Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

tiểu luận phân tích vai trò của văn hóa đối với sự phát triển con người và phát triển bền vững đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.88 KB, 22 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
PHÂN TÍCH VAI TRỊ CỦA VĂN HĨA ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VÀ PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG ĐẤT NƯỚC

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2022


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HĨA
I.
VÀ VAI TRỊ VĂN HĨA
1.1.
1.2.

Văn hóa
Vai trị của văn hóa
PHÂN TÍCH VAI TRỊ CỦA VĂN HĨA ĐỐI VỚI SỰ
II.
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI VÀ PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG ĐẤT NƯỚC


Quan điểm của Đảng ta về phát huy giá trị văn hóa tại
2.1.
Đại hội XIII
2.2.
Vai trị của văn hóa đối với sự phát triển con người
2.3.
Vai trị của văn hóa trong q trình phát triển bền vững đất nước
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
2
2
2
4
8
8
12
14
19
20


MỞ ĐẦU
Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển của
mọi quốc gia dân tộc nói chung và Việt Nam nói riêng, đó là quá trình kết hợp
chặt chẽ, hợp lý và hài hịa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ
tài ngun, mơi trường, bảo đảm quốc phịng, an ninh và trật tự an toàn xã hội,
nhằm tạo dựng một xã hội ổn định, văn minh và hạnh phúc ở cả hiện tại và trong
tương lai xa của đất nước.

Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới, hội nhập và phát triển đất
nước gần ba thập kỷ qua của nước ta, ngoài việc đem lại những thành tựu quan
trọng trên tất cả các lĩnh vực theo hướng phát triển bền vững, cũng đã và đang
đặt ra nhiều thách thức khơng nhỏ: sự phát triển “nhanh” và “nóng” của nền
kinh tế, ô nhiễm môi trường đang trở nên ngày càng bức xúc, nhất là ở đô thị và
các khu cơng nghiệp đang gia tăng một cách nhanh chóng. Đặc biệt, sự tác động
của biến đổi khí hậu đang trở thành một vấn đề nóng bỏng, đe dọa quá trình phát
triển bền vững của cả đất nước. Vì vậy, vấn đề đặt ra đối với chúng ta hiện nay
là làm thế nào để vừa giữ được sự tăng trưởng kinh tế cao, vừa đảm bảo đảm ổn
định chính trị và an sinh xã hội, đồng thời bảo vệ được mơi trường và ứng phó
có hiệu quả với tác động của biến đổi khí hậu để phát triển bền vững như Đảng
ta khẳng định.
Trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo Đảng và Nhà nước, sự
nỗ lực vươn lên của nhân dân các dân tộc, Việt Nam đã có bước phát triển vượt
bậc về mọi mặt, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân ngày càng được
nâng lên, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Tuy
nhiên, bện cạnh đó vẫn cịn những tồn tại, hạn chế trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, trong đó có văn hóa. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề “Phân tích vai
trị của văn hóa đối với sự phát triển con người và phát triển bền vững đất
nước” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

1


NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HĨA VÀ VAI
TRỊ VĂN HĨA
1.1. Văn hóa
Văn hố là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Ngay

từ thời tiền sử, thuật ngữ văn hóa đã xuất hiện trong ngơn ngữ của loài người,
đặc biệt là các quốc gia được coi là cái nôi của văn minh nhân loại.
Ở phương Tây, từ văn hố xuất hiện sớm trong đời sống ngơn ngữ. Nhà
ngôn ngữ học người Đức W. Wundt cho rằng: Văn hố là một từ có từ căn gốc
Latinh: Colere, sau trở thành Cultura nghĩa là cày cấy, gieo trồng. Từ nét nghĩa
này về sau dẫn đến nghĩa rộng hơn là sự hồn thiện, vun trồng tinh thần, trí tuệ.
Thế kỷ thứ nhất trước công nguyên, Cicéron, nhà hùng biện thời La Mã từng có
câu nói nổi tiếng: Triết học là văn hoá (sự vun trồng) tinh thần (Filosofia cultura
animi est).
Ở Trung Quốc, từ văn hoá đã xuất hiện trong đời sống ngôn ngữ ở thời
Tây Hán (206 trước công nguyên - 25 năm sau công nguyên). Lưu Hướng viết
trong sách Thuyết uyển bài Chỉ vũ: Thánh nhân cai trị thiên hạ, trước dùng văn
đức rồi sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng vũ lực đều để đối phó kẻ bất phục tùng,
dùng văn hố khơng thay đổi được thì sau đó sẽ chinh phạt. Như vậy, trong cách
nghĩ của Lưu Hướng, từ văn hoá được hiểu như một cách giáo hoá đối lập với
vũ lực, văn hoá gần nghĩa với giáo hố.
Mặc dù có mặt sớm trong đời sống ngôn ngữ phương Tây cũng như
phương Đông như vậy, nhưng phải đến thế kỷ XVIII, từ văn hoá mới được đưa
vào khoa học, sử dụng như thuật ngữ khoa học. Năm 1774, từ này mới được
xuất hiện trong thư tịch và ghi vào từ điển năm 1783 ở Đức. Người đầu tiên sử
dụng từ văn hoá trong khoa học là Pufendorf, người Đức. Ơng cho rằng văn hố
là tồn bộ những gì được tạo ra do hoạt động xã hội, nghĩa là văn hoá đối lập với
trạng thái tự nhiên. Sau ông, nhà triết học Herder (1744 - 1803) cho rằng: văn
hố là sự hình thành lần thứ hai của con người. Theo ông, lần thứ nhất, con
2


