1
MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đơng Nam Á, trong q
trình phát triển của lịch sử, văn hóa Việt Nam có sự giao thoa của nhiều nền
văn hóa, từ Trung Quốc xuống, Ấn Độ sang và Đơng Nam Á hải đảo tạo nên
nền văn hóa rất phong phú đa dạng nhưng vẫn mang bản sắc riêng. Dân tộc
Việt Nam là quốc gia có truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” nên từ ngàn
xưa chúng ta luôn có thái độ trân trọng quá khứ, mỗi người Việt Nam khi sinh
ra đến lúc trở về với đất mẹ đều có niềm thành kính khi nhắc nhở về tổ tiên
của gia tộc và những vị anh hùng đã có cơng bảo vệ xây dựng đất nước.
Trong các hình thái tín ngưỡng dân gian, thờ cúng tổ tiên là một loại hình
tín ngưỡng cổ truyền mang tính phổ qt của người Việt Nam. Tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên xuất phát từ quan niệm, niềm tin: Tổ tiên mình là thiêng
liêng, họ đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn sống cạnh con cháu, họ phù hộ cho
con cháu khi gặp tai ách, khó khăn; vui mừng khi con cháu gặp may mắn,
khuyến khích cho con cháu khi gặp điều lành và cũng quở trách con cháu khi
làm những điều tội lỗi...
Ở nước ta, thờ cúng tổ tiên khơng chỉ là tín ngưỡng phổ biến ở người
Việt - tộc người đa số - mà còn lưu giữ ở nhiều tộc người như: người Mường,
người Thái, Sán Dìu... Trải qua bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, trong khi
nhiều tơn giáo, tín ngưỡng dân gian khác đã phải chịu cảnh long đong, bị kết
tội “mê tín dị đoan” nhưng tín ngưỡng thờ tổ tiên ln chiếm được vị trí
thiêng liêng trong đời sống tinh thần của người Việt. Ý thức “con người có tổ,
có tơng” được bảo tồn trong cõi tâm linh và lưu truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác, dù họ sống trên tổ quốc mình hay lưu vong nơi xứ người.
Trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng văn hóa trở thành
biên giới mềm giữa các quốc gia. Quá trình hội nhập, giao lưu văn hóa bên
cạnh những yếu tố tích cực ln có tiềm ẩn những nguy cơ làm mai một, xói
2
mòn những giá trị truyền thống tốt đẹp. Hiểu rõ, trân trọng tự hào và bảo tồn
phát triển những giá trị tốt đẹp của văn hóa Việt Nam là trách nhiệm của mỗi
thế hệ người Việt Nam chúng ta.
Xuất phát từ quan điểm đó, tơi chọn nghiên cứu và viết bài thu hoạch về
“Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam”.
3
NỘI DUNG
I. Khái quát tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt.
1.1. Khái niệm về tín ngưỡng
Tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức xã hội, là một yếu tố thuộc lĩnh
vực đời sống tinh thần, là hệ quả của các quan hệ xã hội được hình thành
trong q trình lịch sử, văn hóa – là biểu hiện niềm tin dưới dạng tâm lý xã
hội vào cái thiêng liêng thông qua hệ thống lễ nghi thờ cúng của con người và
cộng đồng trong xã hội.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là bộ phận của ý thức xã hội, là một loại
hình tín ngưỡng dân gian được hình thành từ thời nguyên thủy với niềm tin
thiêng liêng rằng tổ tiên đã chết sẽ che chở phù giúp cho con cháu được thể
hiện thơng qua lễ nghi thờ phụng. Nó là sự phản ánh hoang đường quyền
hành của người đứng đầu thị tộc phụ hệ, gia đình phụ quyền được duy trì và
phát triển trong xã hội có giai cấp sau này là sự biết ơn, tưởng nhớ và tôn thờ
những người có cơng sinh thành tạo dựng, bảo vệ cuộc sống như kỵ, cụ, ông,
bà, cha, mẹ, tổ nghề, thành hồng, Tổ quốc.
