Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

ảnh hưởng của tín ngưỡng tôn giáo đến đời sống tinh thần của người việt nam trong xã hội hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.61 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI:
ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG TƠN GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH
THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TRONG XÃ HỘI HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn
Họ và tên sinh viên: ….................
MSSV:….........................
Mã lớp bài tập…..................……

Hà Nội, tháng .... năm ........


TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI:
ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG TƠN GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH
THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TRONG XÃ HỘI HIỆN NAY
Điểm

Nhận xét của giảng viên

Giảng viên hướng dẫn


Họ và tên sinh viên…………Mssv……….Mã lớp bài tập………….

Hà Nội, tháng 8 năm 2020


MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
1.

Lý do chọn đề tài...............................................................................1

2.

Tổng quan đề tài................................................................................1

3.

Mục đích nghiên cứu.........................................................................2

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.....................................................2

5.

Phương pháp nghiên cứu đề tài.........................................................2

6.

Đóng góp của đề tài...........................................................................2


7.

Kết cấu cấu đề tài...............................................................................2

II. NỘI DUNG.................................................................................................3
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC TƠN GIÁO TẠI VIỆT
NAM.............................................................................................................3
1.1. Lý luận về tơn giáo.............................................................................3
1.1.1. Khái niệm....................................................................................3
1.1.2. Số lượng thành viên của các tô giáo lớn.....................................3
1.2. Giới thiệu về Phật giáo và Công giáo.................................................4
1.2.1.

Phật giáo...................................................................................4

1.2.2.

Công giáo.................................................................................6

CHƯƠNG II: ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG TƠN GIÁO ĐẾN
ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY..................8
2.1. Tác động tích cực...............................................................................8
2.2. Tác động tiêu cực.............................................................................11
CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẤU TRANH CHỐNG LỢI
DỤNG VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.....................14
i


3.1. Đối với bộ ngành, địa phương và Đảng viên...................................14

3.2. Đối với toàn dân...............................................................................16
3.2.1. Tăng cường tuyên truyền về quyền của đồng bào các dân tộc
thiểu số................................................................................................16
3.2.2. Chăm lo xây dựng hệ thống chính trị ở các địa bàn vùng dân tộc
thiểu số, vùng sâu, vùng xa,................................................................17
3.2.3. Thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế,
xã hội,..................................................................................................17
3.2.4. Làm tốt cơng tác nắm tình hình, kịp thời phát hiện, đấu tranh. 17
III. KẾT LUẬN.............................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................20

ii


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với vấn đề dân tộc, tôn giáo cũng là lĩnh vực rất phức tạp, nhạy cảm
trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay. Sau ngày đất nước ta được độc
lập thống nhất, các thế lực thù địch thường lợi dụng tơn giáo vì mục đích
chính trị để làm nảy sinh mâu thuẫn, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
nhằm chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng, Nhà nước và
nhân dân. Hơn nữa, để đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tơn giáo của một bộ
phận nhân dân, việc quan tâm thực hiện có hiệu quả cơng tác tơn giáo là một
địi hỏi thường xun đặt ra đối với Đảng, Nhà nước ta trong quá trình lãnh
đạo, điều hành đất nước, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Hơn ba thập kỷ vừa qua, cùng với những thành quả to lớn, có ý nghĩa lịch
sử của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, chúng ta không thể không kể
đến những thành quả đạt được trên lĩnh vực công tác tôn giáo của Đảng, Nhà
nước ta. Để có được thành quả trên lĩnh vực quan trọng này, Đảng ta đã trải
qua một quá trình đổi mới nhận thức tương đối lâu dài, đồng thời Nhà nước

cũng đã khơng ngừng củng cố và hồn thiện hệ thống chính sách pháp luật về
tơn giáo. Do đó, sau một thời gian tìm hiểu, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Ảnh
hưởng của tín ngưỡng tơn giáo đến đời sống tinh thần của người Việt
Nam trong xã hội hiện nay” để có cái nhìn sâu và rộng hơn đồng thới tiếp
thu thêm những kiến thức thú vị.
2. Tổng quan đề tài
Tiểu luận đã nêu ra được một cách tổng quát lý luận chung về các tôn
giáo tại Việt Nam.
Tiểu luận cũng chỉ ra được những ảnh hưởng theo chiều hướng tích cực
và tiêu cực của tín ngưỡng tôn giáo đến đời sống tinh thần của người Việt.

