiết chế văn hóa ở cơ sở như nhà văn hóa, thư viện, trạm phát thanh,
truyền hình, trạm bưu điện văn hóa, sân chơi, sân thể thao, trung tâm văn hóa
giải trí cho thanh, thiếu niên...
Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá
trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa
văn hóa thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại.Vừa phát huy mạnh mẽ tính
đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hóa các dân tộc anh em, làm phong phú nền
văn hóa chung của cả nước, vừa kiên trì củng cố và nâng cao tính thống nhất

trong đa dạng của văn hóa Việt Nam, đấu tranh chống các khuynh hướng lợi
dụng văn hóa để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.Chủ động xây
dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển văn hóa từ địa phương đến Trung ương,
định kỳ làm việc với các cơ quan văn hóa, chỉ đạo các cơ quan nhà nước thể
chế hóa các chủ trương, chính sách về văn hóa; có kế hoạch chăm sóc, bồi
dưỡng tài năng trong tất cả các lĩnh vực văn hóa; tơn trọng tự do sáng tác, xây
dựng quan hệ chân thành, cởi mở đối với đội ngũ những người hoạt động văn
hóa, có chính sách trọng dụng người tài, đồng thời chăm lo định hướng chính
trị và ý thức trách nhiệm cơng dân nhằm phát huy cao nhất sự đóng góp của


9

đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, những người làm báo cho sự nghiệp phát triển
văn hóa.
 Ba là,đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội theo tinh thần tăng cường vai
trị của văn hóa trong phát triển. Chú ý hệ chính sách đồng bộ, bên cạnh việc
nhấn mạnh các chính sách kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế cần
chú ý tới các chính sách xã hội hóa văn hóa, bảo tồn di sản văn hóa, khuyến
khích sáng tạo văn hóa, đầu tư văn hóa, ưu đãi xã hội, bảo vệ và phát triển
mơi trường văn hóa, khuyến khích xây dựng văn hóa mơi trường… trong tình
hình mới bởi chỉ có xuất phát từ nền tảng văn hóa dân tộc thì mọi chính sách,
hoạt động văn hóa, vấn đề văn hóa mới có được gốc rễ bền vững và khả năng
thực hiện triệt để.
 Bốn là, hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách trong việc xây dựng nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, đẩy lùi hủ tục, tệ nạn cờ bạc,
ma tuý, mại dâm, bạo lực, gây rối trật tự công cộng. Cải thiện văn hóa ở
những vùng đời sống cịn q khó khăn, nhất là những vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đáp ứng nhu cầu thiết
yếu về văn hóa tinh thần cho nhân dân. Bảo đảm gắn kết giữa nhiệm vụ phát

triển kinh tế là trọng tâm với khơng ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh
thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là
điều kiện quyết định đảm bảo cho sự phát triển tồn diện và bền vững của
đất nước.
2.2Vai trị của văn hóa đối với phát triển kinh tế Việt Nam
Mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế được Đảng ta nhận thức rõ và đề
cập từ rất sớm từ khi Đảng còn chưa giành được quyền lãnh đạo đất nước.
Đến Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII, Đảng ta xác định: văn hóa
là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển. Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 9, khóa XI, lần đầu tiên Đảng ta đưa ra những quan điểm và
nhiệm vụ cụ thể liên quan đến xây dựng văn hóa trong kinh tế. Đây thực sự là
bước tiến lớn trong tư duy lý luận cũng như trong triển khai thực hiện, nhằm


10

tạo sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa văn hóa và kinh tế, có giá trị thiết thực
và ý nghĩa lâu dài thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển bền vững.
Ảnh hưởng qua lại của kinh tế tới văn hóa và văn hóa tới kinh tế là rất
mạnh mẽ. Văn hóa trong giai đoạn hiện nay là văn hóa vận động trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mang tính tồn cầu và hội
nhập khi tác động của những thành tựu khoa học - cơng nghệ đang tạo ra một
làn sóng mạnh mẽ đến tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Từ thực tiễn đó, Đảng ta đề ra các chủ trương, đường lối, quan điểm
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà dân tộc:
- Phải có chính sách kinh tế trong văn hóa: Chính sách được xây dựng
để gắn văn hóa với các hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế hỗ trợ
cho phát triển văn hóa. Đồng thời bảo đảm u cầu chính trị - tư tưởng, phải
giữ gìn được bản sắc văn hóa. Chính sách kinh tế trong văn hóa được thể hiện
trong các dịch vụ văn hóa ở khu vực tư đã được cấp bỏ thủ tục giấy phép, mở