1.2. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Xuất phát đặc thù địa lý, khí hậu và nền văn hóa minh nơng nghiệp lúa
nước đã hình thành nên yếu tố tín ngưỡng bản địa: Tín ngưỡng sùng bái tự
nhiên, tín ngưỡng phồn thực… Xuất phát từ quan niệm “vạn vật hữu linh”,
người Việt cho rằng mỗi người sinh ra đều có một nhóm hồn nhất định, hồn
theo người Việt có quan hệ mật thiết với cuộc đời mỗi người. Nếu hồn thoát
khỏi xác con người sẽ chết. Nhưng chết khơng có nghĩa là hết. Quan niệm này
là cơ sở cho việc ra đời tín ngưỡng thờ cúng người đã mất và trước hết và
quan trọng nhất là thờ cúng ơng bà tổ tiên gia đình, dịng họ. Việc thờ cúng
4
vừa có ý nghĩa nhớ về cội nguồn, biết ơn cội nguồn, thể hiện lòng ước muốn
sự phù hộ độ trì cho người sống.
Việc thờ cúng này thể hiện mối quan hệ tâm linh giữa những người đang
sống và những người đã chết. Đó là sợi dây bền vững xuất phát từ tình cảm
cộng đồng nối quá khứ với hiện tại và tương lai nên tính liên tục trong sự đứt
đoạn của các cộng đồng tộc người từ gia đình – họ hàng – làng nước. Vì thế
thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng phổ biến trong nhiều dân tộc trên thế giới. Biểu
tượng về thờ cúng, tổ tiên là những hình ảnh đẹp đẽ mà con cháu nghĩ về tổ
tiên và tiến hành nghi lễ linh thiêng để nói lên sự ngưỡng mộ tôn vinh của
con cháu tổ tiên ln là hình ảnh về những người tài giỏi, có cơng có đức. Nơi
thờ tổ tiên thường có bài vị, ảnh.
Cùng là yếu tố mang tính lễ nghi là sự thực hành một loạt động tác của
người được quyền thờ cúng. Đó là hoạt động dưới dạng hành lễ được quy
định do quan niệm, phong tục, tập quán cho mỗi cộng đồng dân tộc. Nghi lễ
cúng được thực hiện bởi người trưởng gia đình dịng họ và các động tác dâng
lễ vật, khấn lễ.
Thờ và cúng là hai yếu tố tác động qua lại thống nhất với nhau trong tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Sự thờ và tơn thờ chính là nội dung cịn hành động
cúng là hình thức biểu hiện của nội dung thờ. Ý thức tôn thờ, thành kính, biết
ơn tưởng nhớ hi vọng sự trợ giúp, tránh sự trừng phạt của tổ tiên là nội dung
cốt yếu của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nếu khơng có thờ mà chỉ có cúng thì
bản thân tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên khơng có hồn thiêng, khơng có sự hấp
dẫn nội tại và dễ trở thành nhạt nhẽo vô vị. Sự “cúng” tuy chỉ là hình thức
biểu đạt song nó tơn vẻ linh thiêng, huyền bí, mờ ảo tạo nên sức hấp dẫn, nó
chính là hương vị màu sắc keo dính thỏa mãn niềm tin tơn giáo, đáp ứng nhu
cầu của chủ thể tôn giáo.
5
Tục thờ cúng tổ tiên dần dần được mở rộng khơng chỉ thờ những người
có cơng sinh dưỡng đã khuất mà cịn tơn thờ những người có cơng khai phá
mảnh đất đã nuôi dưỡng con người hay những người đã tạo nên những nghề
ni sống con người gắn bó thế hệ này và thế hệ khác. Lúc này tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong q
trình tiếp biến văn hóa diễn ra liên tục thì ảnh hưởng của văn hóa Trung
Quốc, Ấn Độ, Ả Rập và phương Tây đã tác động mạnh mẽ lên những mặt của
các thành tố văn hóa bản địa. Mặc dù vậy, dưới những tác động này tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên không những bị phai nhạt lãng qn cịn hết sức
phong phú đa dạng về hình thức biểu hiện lẫn nội dung và gắn với nhiều tôn
giáo khác. Chính vì vậy, thờ cúng tổ tiên ln là một nét văn hóa đặc trưng
trong văn hóa tín ngưỡng của người Việt Nam.
II. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
2.1. Đặc điểm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
Với niềm tin rằng tổ tiên ông bà sẽ phù hộ độ trì cho con cháu và về phần
mình, con cháu phải tỏ lịng biết ơn và tưởng nhớ đến người sinh thành ra
mình hầu hết các dân tộc đều có tục thờ cúng tổ tiên. Ơng cha ta đã tiếp nhận
ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa ở hai phương diện đó là sự mơ phỏng dòng
họ phụ hệ, hệ thống các nghi lễ phức tạp. Ngày giỗ các cụ trong nhà con cháu
phải có mặt thể hiện lịng trung thành với tổ tiên sau đó cùng thụ lộc tạo bầu
khơng khí ấm cúng. Đây chính là nét đặc trung trong tục thờ cúng tổ tiên của
người Việt thể hiện mối quan hệ duy trì sâu sắc.
Theo phép ứng xử của người Việt khi ông bà, cha mẹ cịn sống thì con
cháu phải vâng lời và phụng dưỡng chu đáo khi các cụ qua đời thì phải thờ
cúng tỏ lịng tơn kính. Đó vừa là tín ngưỡng vừa là đạo lý tốt đẹp của người
Việt. Người Việt là một trong những dân tộc có tục thờ cúng tổ tiên sâu đậm
6
và sớm nhất, nó gần như trở thành một tơn giáo: Đạo ơng bà. Nguyễn Đình
Chiểu trong Lục Vân Tiên đã viết:
Thà đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn sáng mắt ông cha không thờ.
Khác với những người phương Tây coi trọng ngày sinh, trong tục thờ
cúng tổ tiên người Việt coi trọng hơn cả là ngày mất bởi lẽ người ta tin rằng
đó là ngày con người đi vào cõi vĩnh hằng. Ngồi ngày giỗ thì việc cúng tổ
tiên cịn được tiến hành đều đặn vào ngày sóc vọng, dịp lễ tết... để cầu tổ tiên
phù hộ. Tục thờ cúng tổ tiên được mở rộng từ trong gia đình, dịng họ, làng xã
mà còn mở rộng cả nước. Trong nhà thờ gia tiên thì trong nước người Việt
thờ vua Hùng. Giỗ Tổ Hùng Vương được quy định là ngày Quốc giỗ từ thời
vua Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức (1470 - 1497) và ngày nay được Nhà
nước công nhận là Quốc giỗ.
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng 3.
Thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng hết sức quan trọng không chỉ đối với
người Việt. Bởi lẽ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là bộ phận cúa ý thức xã hội, là
loại hình tín ngưỡng dân gian được hình thành từ thời nguyên thủy với niềm
tin thiêng liêng rằng tổ tiên đã chết sẽ che chở phù giúp cho con cháu, được
thể hiện thông qua nghi lễ thờ phụng. Nó là sự phản ánh đức tin tâm linh về
quyền hành của người đứng đầu thị tộc phụ hệ, gia đình phụ hệ được duy trì
và phát triển trong xã hội có giai cấp sau này, là sự biết ơn tưởng nhớ về tôn
thờ những người có cơng sinh thành tạo dựng và bảo vệ cuộc sống.
Trước đây vấn đề này đã được nhiều nhà nghiên cứu chú ý đề cập đến.
Do tính chất quan trọng nên từ lâu nó đã trở thành đối tượng nghiên cứu
khơng chỉ của học giả trong nước mà cịn của các học giả nước ngoài đặc biệt
7
là người Pháp. Họ coi đây là tín ngưỡng rất sâu sắc, thống nhất trong toàn
dân, phát triển bền vững qua các thời đại. Trong thời kỳ Pháp thuộc, các học
giả Việt nam cũng cơng bố một số cơng trình về tục thờ cúng tổ tiên như Việt
Nam phong tục của Phan Kế Bính, Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy
Anh; Xã hội Việt Nam của Lương Đức Thiệp (1950), Nếp cũ của Toan Ánh
(1963)...
Sau khi miền Nam được giải phóng hồn tồn, đất nước thống nhất.
Cùng với sự đổi mới về kinh tế, chính sách tơn giáo của ta cũng mềm dẻo hơn
nên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được khôi phục lại và phát triển mạnh mẽ.
Gần đây có một số cơng trình nghiên cứu về tục thờ cúng tổ tiên được công
bố như các sách về địa lý: Địa chí Ninh Bình, Địa chí Vĩnh Phúc, Tín ngưỡng
làng xã – Vũ Khánh (1994), Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam –
Toan Ánh (1996)... và nhiều luận án khoa học tại các trường đại học cũng
đang được chú ý về vấn đề này.