người xuất hiện với tư cách là một thực thể sinh vật tự nhiên; lần thứ hai con
người hình thành như một thực thể xã hội, tức là một nhân cách văn hố, theo
nghĩa tồn vẹn của từ này.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, văn hóa là toàn bộ những giá
trị vật chất và tinh thần mà con người đã và đang sáng tạo ra trong quá trình hoạt
động thực tiễn xã hội để phục vụ nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Ở Việt Nam, trong cơng trình Việt Nam văn hóa sử cương xuất bản năm
1938, học giả Đào Duy Anh cho rằng: “Văn hóa là cách sinh hoạt của con người
[1, tr.10]. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [5, tr.431].
Trong tuyên bố toàn cầu của UNESCO về đa dạng văn hóa do Đại hội
đồng UNESCO lần thứ 31 (tháng 11 - 2001) đã định nghĩa: Văn hóa nên được
xem là một tập hợp các đặc điểm nổi bật về tinh thần, vật chất, tri thức và tình
cảm của xã hội hay một nhóm xã hội và ngồi văn học và nghệ thuật, nó cịn bao
gồm cả lối sống, cách thức cùng chung sống, các hệ thống giá trị, các truyền
thống và các tín ngưỡng.
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII của Đảng đã
đưa ra nội hàm của khái niệm văn hoá theo nghĩa rộng: “trong đó đề cập tám
lĩnh vực lớn, trong tám lĩnh vực này thì tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống
văn hoá được coi là những lĩnh vực quan trọng nhất hiện nay cần đặc biệt quan
tâm” [2, tr.19-20].
Theo đó, Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của cá
nhân và cộng đồng trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động
sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.
Như vậy, văn hóa bao gồm các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra nhằm mục đích phục vụ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng loài
3


người. Văn hóa là thiên nhiên thứ hai do con người tạo ra để phục vụ nhu cầu

tồn tại và phát triển của chính con người. Văn hóa là sản phẩm của con người
được tạo ra trong qua trình lao động (từ lao động trí óc đến lao động chân tay),
được chi phối bởi môi trường (môi tự nhiên và xã hội) xung quanh và tính cách
của từng tộc người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác biệt so với các
loài động vật khác; và do được chi phối bởi mơi trường xung quanh và tính cách
tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có những đặc trưng riêng. Hơn nữa,
văn hóa chính là nấc thang đưa con người vượt lên trên những loài động vật
khác; và văn hóa là sản phẩm do con người tạo ra trong q trình lao động nhằm
mục đích sinh tồn.
1.2. Vai trị của văn hóa
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển bởi lẽ, văn hóa do con người sáng
tạo ra, chi phối toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản xuất nhằm
cung cấp năng lượng tinh thần cho con người, làm cho con người ngày càng
hoàn thiện, xa rời trạng thái nguyên sơ ban đầu khi từ con vật phát triển thành
con người. Con người tồn tại, không chỉ cần những sản phẩm vật chất mà cịn có
nhu cầu hưởng thụ sản phẩm văn hóa tinh thần, con người và xã hội lồi người
càng phát triển thì nhu cầu văn hóa tinh thần địi hỏi ngày càng cao. Đáp ứng
nhu cầu văn hóa tinh thần đó chính là đảm bảo sự phát triển ngày càng nhiều của
cải vật chất cho con người và xã hội.
Trên ý nghĩa đó, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời là
mục tiêu của sự phát triển. Vì xét cho cùng, mọi sự phát triển đều do con người
quyết định mà văn hóa thể hiện trình độ vun trồng ngày càng cao, càng tồn diện
con người và xã hội, làm cho con người và xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ;
điều đó nghĩa là ngày một xa rời trạng thái nguyên sơ, mông muội để tiến tới
một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc và văn minh. Trong đó, bản chất nhân
văn, nhân đạo của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng được bồi dưỡng, phát
huy trở thành giá trị cao quý và chuẩn mực tốt đẹp của toàn xã hội. Mục tiêu này
phù hợp với khát vọng lâu đời của nhân loại và là mục đích phát triển bền vững,
4



tiến bộ của các quốc gia, dân tộc. Đây là một nội dung quan trọng của chủ nghĩa
xã hội mà chúng ta đang xây dựng.
Văn hóa là động lực của sự phát triển, bởi lẽ mọi sự phát triển đều do con
người quyết định chi phối. Văn hóa khơi dậy và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo
của con người, huy động sức mạnh nội sinh to lớn trong con người đóng góp
vào sự phát triển xã hội.
Trước đây, để phát triển kinh tế, người ta thường nhấn mạnh và khai thác
yếu tố lao động của con người cho sự phát triển. Ngày nay, trong điều kiện của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, yếu tố quyết định cho sự phát
triển là trí tuệ, là thơng tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng nhằm tạo ra
những giá trị vật chất và tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng và
phong phú của mỗi người cũng như của toàn xã hội.
Trong thời đại ngày nay, một nước giàu hay nghèo không chỉ ở chỗ có
nhiều hay ít lao động, vốn, kỹ thuật và tài nguyên thiên nhiên, mà chủ yếu ở chỗ
có khả năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con
người hay không? Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn
hóa, nghĩa là trong ý chí tự lực, tự cường và khả năng hiểu biết, trong tâm hồn,
đạo lý, lối sống, trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng.
Một chính sách phát triển đúng đắn là chính sách làm cho các yếu tố cấu
thành văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con người: Văn hóa
trong sản xuất, văn hóa trong quản lý, văn hóa trong lối sống, văn hóa trong giao
tiếp, văn hóa trong sinh hoạt gia đình, ngồi xã hội, văn hóa trong giao lưu và
hợp tác quốc tế… Nói cách khác, hàm lượng trí tuệ, hàm lượng văn hóa trong
các lĩnh vực của đời sống con người càng cao bao nhiêu thì khả năng phát triển
kinh tế - xã hội càng trở nên hiện thực bấy nhiêu.
Văn hóa là hệ điều tiết của sự phát triển. Bởi lẽ, văn hóa phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách quan và chủ quan, của các điều kiện
bên trong và bên ngoài, bảo đảm cho sự phát triển được hài hòa, cân đối, lâu bền.
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn hóa dựa vào chuẩn mực của nó