rộng hoạt động kinh doanh, tạo nguồn thu cho các đơn vị sự nghiệp cơng lập
hoạt động trong lĩnh vực văn hóa; chế độ tài trợ, đặt hàng, trợ giá, chế độ ưu
đãi cho các doanh nghiệp đặc thù (hãng phim, rạp chiếu phim; hiệu sách, khu
vui chơi giải trí, nhà xuất bản, trung tâm triển lãm...). Đó là những việc làm
nhằm thực thi chính sách kinh tế trong văn hóa để khai thác các tiềm năng có
trong các thành phần kinh tế để hỗ trợ cho phát triển văn hóa.
- Phải có chính sách văn hóa trong kinh tế: Chính sách này nhằm bảo
đảm cho văn hóa thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, tạo động lực thúc
đẩy chất lượng trong các hoạt động kinh tế. Qua đó cũng tạo điều kiện nhiều
hơn cho sự phát triển văn hóa, chăm lo cho con người. Biểu hiện ảnh hưởng
của chính sách văn hóa trong kinh tế được thể hiện qua việc: Chú trọng xây
dựng giải pháp văn hóa các chương trình, các cơng trình kinh tế. Chính sách
xã hội hóa trong hoạt động văn hóa cũng chính là sự động viên khai thác các
nguồn lực còn đang nằm trong dân, trong các thành phần kinh tế - nhìn từ góc
độ xã hội để đóng góp cho phát triển văn hóa.


11

Các chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh
tế đã được Đảng đưa ra những định hướng cụ thể trong việc xây dựng, ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật và các chính sách văn hóa. Trong đó
bao gồm:
- Chính sách kinh tế trong văn hóa nhằm gắn văn hóa với các hoạt động
kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa,
đồng thời bảo đảm yêu cầu chính trị, tư tưởng của hoạt động văn hóa, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc.
- Thực hiện cơ chế mở rộng hoạt động kinh doanh dịch vụ (hoạt động
thể thao, dịch vụ văn hóa…), tạo nguồn thu hỗ trợ cho hoạt động sự nghiệp
của các đơn vị văn hóa, nghệ thuật.

- Cải tiến chế độ tài trợ, đặt hàng đối với các loại hình văn hóa như điện
ảnh, biểu diễn nghệ thuật, báo chí, xuất bản; thuế đối với báo chí; trợ giá cho
một số báo chí, văn hóa phẩm đưa ra nước ngồi nhằm mục đích tuyên truyền
đối ngoại và sách báo đưa lên miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
- Quy định cụ thể chế độ cho các doanh nghiệp đặc thù của ngành văn
hóa thơng tin (hãng phim, rạp chiếu bóng, hiệu sách, khu vui chơi giải trí, nhà
xuất bản, trung tâm triển lãm, tu bổ di tích…) được hưởng mức thuế ưu đãi
trong hoạt động kinh doanh (thuế đất, thuế vốn khấu hao cơ bản).
- Cho phép các thành phần kinh tế kể cả tư nhân trong nước và nước
ngoài, thực hiện một số hình thức liên doanh, liên kết với một số cơ sở hoạt
động văn hóa theo quy định của pháp luật nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi
mới công nghệ và tham gia tổ chức một số hoạt động văn hóa có nội dung
lành mạnh, bổ ích.
- Thực hiện chính sách miễn, giảm phần chịu thuế cho các khoản đầu
tư, đóng góp của các doanh nghiệp vào sự nghiệp văn hóa.
- Xã hội hóa hoạt động văn hóa nhằm động viên sức người, sức của để
xây dựng và phát triển văn hóa. Chính sách này được tiến hành đồng thời với
việc nâng cao vai trò, trách nhiệm của Nhà nước. Các cơ quan chủ quản về


12

văn hóa của Nhà nước phải làm tốt chức năng quản lý và hướng dẫn nghiệp
vụ đối với các hoạt động xã hội về văn hóa.
- Khuyến khích sáng tạo trong các hoạt động văn hóa địi hỏi tăng
nguồn đầu tư thích đáng cho sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ thuật. Chú trọng
đầu tư hỗ trợ những tác giả có uy tín, những tài năng trẻ, đầu tư cho lực lượng
chuyên nghiệp và cả những phong trào quần chúng. Có chính sách chăm sóc
đặc biệt đối với các văn nghệ sỹ tuổi cao tiêu biểu, các mầm non nghệ thuật
suất xắc.