Thông qua những nghiên cứu trên chúng ta có thể thấy rằng nhìn từ góc
độ văn hóa, tục thờ cúng tổ tiên của người Việt mang nhiều yếu tố tích cực.
Nó thể hiện tình cảm trân trọng và biết ơn đối với những người có cơng với
cộng đồng, những tổ phụ của ngành nghề. Tục lệ này còn là mối dây liên kết
chặt chẽ cá nhân với cộng đồng, tạo nên sức mạnh tổng hợp làm nên sức sống
của dân tộc trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
2.2. Một số yếu tố ảnh hưởng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
- Cách tổ chức sản xuất và đời sống của người Việt.
Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, khu vực Đông
Nam Á, ven biển Thái Bình Dương; Việt Nam có đường biên giới trên đất
liền dài 4.550 km tiếp giáp với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào và Căm-puchia ở phía Tây; phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông với đường bờ biển
dài 3200km. Trên bản đồ, dải đất liền Việt Nam mang hình chữ S, kéo dài từ
8
vĩ độ 23o23’ Bắc đến 8o27’ Bắc, dài 1.650 km theo hướng bắc nam, phần rộng
nhất trên đất liền khoảng 500 km; nơi hẹp nhất gần 50 km; rừng núi chiếm 2/3
diện tích, đồng bằng chiếm phần nhỏ, sơng ngịi dày đặc, khí hậu nhiệt đới ẩm
gió mùa. Với đặc thù vị trí địa lý như vậy, Việt Nam tạo có nền sản xuất nơng
nghiệp với phương thức canh tác lúa nước tiểu canh và chăn nuôi tiểu gia sức
gia cầm. Điều này khác hẳn với Trung Hoa cũng là canh tác nông nghiệp
nhưng căn bản là nông nghiệp khô quảng canh, chăn nuôi đại gia súc với
đồng cỏ lớn.
Làm lúa nước phải chăm lo đến thủy lợi. Nước cho cây lúa là việc hàng
đầu. Chính yếu tố này tạo thành sắc thái riêng trong tập quán sinh hoạt của cư
dân Việt. Yếu tố nước ảnh hưởng trực tiếp vào hoạt động thờ cúng tổ tiên đó
là chén nước lã khơng thể thiếu trên bàn thờ gia đình Việt Nam. Cư dân nơng
nghiệp lúa nước có cuộc sống định cư, những người sống gần nhau thành xóm
làng. Tính cộng đồng và tính tự trị là hai đặc trưng bao trùm nhất của làng xã.
Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là ngơi đình – cây đa – bến nước.
Trong đó ngơi đình là biểu tượng khái qt nhất, tập trung nhất của làng xã về
mọi phương diện. Tính tự trị của người Việt được thể hiện qua biểu tượng
truyền thống là lũy tre làng. Bên trong lũy tre làng, mỗi làng xã Việt Nam như
một quốc gia thu nhỏ được tổ chức chặt chẽ có kỷ luật.
Nói chung lối sống và cách ứng xử như vậy đã là những cơ sở cho tinh
thần tương thân tương ái đùm bọc lẫn nhau nhưng cũng đậm tính gia trưởng
cục bộ địa phương góp phần làm trì trệ xã hội phương Đơng trước cuộc sống
hiện đại.
- Cách tổ chức gia đình và xã hội.
Gia đình chính là đơn vị sản xuất kinh tế xã hội nhỏ nhất. Điều này có
nghĩa là mơ hình đại gia đình khơng phù hợp với nền kinh tế nơng nghiệp lúa
nước tiểu canh của Việt Nam. Vì thế mơ hình đại gia đình phụ hệ trưởng tộc
9
với hai yếu tố tôn pháp và quyền trưởng nam của trung Hoa khó áp dụng vào
Việt Nam.
Tuy nhiên mơ hình cơ cấu này có đặc điểm ưu việt là nó có tính quy củ
chặt chẽ rõ ràng gần như một pháp chế. Nét ưu việt này đã được truyền thống
Việt Nam tiếp nhận thâu tóm để tạo ra đặc thù phụ hệ gia trưởng cho cơ cấu
gia đình của mình. Hình thức thờ cúng phổ biến ở đây là trong từng tiểu gia
đình thành viên của dịng tộc mà vai trị chủ yếu là gia trưởng.