là chân, thiện, mỹ (cái đúng, cái tốt, cái đẹp) để hướng dẫn và thúc đẩy người
5


lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề,
sản xuất hàng hóa với số lượng ngày càng nhiều với chất lượng ngày càng cao,
đáp ứng nhu cầu không ngừng tăng lên của xã hội; mặt khác, văn hóa sử dụng
sức mạnh của các giá trị truyền thống, của đạo lý, dân tộc để hạn chế xu hướng
sùng bái hàng hóa, sùng bái tiền tệ, nghĩa là hạn chế xu hướng tiêu cực của hàng
hóa và đồng tiền “xuất hiện với tính cách là lực lượng có khả năng xuyên tạc
bản chất con người, cũng như những mối liên hệ khác”. Hạn chế những tiêu cực
này chỉ có thể là văn hóa và chủ yếu bằng văn hóa.
Tồn cầu hóa kinh tế quốc tế là một xu thế, đòi hỏi chúng ta phải chủ
động và tích cực hội nhập. Đây là cơ hội để chúng ta phát triển nhanh có hiệu
quả, nhưng cũng là thách thức rất lớn với nước ta trên nhiều mặt, trong đó có cả
văn hóa. Sự thâm nhập của văn hóa độc hại, của sự lai căng văn hóa, của lối
sống thực dụng và những tiêu cực khác của kinh tế thị trường…, đã và đang ảnh
hưởng, làm băng hoại những giá trị văn hóa truyền thống, ảnh hưởng tới sự phát
triển bền vững của đất nước…
Cần phải hiểu rằng về mặt kinh tế, việc thực hiện chính sách hội nhập để
tăng cường liên kết, liên doanh với nước ngoài là rất cần thiết. Song, mọi yếu tố
ngoại sinh như vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường của
nước ngồi chỉ có thể biến thành động lực bên trong của sự phát triển, nếu chúng
được vận dụng phù hợp và trở thành các yếu tố nội sinh của con người Việt Nam
với truyền thống văn hóa, đạo đức, tâm hồn, lối sống của dân tộc Việt Nam. Trên
cơ sở kiến thức khoa học, kinh nghiệm và sự tỉnh táo, khơn ngoan, chúng ta cần
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập, phát triển.
Bởi lẽ, nền văn hóa dân tộc sẽ đóng vai trị định hướng và điều tiết để hội nhập
và phát triển bền vững, hội nhập để phát triển nhưng vẫn giữ vững được độc lập,
tự chủ. Hợp tác kinh tế với nước ngồi mà khơng bị người ta lợi dụng, biến

mình thành kẻ đi vay nặng lãi, thành nơi cung cấp nguyên liệu và nhân công giá
rẻ, thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa và tiếp nhận chuyển giao những công nghệ
lạc hậu, tiếp nhận lối sống không lành mạnh với những ảnh hưởng văn hóa độc
hại…
6


Vì sự phát triển bền vững, văn hóa phê phán lối sống thực dụng, chụp
giật, chạy theo ham muốn quá mức của “xã hội tiêu thụ”, dẫn đến chỗ làm cạn
kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái. Như vậy, văn hóa đã góp phần
quan trọng vào vấn đề bảo vệ môi trường và sự phát triển bền vững...
Văn hóa truyền thống Việt Nam hướng dẫn và cổ vũ một lối sống hịa
hợp, hài hịa với thiên nhiên. Nó đưa ra mơ hình ứng xử có văn hóa của con
người đối với thiên nhiên, vì sự phát triển bền vững của thế hệ hiện nay và các
thế hệ con cháu mai sau.
Phát triển tách khỏi cội nguồn dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ
tha hóa. Thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước mà xa rời những giá trị văn hóa truyền thống sẽ làm
mất đi bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của
người khác, của dân tộc khác.
Nhận thức sâu sắc giá trị của văn hóa trong quá trình phát triển, Đảng ta
xác định tiến hành đồng bộ và gắn kết chặt chẽ ba lĩnh vực: Phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt cùng với
việc xây dựng văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội nhằm tạo nên sự phát triển
nhanh, hiệu quả và bền vững của đất nước. Trong đó, nội dung xây dựng văn
hóa được xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc”, một định hướng quan trọng để đất nước phát triển bền vững.
Xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là
nội dung cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội, là nhiệm vụ quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới. Quan điểm xây dựng và phát triển nền văn tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã được Đảng ta đề cập đến từ rất sớm, được phản
ánh trong Đề cương văn Việt Nam (năm 1943), trong các văn kiện sau đó của
Đảng. Ngay trong Đề cương văn hoá Việt Nam, Đảng ta đã xác định văn hoá là
một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị, văn hố và ba mặt trận này có quan hệ
biện chứng với nhau, tạo thành động lực đưa cách mạng tới thành công. Và cũng
ở đây, văn hoá được xác định “gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật”. Như
vậy, văn là cốt lõi của ý thức xã hội và xây dựng nền văn mới là cốt lõi của việc
7