- Sửa chế độ nhuận bút phù hợp với tình hình mới; có chính sách
khuyến khích đối với lao động nghệ thuật và báo chí.
- Thành lập quỹ văn hóa quốc gia và quỹ sáng tác của các hội văn học,
nghệ thuật, tạo thêm nguồn hỗ trợ tài chính cho xây dựng các tác phẩm.
- Xây dựng và ban hành chính sách đặc thù hợp lý, hợp tình cho những
loại đối tượng xã hội cần được ưu đãi tham gia và hưởng thụ văn hóa: thương
binh, bệnh binh, các bà mẹ Việt Nam anh hùng, trẻ em, người già không nơi
nương tựa, người tàn tật, người thuộc dân tộc thiểu số,...
2.3 Giải pháp phát huy vai trò của văn hóa đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội ở Việt Nam
Trong những giai đoạn đầu phát triển kinh tế - xã hội, lĩnh vực văn hóa
được Nhà nước hỗ trợ có trọng điểm, vừa bảo đảm phát triển văn hóa, vừa
góp phần nâng cao cuộc sống tinh thần của người dân. Khi nền kinh tế đã phát
triển tốt hơn vai trò của khối tư nhân, doanh nghiệp ngày càng được khẳng
định, và thực sự đã trở thành những nhà tài trợ chính và quan trọng cho văn
hóa. Sự tham gia tích cực của khối tư nhân được khuyến khích bằng các chính
sách thuế, phí ưu đãi cho những hoạt động dành cho văn hóa nghệ thuật. Ở
một mặt khác, khi một số lĩnh vực văn hóa đã trở thành ngành kinh doanh giải
trí có lợi nhuận cao thì Nhà nước có thể khơng cần hỗ trợ và tiến hành đánh
thuế để tạo nguồn thu đầu tư trở lại cho ngành văn hóa. 


13

Bên cạnh đó, mức đầu tư của Nhà nước cho văn hóa phải tương ứng
với mức tăng trưởng kinh tế. Sử dụng hiệu quả, công khai, minh bạch nguồn
đầu tư của Nhà nước, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các vùng miền núi,
biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và một số loại hình nghệ
thuật truyền thống cần bảo tồn, phát huy. 
Thường xuyên quan tâm xây dựng văn hóa trong kinh tế. Tạo lập mơi

trường văn hóa pháp lý, thị trường sản phẩm văn hóa minh bạch, tiến bộ, hiện
đại để các doanh nghiệp tham gia xây dựng, phát triển văn hóa. Xây dựng văn
hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tơn trọng pháp luật, giữ chữ
tín, cạnh tranh lành mạnh, vì sự phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc.
Phát huy ý thức và tinh thần dân tộc, động viên toàn dân, trước hết là
các doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng và phát triển các thương hiệu Việt
Nam có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.


14

KẾT LUẬN
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, quan điểm của Đảng ta về xây dựng
và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là quan
điểm nhất quán và xuyên suốt thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước và hội nhập quốc tế. Trong quá trình thực hiện những quan điểm
chỉ đạo này, Đảng ta luôn chú ý tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, đề ra
những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể để đáp ứng yêu cầu của từng thời điểm,
từng lĩnh vực khác nhau của hoạt động văn hoá. Tư tưởng nhất quán về
nguyên tắc, phương pháp biện chứng, linh hoạt và bám sát thực tiễn là bài học
kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo văn hố của Đảng. Chính vì vậy, nền
văn hố nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần tích cực vào sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đã và đang trở thành nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội. 


15

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ XII của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr 126.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ XI. 
3. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.3, tr.431.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII, Sđd, tr.54-55.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Sđd, tr.114.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Sđd, tr.56.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Sđd, tr.56.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Sđd, tr.114.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII, Sđd, tr.59-60.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Sđd, tr.112.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Sđd, tr.115.
12. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Sđd, tr.106.

 



×