Trong gia đình Việt yếu tố dân chủ chất phác trong gia đình người Việt
khá lớn. Điều này thể hiện ở vai trò của người phụ nữ trong gia đình Việt có
vị trí khá cao. Đặc trưng này có một nguồn gốc ý thức hệ xã hội sâu sa đó là
chế độ Mẫu hệ tại Việt Nam nói riêng và Đơng Nam Á nói chung đồng thời
cũng có nguồn gốc từ thực tiễn canh tác, vai trị kinh tế, gia đình.
Với nét đặc trưng về cách tổ chức gia đình và xã hội trên ta thấy gia đình
Việt có tính chất và cơ cấu như một chỉnh thể hòa đồng trong tương quan dân
chủ có mối quan hệ duy trì chặt chẽ trên cơ sở huyết thống hơn là một chỉnh
thể của bộ máy quy củ nếu ta so sánh với gia đình Trung Quốc. Điều này cắt
nghĩa tại sao tục thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam chưa bao giờ là độc quyền gia
trưởng hoặc trưởng nam trong gia đình người Việt.
- Cách tổ chức sinh hoạt văn hóa tinh thần.
Người Việt Nam sống bằng canh tác nông nghiệp lúa nước nên sự gắn bó
với thiên nhiên càng lâu dài và bền chặt. Từ sự phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác nhau của tư duy tổng hợp và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tín ngưỡng đa
thần. Trong sự sùng bái tự nhiên đó có tục thờ thần động vật và thờ thần thực
vật. Từ quan niệm “vạn vật hữu linh” là thực sự thờ từng bộ phận của thiên
nhiên dẫn đến sùng bái con người là một tất yếu khách quan. Trong con người
có cái vật chất và tinh thần. Cái tinh thần khó nắm bắt nên người ta đã thần
10
thánh hóa nó bằng quan niệm linh hồn. Theo quan niệm của người Việt Nam,
người chết tuy khơng cịn là một thực thể hữu hình song nó vẫn tồn tại ở dạng
khác với mức độ cao hơn và người ta coi đó là cuộc sống chính, bất diệt là
nhân thần. Và mối quan hệ giữa người sống và người đã chết khơng phải là
mối quan hệ bình thường mà ở mức độ cao hơn đó là bằng tâm linh và thông
qua thờ cúng.
- Ảnh hưởng của Phật giáo.
Triết lý nhân sinh của Phật giáo đã ảnh hưởng khá sâu đậm tới lối sống
nếp nghĩ của người Việt. Phương châm “tự độ độ tha, tự giác giác tha” nhắc
nhở con người sống khơng phải vì mình mà cịn phải vì người khác trong
cộng đồng. Cộng đồng có ý nghĩa nhất với mỗi con người là gia đình. Trong
gia đình cha mẹ là người có cơng sinh thành dưỡng dục. Phận làm con phải
biết thờ phụng cha mẹ, tổ tiên. Người Việt tin đạo Phật thể hiện lòng biết ơn
cha mẹ bằng việc:
Đêm đêm khấn nguyện Phật trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
Ảnh hưởng Phật giáo trong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt trước tiên
được biểu hiện trong phương diện thời gian. Ngoài ngày kỵ nhật hay trong
nhà có chuyện vui buồn đột xuất hoặc những biến cố… người Việt đều tiến
hành thờ cúng tổ tiên. Về phương diện nghi lễ thì quy định bất thành văn
nhưng được người Việt tn thủ đó chính là khi tiến hành thờ cúng tổ tiên
người Việt luôn khấn “Nam mô a dì đà Phật” ba lần sau đó mới khấn tổ tiên.
Về mặt nghi thức thì ảnh hưởng qua lại của Phật giáo và tục thờ cúng tổ tiên
được biểu hiện ở hình thức cầu siêu hoặc rước chân nhang lên chùa. Sở dĩ thờ
tục thờ cúng tổ tiên được người Việt vận dụng ảnh hưởng Phật giáo là do tục
thờ cúng tổ tiên của người Việt có một xuất phát điểm là hướng về cội nguồn.