xây dựng ý thức xã hội mới. Với quan niệm đó, Đảng ta đã xác định ba phương
châm xây dựng văn mới là: dân tộc, khoa học và đại chúng. Trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại
Đại hội VII (1991), Đảng ta đã chỉ rõ, xã hội mà chúng ta xây dựng là xã hội có
nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Mốc đánh giá sự đổi mới toàn
diện trong tư duy về văn của Đảng thể hiện ở Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Trong Văn kiện này, Đảng ta đã khẳng định: trong q trình xây dựng
nền văn mới, chúng ta khơng chỉ chú ý giữ gìn, kế thừa những giá trị và bản sắc
văn dân tộc, mà còn phải chú trọng tiếp thu, kế thừa tinh hoa văn của nhân loại.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta khẳng định: “Phát triển
văn hố, xã hội hài hồ với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã
hội trong từng bước và từng chính sách phát triển là thể hiện rõ nhất tính ưu việt
của chế độ ta… Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức
làm chủ, trách nhiệm cơng dân, có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi, sống có văn
hố, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính; xây dựng gia đình ấm no, tiến
bộ, hạnh phúc” [4, tr.90].
II. PHÂN TÍCH VAI TRỊ CỦA VĂN HĨA ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN CON NGƯỜI VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẤT NƯỚC
2.1. Quan điểm của Đảng ta về phát huy giá trị văn hóa tại Đại hội XIII

Trải qua 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về
đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta ngày càng được xác định rõ hơn và từng bước được hiện thực hóa. Đất
nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh
mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Để khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phấn đấu đến năm 2045 nước ta trở thành nước
phát triển, người dân có thu nhập cao thì phải huy động được sức mạnh tổng
hợp, sức sáng tạo của mọi nguồn lực cho phát triển đất nước. Trong đó nguồn
lực văn hóa, con người có vai trị đặc biệt quan trọng. Với ý nghĩa đó, văn kiện
8


Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra nhiều quan điểm mới về phát huy giá trị văn
hóa và sức mạnh con người Việt Nam trong thời gian tới.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, trong
phần VII Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ “Xây dựng, phát triển văn
hóa, con người” [3, tr.123]. Đến Đại hội XIII của Đảng, Báo cáo chính trị tại
phần VII đã nhấn mạnh nhiệm vụ “Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức
mạnh con người Việt Nam” [4, tr.143]. Như vậy, so với tiêu đề tại phần VII, giữa
hai Báo cáo chính trị đã có sự thay đổi khơng chỉ về mặt câu chữ mà cịn có sự
bổ sung quan điểm, tư duy phát triển văn hóa. Cụm từ “phát triển” được thay
bằng cụm từ “phát huy”. Không chỉ đề cập đến xây dựng, phát triển văn hóa,
con người nói chung, Đại hội XIII của Đảng đã tập trung nhấn mạnh vào việc
phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam. Điều này phù hợp với
bối cảnh, tình hình đất nước trước những yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết đang đặt ra
và phù hợp với chủ đề Đại hội đã xác định.
Các kỳ đại hội trước đây xác định nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa
là hướng đến mục tiêu gìn giữ, lan tỏa những giá trị truyền thống, bản sắc dân
tộc độc đáo gắn với không ngừng tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đồng

thời xác định xây dựng, phát triển văn hóa để chấn hưng sự xuống cấp về đạo
đức xã hội, văn hóa được coi là nền tảng tinh thần, là mục tiêu, động lực của sự
phát triển. Đến Đại hội XIII, bên cạnh những sứ mệnh, mục tiêu được xác định ở
trên, nhận thức về văn hóa của Đảng ngày càng tồn diện, sâu sắc hơn. Vai trị,
chức năng của văn hóa được Đảng xem xét ở nhiều chiều cạnh, góc độ với mối
tương quan với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, phát triển con người.
Trong mối quan hệ với kinh tế, văn hóa được xem là nguồn lực nội sinh,
là “sức mạnh mềm” để thúc đẩy quá trình phát triển nhanh và bền vững của đất
nước (sức mạnh mềm là thuật ngữ lần đầu tiên xuất hiện trong Văn kiện Đại
hội). Trong bối cảnh nguồn tài nguyên thiên nhiên khống sản của đất nước có
hạn và khai thác ngày càng cạn kiệt thì việc phát huy nguồn lực văn hóa, con
người có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi vì, đây là nguồn tài ngun có giá trị
đặc biệt. Nó có thể tái tạo và khơng ngừng tạo ra những sản phẩm mới có giá trị
9


với hàm lượng trí tuệ cao. Đất nước ta có nguồn tài nguyên văn hóa phong phú,
dồi dào kết tinh ở trí tuệ, phẩm chất, tài năng, sức sáng tạo của các thế hệ người
Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.
Để tăng cường “sức mạnh mềm” của văn hóa, gần đây Đảng, Nhà nước ta
đã chú trọng gắn văn hóa với phát triển kinh tế. Thơng qua nhiều hình thức,
trong đó chúng ta đã tập trung gắn phát triển văn hóa với đẩy mạnh phát triển du
lịch, dịch vụ. Đến Đại hội XIII, Đảng tiếp tục khẳng định: “Gắn phát triển văn
hóa với phát triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn” [4,
tr.145]. Văn kiện Đại hội XIII đã nhấn mạnh và khẳng định quan điểm phát triển
ngành công nghiệp văn hóa đó là “khẩn trương triển khai phát triển có trọng
tâm, trọng điểm ngành cơng nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác
định và phát huy sức mạnh mềm của văn hoá Việt Nam, vận dụng có hiệu quả
các giá trị và thành tựu mới của văn hố, khoa học, kỹ thuật, cơng nghệ của thế
giới” [4, tr.146]. Như vậy, để khai thác, phát huy hiệu quả giá trị, tiềm năng, thế