1


3. Mục đích nghiên cứu
+ Nghiên cứu lý luận về tín ngưỡng tơn giáo
+ Tìm hiểu về phật giáo và công giáo- 2 tôn giáo lớn tại Việt Nam
+ Sự ảnh hưởng của tín ngưỡng tơn giáo đến đời sống tinh thần người Việt
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Bài tiểu luận tập chung nghiên cứu về các khái niệm cũng như lý luận
về các vấn đề liên quan đến tín ngưỡng tơn giáo.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Bài tiểu luận sử dụng phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp
nghiên cứu tài liệu, ngồi ra cịn sử dựng các phương pháp khác như: Phương
pháp diễn dịch, Tư duy lơgic…
6. Đóng góp của đề tài
Tiểu luận tập chung nghiên cứu về những ảnh hưởng của tín ngưỡng tơn
giáo đến người Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ Việt Nam nói riêng. Từ đó
nhận thức được ảnh hưởng tốt để tiếp tục phát huy và những ảnh hưởng tiêu
cực để hạn chế.

7. Kết cấu cấu đề tài
Đề tài ngồi phần mở đầu và kết luận thì gồm những nội dung chính
như sau:
Chương I: Giới Thiệu Chung Về Các Tơn Giáo Tại Việt Nam
Chương II: Ảnh Hưởng Của Tín Ngưỡng Tôn Giáo Đến Đời Sống Tinh Thần
Người Việt Nam Hiện Nay
Chương III: Một Số Biện Pháp Đấu Tranh Chống Lợi Dụng Vấn Đề Tôn Giáo
Ở Việt Nam Hiện Nay

2


II. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC TÔN GIÁO TẠI
VIỆT NAM
1.1. Lý luận về tôn giáo
1.1.1. Khái niệm
Tôn giáo tại Việt Nam khá đa dạng, gồm có Phật giáo (cả Đại thừa,
Tiểu thừa và một số tông phái cải biên như Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu
Sơn Kỳ Hương, Tịnh độ cư sĩ Phật hội), Kitô giáo (gồm Công giáo và Tin
Lành), tôn giáo nội sinh như đạo Cao Đài, và một số tôn giáo khác (Ấn Độ
giáo và Hồi giáo). Các loại hình tín ngưỡng dân gian cũng có nhiều ảnh
hưởng tại Việt Nam.
Một lượng đáng kể người dân tự xem mình là người khơng tơn giáo,
hoặc ít ra là trên giấy tờ thể hiện như vậy, mặc dù họ có đi đến các địa điểm
tơn giáo vào một vài dịp trong năm. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng có chỗ
đứng rất quan trọng trong tâm tưởng của đa phần người dân Việt Nam, được
thực hành bởi đa số dân cư dù họ có theo tôn giáo nào hay không.
1.1.2. Số lượng thành viên của các tô giáo lớn
Theo số liệu cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2019

thì cả nước có hơn 13,162 triệu người xác nhận theo một trong những tơn giáo
được đăng ký chính thức. Năm tơn giáo lớn nhất là Cơng giáo, Phật giáo, Hịa
Hảo, Tin Lành, và Cao Đài; các tôn giáo khác chiếm tỷ trọng nhỏ. Ban Tơn
giáo Chính phủ là cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về cơng tác tơn giáo,
tín ngưỡng.
Các nguồn cho thấy các số liệu khác nhau về tôn giáo tại Việt Nam.