Khi đem Phật giáo vào tục thờ cúng tổ tiên và ngược lại là người Việt chỉ
11
muốn tìm đến chỗ dựa tinh thần có tính chất hệ thống cho tâm linh của người
đã khuất và người đang sống.
- Ảnh hưởng của Nho giáo.
Cùng với Phật, Nho giáo đã ảnh hưởng khá lớn tới đời sống tinh thần
trong đó có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Nó ảnh hưởng trong
cả một q trình lịch sử lâu dài và phức tạp. Ảnh hưởng ấy được biểu hiện rõ
trên hai phương diện: tục thờ cúng mang yếu tố cộng đồng và nó được biểu
hiện ở những nghi thức thờ cúng và tang tế.
Sở dĩ người Việt chấp nhận Nho giáo vào tục thờ cúng tổ tiên của mình
là bởi vì ý thức cội nguồn trong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt, mối giao
hòa tâm linh trong niềm tơn kính và tiếc thiêng cao độ với người đã khuất khi
gặp trong Nho giáo chữ “hiếu, kính, nhân”… Và khi thâu tóm Nho giáo vào
lĩnh vực này người Việt đã tìm đến chỗ dựa tinh thần, hành động.
Nội dung và nghi lễ thờ cúng của người Việt mang đậm tinh thần Nho
giáo. Bị thẩm thấu và khúc xạ qua yếu tố văn hóa bản địa, tinh thần Nho giáo
và sự biến đổi phù hợp với tâm thức người đọc. Người Việt thờ cúng tổ tiên
không khiên cưỡng nặng nề mà nó mang tính dung dị, đời thường giàu tính
thực tiễn. Ở những gia đình khơng có con trai con gái được quyền thừa tự,
được phần hương hỏa để thờ cúng tổ tiên. Trong dân gian lưu truyền câu ca
đề cao tính bình đẳng của người phụ nữ trong việc thờ cúng:
Phụ mẫu em cũng như phụ mẫu chàng
Hai bên phụ mẫu tạc bốn chữ vàng thờ chung.
Chịu ảnh hưởng của Nho giáo sâu sắc song tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
của người Việt vẫn có nét đặc thù mang bản sắc văn hóa Việt Nam.
- Ảnh hưởng của Đạo giáo.
12
Không chỉ chịu ảnh hưởng, tác động của Phật giáo, Nho giáo tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên của người Việt còn chịu ảnh hưởng khá sâu đậm của Đạo
giáo. Ngay từ đầu Đạo giáo du nhập vào nước ta mang đậm tính chất phương
sĩ ma thuật vốn có nguồn gốc từ những tín ngưỡng sa man giáo và ma thuật ở
Trung quốc. Trên cơ sở tín ngưỡng bản địa có tính đa thần và giàu chất trực
quan người Việt tìm đến và tin vào ma thuật của Đạo giáo như những phương
tiện hữu hiệu nhằm đáp ứng nhu cầu tình cảm tâm linh của họ.
Người Việt suy tôn những người có cơng xây dựng và bảo vệ cuộc sống
của cộng đồng thành thánh như: Thánh Gióng, Trần Quốc Tuấn… Trong nghi
thức thờ cúng tổ tiên thì các đồ cúng lễ như rượu, vàng mã hay lễ thức gọi
hồn người chết mang màu sắc Đạo giáo. Chính tính huyền bí, thốt tục của
Đạo giáo góp phần làm cho ý thức về tổ tiên có tính chất thiêng liêng tạo nên
sức hấp dẫn nội tại.
- Ảnh hưởng của Thiên chúa giáo.
Thiên chúa giáo là tôn giáo gia nhập vào Việt Nam khá muộn hơn so với
tam giáo. Để tồn tại và phát triển, Thiên chúa giáo đã hòa giải những xung
đột, canh tân để hịa với tơn giáo bản địa. Tuy nhiên người Việt có tinh thần
khoan dung và cởi mở. Họ tin thần, thánh, chúa đều phù hộ độ trì cho con
người và khi tin họ thờ phụng theo quan niệm và nghi thức riêng. Hơn nữa
trong tâm thức người Việt, hình ảnh Đức Mẹ khơng xa là với tục thờ Mẫu, thờ
Giesu không mâu thuẫn với thờ người đã hy sinh cống hiến đời mình cho lợi
ích cộng đồng.
Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt khơng những chỉ
chịu ảnh hưởng của các tôn giáo ngoại nhập mà cịn có sự ảnh hưởng ngược
lại chính là sự bản địa hóa Việt hóa chính các tơn giáo đó. Tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên đóng vai trị quan trọng trong sự dung hợp các tôn giáo ở Việt
Nam.
13
2.3. Quan hệ của tục thờ cúng tổ tiên với các tục lệ khác
Nói chung tục thờ cúng tổ tiên bên cạnh việc tưởng nhớ tổ tiên nó cịn
bao hàm các tục lệ khác như : hệ thống thờ các anh hùng liệt sỹ có cơng, thờ
chủ tịch Hồ Chí Minh, thờ những vị tổ có cơng giúp dân giúp nước, thờ thổ
công, tao quân... Điều này đã khiến phạm vi quy mô của tục thờ tổ tiên được
mở rộng.
- Từ thờ cúng tổ tiên đến thờ Thành hoàng và thờ Tổ Hùng Vương.
Sự gắn bó cá nhân, gia đình, dịng họ, làng xã, đất nước là nét cố hữu của
đời sống tinh thần người Việt. Điều này được thể hiện trước hết ở sự thờ cúng
tổ tiên như một hệ thống nhiều cấp, nhiều khâu. Trong tục lệ này người Việt
mở rộng phạm vi xã hội là có hệ thống thờ những người có cơng với cộng
đồng đó là những người khai sinh ra đất nước hay mở rộng thiết lập địa bàn
cư trú. Đó là hệ thống thờ thành hoàng làng và cao hơn nữa là thờ tổ của đất
nước: Vua Hùng.
Ở người Việt có một nét đặc thù về thờ cúng tổ tiên: Tổ tiên gia đình và
tổ tiên đất nước gắn chặt với nhau trong tưởng niệm và thờ cúng. Trên thế
giới ít có bộ tộc người tưởng niệm và thờ cúng những tổ tiên đầu tiên của
mình như tục thờ các Vua Hùng ở Việt Nam.
Trong ý thức người Việt thờ cúng tổ tiên cả nước, các Vua Hùng đã khắc
sâu hàng trăm năm, nếu không nói là hàng ngàn năm đó là hệ thống tơn giáo
dân tộc của nước ta xuyên suốt lịch sử cho đến ngày nay. Tạo thành một hệ
thống song hành với thờ cúng tổ tiên của từng gia tộc, từng gia đình cái này
nương tựa cái kia khơng thể tách rời.
III. Nhận xét.
Thờ phụng tổ tiên là sự tự ý thức về thế giới bên kia, ý thức về tông tộc,
về cơng ơn của những người có cơng sinh thành, ni dưỡng, xây dựng và
14
bảo vệ cuộc sống, là sự phản ánh “hư ảo” quyền uy của người gia trưởng
trong gia đình, dịng họ thông qua hệ thống lễ nghi thờ cúng.
Tổ tiên thoạt đầu là tổ tiên Tô-tem giáo của thị tộc sau là tổ tiên theo
huyết thống trong chế độ phụ quyền cũng là một lực lượng siêu nhiên được
con người thờ phụng trên cơ sở niềm tin rằng tổ tiên tuy đã mất song linh hồn
vẫn tồn tại có thể che chở cứu giúp con cháu hiện tại. Thờ phụng tổ tiên cũng
là ý thức về cội nguồn thể hiện lòng tơn kính biết ơn những người có cơng
sinh thành dưỡng dục. Vì vậy, đây là một loại hình tín ngưỡng dân gian mang
nhiều tập tục. Tục lệ này ở Việt Nam có những sắc thái riêng so với tồn nhân
loại. Và trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam thì người Việt thể hiện nhiều
nét đặc trưng điển hình nhất trong thờ cúng tổ tiên.
Tính đặc thù ấy là kết quả tổng hợp từ những đặc trưng về dân tộc, tâm
lý, tình cảm… trên nền tảng chung của mơi trường tự nhiên Việt Nam. Tất cả
những yếu tố đó lại được đặt vào trong một diễn trình lịch sử đặc biệt của
Việt Nam. Điều này làm cho tục thờ cúng tổ tiên của người Việt có những nét
chung của nhân loại, của khu vực nhưng vẫn mang nét riêng của mình.