mạnh của văn hóa Việt Nam cần thực hiện tốt mối quan hệ hài hịa giữa phát triển
văn hóa với phát triển kinh tế, gắn văn hóa với phát triển du lịch, dịch vụ cũng
như giới thiệu, quảng bá văn hóa ra thế giới thông qua những sản phẩm của ngành
công nghiệp văn hóa. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm
cần được thực hiện một cách đồng bộ, hiệu quả trong bối cảnh hiện nay nhằm gia
tăng “sức mạnh mềm” văn hóa trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh nhiệm vụ, mục tiêu phát huy giá trị văn hóa Việt Nam trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đại hội XIII cũng đặc biệt nhấn mạnh
quan điểm nhất quán phải “Bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hóa cho các thế hệ
mai sau” [4, tr.146], đảm bảo sự phát triển bền vững mang tính liên tục, lâu dài
của đất nước. Việc khai thác, phát huy tài ngun văn hóa trong q trình phát
triển, nhất là văn hóa truyền thống cần phải đảm bảo nguyên tắc phát triển hài
hịa, khơng tận dụng, khai thác triệt để giá trị kinh tế của văn hóa. Khơng vì mục
đích thương mại, lợi nhuận và mục tiêu phát triển nóng mà xâm hại đến cảnh
quan, khơng gian di tích, di sản; không được làm biến dạng môi trường, môi
10


sinh, nhất là đối với những khu văn hóa sinh thái, văn hóa thiên nhiên, văn hóa
tâm linh, tín ngưỡng.
Để hiện thực hóa khát vọng xây dựng nước Việt Nam cường thịnh hay
như mong ước, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Xây dựng lại đất nước ta
đàng hồng hơn, to đẹp hơn”, xứng đáng “sánh vai với các cường quốc, năm
châu” [6, tr.176], thì việc khơi dậy ý chí, tinh thần, truyền thống văn hóa và sức
mạnh con người Việt Nam là một vấn đề đặc biệt được coi trọng. Nó được xem
là mệnh lệnh thiêng liêng, là ý thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của
mỗi người đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa hiện nay. Do vậy, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước là một nội dung
quan trọng trong chủ đề Đại hội và cũng là mục tiêu, sứ mệnh của nhiệm kỳ Đại
hội XIII của Đảng đặt ra.

Việc khơi dậy khát vọng phát triển được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết
cần phải giải quyết, trong đó văn hóa có vai trị hết sức to lớn. Nó đóng vai trị là
nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực phát triển bền vững của đất nước. Văn
hóa trực tiếp cổ vũ, động viên, khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn của mỗi người
dân, khích lệ tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; khuyến khích
tinh thần chủ động, sáng tạo, tinh thần đồn kết, ý chí quyết tâm, truyền thống
hiếu học, đức tính cần cù, chịu khó, siêng năng, nỗ lực cố gắng vượt qua khó
khăn, thử thách của mọi người dân để phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Trong sự nghiệp đẩy mạnh Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
hiện nay, yếu tố truyền thống, sức mạnh văn hóa của dân tộc Việt Nam cần phải
được khai thác, phát huy mạnh mẽ hơn nữa để phát triển đất nước nhanh và bền
vững. Văn hóa góp phần to lớn vào duy trì sự ổn định xã hội, điều tiết các mối
quan hệ một cách phù hợp, giảm bớt những xung đột bất đồng; là điểm tựa tinh
thần, là mục tiêu, khát vọng cao đẹp mà mỗi người dân Việt Nam mong muốn
vươn tới, bởi bản chất của văn hóa là nhân văn, hướng thiện, hướng con người
đến những giá trị cao quý.
Do vậy, để phát huy vai trị to lớn của văn hóa trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong thời gian tới, Văn kiện Đại hội XIII đã đề ra nhiệm vụ:
11


“Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ
giá trị văn hoá và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia
đình Việt Nam trong thời kỳ mới” [4, tr.143]. Đây là một trong những nội dung
mới trong cơng tác phát triển văn hóa. Việc nghiên cứu, xác định và triển khai
xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa dân tộc có ý nghĩa rất quan
trọng. Bởi vì, trong văn hóa, giá trị là sự kết tinh những gì tinh túy nhất, được
hình thành trong lịch sử, được thời gian kiểm nghiệm, chứng minh, được nhân
dân tôn thờ, là niềm khát khao vươn đến của mỗi người. Khi xác định và xây
dựng được hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa dân tộc sẽ góp phần định

hướng, giáo dục, điều chỉnh hành vi, suy nghĩ của mỗi con người trong theo
hướng tiến bộ, tích cực.
2.2. Vai trị của văn hóa đối với sự phát triển con người
Tại Đại hội lần thứ XII, Đảng ta đã nhấn mạnh đến nhiệm vụ xây dựng,
phát triển con người bên cạnh nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa. Nghị
quyết Trung ương 9 khóa XII Đảng tiếp tục nhấn mạnh đến xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước. Trước đó trong báo cáo Chính trị trình Đại hội X, XI, Đảng mới tập trung
nhấn mạnh đến nhiệm vụ “Phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội” (ở
mục VII của Đại hội X), “Chăm lo phát triển văn hóa” (ở mục VI của Đại hội
XI). Trong Văn kiện Đại hội XIII lần này, nhiệm vụ phát huy sức mạnh con
người Việt Nam được đặc biệt nhấn mạnh. Bởi vì, trong các nguồn lực cho phát
triển đất nước thì nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng nhất. Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 của Đảng đã xác định: “Phát huy tối đa
nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng
nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hoá, con người Việt Nam là
nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững” [4,
tr.215-216]. Cùng với điểm nhấn về khơi dậy khát vọng phát triển đất nước thì
tinh thần “đổi mới sáng tạo”, gắn liền với tinh thần, trí tuệ, sức sáng tạo, trí
thơng minh, nhạy bén của người Việt cũng là một điểm mới được đề cập trong
văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
12


Để phát huy sức mạnh con người Việt Nam cần phải chú trọng phát huy
những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Vì vậy, phải phát triển con
người Việt Nam một cách toàn diện, “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, tự
hào dân tộc, khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và lịng nhân ái, tinh thần đoàn
kết, đồng thuận xã hội… đề cao ý thức, trách nhiệm, đạo đức xã hội, sống và
làm việc theo pháp luật” [4, tr.221-222]. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI năm

2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước đã nhấn mạnh đến nhiệm vụ: “Trong xây dựng văn
hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp,
với các đặc tính cơ bản: u nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần
cù, sáng tạo”. Đảng ta đã nhấn mạnh đến nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng,
hình thành con người mới với những phẩm chất, đặc tính cơ bản phù hợp với
điều kiện mới đó là: “Giàu lịng nhân ái, khoan dung, chân thành, tín nghĩa,
trọng đạo lý, đức tính cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm, sáng tạo, hiện đại”.
Quá trình xây dựng, hình thành những con người mới có năng lực, phẩm
chất đạo đức tốt phù hợp với điều kiện phát triển trong tình hình mới, Đảng đã
đề ra nhiều nhiệm vụ cần phải thực hiện đó là: “Quan tâm chăm lo cơng tác giáo
dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng
yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân
dân, nhất là thanh niên”; “Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn
trọng và chấp hành pháp luật… đặc biệt là thế hệ trẻ” [4, tr.143]; khuyến khích,
tạo điều kiện để mọi người dân được phát huy các năng lực tự do sáng tạo trong
đời sống kinh tế, xã hội. Trong giáo dục con người, cần phải “Phát huy vai trị
của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng mơi trường văn hóa, con
người giàu lịng nhân ái, khoan dung, chân thành, tín nghĩa, trọng đạo lý, đức
tính cần cù, chăm chỉ, tiết kiệm, sáng tạo, hiện đại”; đề cao tinh thần gương
mẫu, tiên phong của người lãnh đạo, quản lý, tạo môi trường, khơng gian văn
hóa lành mạnh, dân chủ, nhân văn; khuyến khích tinh thần tự do, đổi mới sáng
tạo vì mục tiêu phát triển đất nước.
13


Khắc phục những khuyết tật của mặt trái nền kinh tế thị trường, tâm lý, lối
sống đề cao giá trị vật chất, đồng tiền ảnh hưởng nghiêm trọng đến đạo đức xã
hội và quá trình xây dựng, hình thành nhân cách con người, Văn kiện Đại hội
XIII đã đề ra yêu cầu phải “xây dựng văn hoá doanh nghiệp, doanh nhân và kinh

doanh”, “Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hoá trong lãnh đạo, quản lý.
Chú trọng xây dựng mơi trường văn hố cơng sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết,
nhân văn; đẩy lùi bệnh quan liêu, bè phái, mất đoàn kết, chủ nghĩa cơ hội và
thực dụng”, “Đề cao tính tiên phong, gương mẫu trong văn hố ứng xử của
người lãnh đạo, cán bộ, đảng viên trong các cơ quan, đơn vị”. Sự gương mẫu,
tiên phong của cán bộ, đảng viên và những người đứng đầu các cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng, làm gương và lan truyền cảm hứng,
những thông điệp nhân văn, lan tỏa những giá trị cao đẹp cho toàn thể nhân dân
trong cộng đồng. Trong mối quan hệ với kinh tế, văn hóa được là nguồn lực nội
sinh, là “sức mạnh mềm” để thúc đẩy quá trình phát triển nhanh và bền vững của
đất nước mà chúng cần phải phát huy.
Với những thành tựu đạt được và cả những hạn chế, yếu kém qua 35 năm
đổi mới đã đặt ra việc khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc là nhiệm vụ hết sức cấp thiết, là nguyện vọng ý chí của tồn dân trong bối
cảnh hiện nay. Để thực hiện được nguyện vọng ý chí của tồn dân, địi hỏi tồn
Đảng, tồn qn, tồn dân phải phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa truyền thống
và sức mạnh tinh thần thời đại của con người Việt Nam trong quá trình phát triển
đất nước.
2.3. Vai trị của văn hóa trong q trình phát triển bền vững đất nước
* Quan niệm về phát triển bền vững
Phát triển bền vững là khái niệm nhằm chỉ sự phát triển về mọi mặt trong xã
hội hiện tại, đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà vẫn khổng làm tổn hại, vẫn
đảm bảo sự tiếp tục phát triển, vẫn đáp ứng các nhu cầu đó trong tương lai xa và
hiện là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới và bảo vệ môi trường.
Dựa theo tình hình phát triển và đặc thù của kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn
hóa… mà mỗi quốc gia sẽ hoạch định chiến lược phát triển bền vững phù hợp nhất.
14