Với người Việt hiện nay thờ cúng tổ tiên vẫn hoàn toàn bảo lưu được yếu
tố tâm linh như ông bà. Điều này có nghĩa những giá trị tâm linh cổ xưa vẫn
tồn tại đầy đủ những sức sống của nó trong nghi thức thờ cúng tổ tiên của
người Việt hiện nay. Thờ cúng tổ tiên ở người Việt được “cố định” ở một
chiều sâu tâm thức không phai nhạt. Người Việt có sự khẳng định con người,
cá nhân, khơng đoạn tuyệt với “dịng giống” dù là trên phạm vi dân tộc hay
phạm vi gia đình. Trong khi hướng tới tương lai người Việt không hề cắt đứt
với quá khứ. Ký ức lịch sử, ký ức gia đình càng sâu đậm thì sự khẳng định
con người cá nhân càng sâu sắc. Thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam cũng máu thịt
cho dù mơi trường xã hội có thay đổi thế nào đi chăng nữa.
KẾT LUẬN
15
Từ xưa đến nay, đời sống tâm linh luôn là một nhu cầu có ý nghĩa đối
với cuộc sống của mỗi con người và toàn xã hội. Nhận thức đầy đủ và trân
trọng những giá trị cốt lõi, nhân văn trách nhiệm của mỗi dân tộc. Trong tiến
trình hội nhập quốc tế, trong sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ,
những giá trị tinh thần của các hoạt động tín ngưỡng khơng hề mất đi mà cịn
phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, bên cạnh những những giá trị to lớn và ý
nghĩa đã được khẳng định, mỗi chúng ta cần có thái độ đúng đắn khách quan
nhằm khơng ngừng phát huy những yếu tố tích cực và sẵn sàng tiếp thu những
nhân tố mới tiến bộ của các nền văn hóa khác nhằm làm phong phú thêm văn
hóa và khắc thêm nét riêng biệt của dân tộc.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không chỉ là sự tưởng nhớ của con người về
tổ tơng mà hơn thế nó cịn là một nhân tố có vai trị định hướng, giáo dục
những giá trị nhân văn, giá trị truyền thống gia đình, giáo dục truyền thống
đất nước; qua các hoạt động tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có vai trị giáo dục
truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết dân tộc; hình thành hệ miễn dịch,
sự phản kháng đối với những trào lưu phi văn hóa truyền thống, những lối
sống gấp gáp thích hưởng thụ của một bộ phận thiếu tu dưỡng trong xã hội.
Hơn dân tộc nào trên thế giới, Việt Nam hiểu được sức mạnh nội tại của
truyền thống văn hóa, bản sắc văn hóa khi nó là yếu tố giúp đất nước có được
những chiến thắng trước nhiều kẻ thù lớn của dân tộc. Vì thế mỗi người Việt
Nam không được phép quên gốc gác, cội nguồn, biết q trọng những gì mà
cha ơng đã xây dựng lên. Chúng ta cũng không thể quên được lời Bác Hồ đã
nói khi người tổng kết về truyền thống của dân tộc:
Các vua Hùng đã có cơng dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.
16
Tài liệu tham khảo.
1. Toan Ánh. Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam. NXB Văn hóa
dân tộc. Hà Nội, 1996.
2. Phạm Đức Dương. Đông Nam Á học Việt Nam – đối tượng và phương
pháp tiếp cận. Viện nghiên cứu Đông Nam Á. Hà Nội, 1995.
3. Phạm Đức Dương. Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh Đơng Nam Á. NXB
Khoa học xã hội. Hà Nội, 2000.
4. Trần Văn Giàu. Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam. NXB
Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
5. Bùi Tất Niên. Gia lễ. NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
6. Phan Ngọc. Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới. NXB Văn hóa Thơng
tin. Hà Nội, 1994.
7. Lê Xn Quang. Thờ thần ở Việt Nam. NXB Hải Phòng, 1996.
8. Nguyễn Minh San. Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam. NXB Khoa học
Xã hội. Hà Nội, 1994.
9. Ngô Văn Doanh. Những phong tục độc đáo Đông Nam Á. NXB Văn hóa
Thơng tin. Hà Nội, 1996.
10. Ngơ Đức Thịnh (chủ biên). Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt
Nam. NXB Khoa học Xã hội, 2001.