Khái niệm phát triển bền vững lần đầu tiên xuất hiện rõ rệt là trong “Chiến

lược bảo tồn thế giớï của Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) năm
4980. Và đến ngày nay, khái niệm này được chấp nhận một cách rộng rãi và
cũng là là khái niệm trong “Báo cáo Brunđtland” của Uỷ ban Môi trường và
Phát triển Thế giới (WCED) của Liên hợp quốc năm 1987 [9, tr.51].
Phát triển bền vững thể hiện quan điểm nhân văn, hiện đại hơn hẳn so với
quan điểm “phát triển bằng bất kì giá nào”, bởi lẽ phát triển bằng mọi giá chính
là việc mọi cá nhân, tổ chức khai thác, sử dụng tối đa các nguồn tài nguyên thiên
nhiên để phục vụ cho hoạt động phát triển không màng đến sự ảnh hưởng của nó
tác động đến chính q trình phát triển trong tương lai.
Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại
mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu đó của các thế hệ
tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, giải quyết
các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường.
Từ khái niệm đã nêu ở phần trên, có thể thấy phát triển bền vững phải
đảm bảo phát triển đầy đủ cả ba yếu tố: kinh tế, xã hội và môi trường. Ba yếu tố
này được ví như “kiềng ba chân”.
Phát triển bền vững về kinh tế. Phát triển kinh tế là một trong các yếu tố
của sự phát triển bền vững. Đó là sự phát triển nhanh, an toàn và phải chất
lượng. Phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế
trong đó cơ hội để tiếp xúc với những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện
thuận lợi và quyền sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt
động kinh tế được chia sẻ một cách bình đẳng. Đồng thời, nó phải tạo ra được sự
thịnh vượng chung dành cho tất cả mọi người chứ không chỉ tập trung vào số ít
người trong phạm vi giới hạn cho phép của hệ sinh thái và cũng không xâm
phậm tới những quyền cơ bản của con người.
Phát triển bền vững về xã hội. Phát triển bền vững về xã hội là sự phát
triển chú trọng vào công bằng; xã hội luôn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển con người và sẽ cố gắng để cho tất cả mọi người có cơ hội phát triển năng
lực của bản thân và có điều kiện sống có thể chấp nhận được.
15



Phát triển bền vững về môi trường. Môi trường cũng là một trong ba cái
chân cần được đảm bảo phát triển bền vững. Bền vững về môi trường là khi sử
dụng các yếu tố tự nhiên, chất lượng môi trường sống của con người bao gồm
khơng khí, nước, đất, khơng gian địa lý, cảnh quan vẫn phải được bảo đảm.
Đồng thời, phát triển bền vững về mơi trường địi hỏi chúng ta duy trì sự
cân bằng giữa bảo vệ mơi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tài nguyên
thiên nhiên phục vụ lợi ích con người. Mục đích là duy trì mức độ khai thác
những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định cho phép môi trường và tiếp
tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên trái đất.
* Vai trò văn hóa trong phát triển bền vững
Văn hóa vốn khơng phải là toàn bộ đời sống con người - xã hội, nhưng là
phần cốt tủy, là tinh hoa được chưng cất, kết tụ nên bản chất, bản sắc, linh hồn
của dân tộc, nó được thăng hoa từ hơi thở cuộc sống, từ năng lực và trình độ của
mỗi cá nhân, cộng đồng; và đến lượt mình, nó lại có mặt trong mọi hoạt động từ
suy tư đến hành động, từ hoạt động cá nhân đến hoạt động xã hội, từ hoạt động
vật chất đến hoạt động tinh thần.
Hơn nữa, văn hóa là phạm trù thuộc về con người, của con người, do con
người sáng tạo ra, vì cuộc sống và sự phát triển, hồn thiện của chính mình. Văn
hóa phân biệt con người với tự nhiên, làm cho con người trở thành người, làm
cho con người trở nên người hơn, là tính người, chất người. Mục tiêu cốt lõi
quan trọng nhất trong xây dựng văn hóa là xây dựng con người - nhân cách. Nói
cách khác, thơng qua vai trị nhân tố con người văn hóa, với đầy đủ phẩm chất,
trình độ, kỹ năng, năng lực cải tạo và hoạt động thực tiễn, bản sắc văn hóa dân
tộc sẽ trở thành nguồn động lực chi phối, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế,
xã hội, bảo vệ mơi trường sinh thái.
Vì vậy, có thể nói, văn hóa là yếu tố cốt lõi trong nền tảng tinh thần xã
hội, đồng thời là nguồn động lực to lớn và mạnh mẽ trong thúc đẩy quá trình
phát triển kinh tế, xã hội một cách hiệu quả và bền vững. Trong thành tựu chung

của công cuộc đổi mới có sự đóng góp rất lớn của sự nghiệp văn hóa. Đảng ta
16


ln quan tâm và đánh giá cao vai trị, vị trí của văn hóa đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ đất nước, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết
số 33 - NQ/TW ngày 9/6/2014 Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và
phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước xác định rõ mục tiêu: phải làm cho “văn hóa thực sự trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát
triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh” [7, tr.3].
Vai trò nền tảng và động lực của văn hóa trong phát triển bền vững thể
hiện trên trên tất cả các phương diện cơ bản của đời sống, từ kinh tế, xã hội đến
hoạt động khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái. Bản sắc văn hóa
dân tộc ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững trước hết vì nó là nền tảng tinh
thần, động lực và thơng qua mục tiêu của mình, nó đặt ra cho tất cả chiến lược,
kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường. Mọi kế hoạch phát triển
kinh tế, xã hội hay hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên… đều phải hướng
đến mục tiêu cao nhất và cơ bản nhất là bảo vệ con người, phục vụ con người,
nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Bất cứ chính sách, biện pháp kinh tế,
xã hội nào về sản xuất, lưu thông hay phân phối, về giá, lương, sản phẩm hàng
hóa, về an sinh xã hội… đều phải thực hiện mục tiêu cao nhất cũng như yêu cầu
cơ bản đó, tức là vì chính lợi ích của con người.
Mỗi nấc thang của tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội tạo ra bước phát triển
mới về văn hóa; văn hóa phát triển lại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội.
Mặt khác, phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái là nhằm mục tiêu
phát triển con người, hơn nữa, phát triển bền vững phải hướng tới xây dựng một xã
hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, con người được hạnh
phúc và phát triển toàn diện. Trước đây, để phát triển kinh tế, người ta thường nhấn

mạnh và khai thác yếu tố lao động của con người cho sự phát triển. Ngày nay, trong
điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, yếu tố quyết định
cho sự phát triển là trí tuệ, là thơng tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng nhằm
17


tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng
và phong phú của mỗi người cũng như của toàn xã hội.
Trong thời đại ngày nay, một nước giàu hay nghèo, xã hội ổn định hay bất
ổn… khơng chỉ ở chỗ có nhiều hay ít lao động, vốn, kỹ thuật và tài nguyên thiên
nhiên, mà chủ yếu ở chỗ có khả năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng sáng
tạo của nguồn lực con người hay không. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các
yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là trong ý chí tự lực, tự cường và khả năng hiểu
biết, trong tâm hồn, đạo lý, lối sống, trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân và của
cả cộng đồng, trong đó bản sắc văn hóa dân tộc là giá trị cốt lõi nhất.
Vì vậy, có thể nói, văn hóa vừa đóng vai trị là mục tiêu trước mắt và lâu
dài vừa là nền tảng và động lực căn bản của q trình phát triển bền vững. Theo
đó, để phát triển bền vững phải có một mơ hình tăng trưởng kinh tế, phát triển
xã hội xuất phát từ văn hóa và bằng tố chất văn hóa, đó là nguồn nhân lực chất
lượng cao. Bằng nguồn tài nguyên quý nhất, vốn quý nhất là con người, chúng
ta có thể làm chủ được khoa học và công nghệ, tạo ra sức mạnh tác động vào
hoạt động kinh tế, xã hội, khai thác tài nguyên thiên nhiên… theo chiều sức
mạnh thúc đẩy. Rõ ràng, một chính sách phát triển đúng đắn là chính sách làm
cho các yếu tố cấu thành văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực sáng tạo của
con người: văn hóa trong sản xuất, văn hóa trong quản lý, văn hóa trong lối
sống, văn hóa trong giao tiếp, văn hóa trong sinh hoạt gia đình, ngồi xã hội, văn
hóa trong giao lưu và hợp tác quốc tế, trong ứng xử với mơi trường tự nhiên…
Nói cách khác, hàm lượng trí tuệ, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời
sống con người càng cao bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội, hiệu
quả bảo vệ môi trường sinh thái trở nên hiện thực bấy nhiêu [8, tr.85].


18


KẾT LUẬN
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng ta khẳng định nền văn hóa mà
chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa
có vai trị đặc biệt quan trọng, là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Đồng thời Đảng ta cũng
chỉ rõ: Bảo đảm sự gắn kết nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng
chỉnh đốn Đảng là then chốt với khơng ngừng nâng cao văn hóa nền tảng tinh
thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của các lĩnh vực trên chính là điều
kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước.
Văn hóa dân tộc Việt Nam là tổng hồ những giá trị văn hố ổn định, bền
vững, phản ánh cốt cách, bản lĩnh và diện mạo của cộng đồng các dân tộc, được
hình thành, hun đúc và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử, hàm chứa sức
mạnh nội sinh to lớn, đồng thời là động lực quan trọng để cộng đồng các dân tộc
không ngừng phát triển. Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá
trình phát triển của mọi quốc gia dân tộc nói chung và Việt Nam nói riêng, đó là
quá trình kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát
triển xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo đảm quốc phịng, an ninh và
trật tự an tồn xã hội, nhằm tạo dựng một xã hội ổn định, văn minh và hạnh
phúc ở cả hiện tại và trong tương lai xa của đất nước. Văn hóa trong phát triển
bền vững là nhu cầu tất yếu, là phương hướng căn bản nhằm phát triển toàn diện
đất nước trong giai đoạn hiện nay.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998(, Văn kiện hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
6. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
7. Nghị quyết số 33 - NQ/TW ngày 9/6/2014 Hội nghị Trung ương 9 khóa
XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước.
8. Nguyễn Văn Thắng (2018), Giao lưu, tiếp biến văn hoá và bảo tồn bản
sắc văn hoá Việt Nam trong tồn cầu hố, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, sô
131/2018.
9. Vũ Văn Viễn (2016), Phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb Thời đại,
Hà Nội.

20



×