3


1.2. Giới thiệu về Phật giáo và Công giáo
1.2.1. Phật giáo
Giới thiệu chung
Phật giáo hay Đạo Phật, Đạo Bụt là một tôn giáo hoặc hệ thống triết
học bao gồm một loạt các giáo lý, tư tưởng triết học cũng như tư tưởng cùng
tư duy về nhân sinh quan, vũ trụ quan, thế giới quan, giải thích tự nhiên, tâm
linh, bản chất sự việc, xã hội và các phương pháp thực hành, tu tập dựa trên
giáo pháp (lời dạy) của một nhân vật lịch sử là Siddhārtha Gautama (Tất-đạtđa Cồ-đàm) và các truyền thống, tín ngưỡng được hình thành trong q trình
truyền bá, phát triển Phật giáo sau thời của Siddhārtha Gautama. Siddhārtha
Gautama thường được gọi là Bụt hay Phật hoặc người giác ngộ, người tỉnh
thức. Theo kinh điển của Phật giáo, cũng như các tài liệu khảo cổ đã chứng
minh, Siddhārtha Gautama đã sống và giảng đạo ở vùng đông bắc Ấn Độ xưa
(nay thuộc Ấn Độ, Nepal, Bhutan) từ khoảng thế kỉ thứ 6 TCN đến thế kỉ thứ
4 TCN.
Phật giáo hiện nay có số tín đồ cao nhất cả nước (theo số liệu của Ban
Tơn giáo Chính phủ năm 2017). Theo thống kê dân số năm 2019 thì số tín đồ
Phật giáo là 9,6 triệu người, chiếm 45,3% tổng số người theo tôn giáo và
chiếm 8,3% dân số cả nước. Còn theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo
4



Việt Nam, cả nước có gần 45 triệu tín đồ đã quy y Tam bảo, có 839 đơn vị gia
đình Phật tử và khoảng 44.498 tăng ni; hơn 14.775 tự, viện, tịnh xá, tịnh thất,
niệm Phật đường trong cả nước. Ngoài ra từ 80% đến 90% dân số Việt Nam
mang thiên hướng Phật giáo. Địa phương có số tín đồ Phật giáo đơng nhất cả
nước là Thành phố Hồ Chí Minh với 1.570.220 người.
Hai nhánh phật giáo
Sau khi Siddhārtha Gautama qua đời thì Phật giáo bắt đầu phân hóa ra
thành nhiều nhánh và nhiều hệ tư tưởng khác nhau, với nhiều sự khác biệt,
mặc dù cùng có xuất phát từ tư tưởng của Phật giáo nguyên thủy. Có hai
nhánh Phật giáo ở Việt Nam là Đại thừa và Tiểu thừa.
Phật giáo Đại thừa lần đầu tiên từ Trung Quốc vào tới vùng đồng bằng
châu thổ sông Hồng của Việt Nam từ khoảng năm 200 và trở thành tôn giáo
phổ biến nhất trên toàn đất nước, trong khi Phật giáo Tiểu thừa từ Ấn Độ du
nhập vào phía nam đồng bằng sông Cửu Long từ khoảng năm 300 - 600 và
trở thành tơn giáo chính ở vùng đồng bằng phía nam Việt Nam.
Có thuyết khác lại cho rằng Phật giáo bắt đầu truyền vào Việt Nam
trong khoảng thế kỉ thứ ba đến thế kỉ thứ hai trước công nguyên từ Ấn Độ
theo đường biển chứ không phải từ Trung Hoa. Lúc đầu Phật giáo tại Việt
Nam (đồng bằng châu thổ sông Hồng) mang màu sắc của Phật giáo Tiểu thừa
nhưng về sau do ảnh hưởng của Trung Hoa mời chuyển dần thành Đại thừa.

Phật giáo Đại thừa được nhiều người thừa nhận là tơn giáo chính của
người Việt, người Hoa và một số dân tộc thiểu số sinh sống ở miền núi phía
Bắc như Mường, Thái, Tày... Phật giáo Đại thừa tại Việt Nam có ba tơng phái
chính là Thiền tơng, Tịnh Độ tông và Mật tông. Trong thực tế Phật giáo Đại
thừa ở Việt Nam tồn tại hòa hợp với Đạo giáo, Khổng giáo và các đức tin bản
địa như tục thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu.
5



Phật giáo Tiểu thừa thì lại được coi là tơn giáo chính của người Khmer
tại Việt Nam.
1.2.2. Cơng giáo
Giới thiệu chung
Công giáo là một thuật ngữ rộng được sử dụng đặc biệt trong ngữ cảnh
Kitô giáo, xuất phát từ chữ Hy Lạp καθολικός (katholikos) có nghĩa "chung"
hay "phổ quát". Như vậy thuật ngữ Công giáo hay Đại công trong tiếng Việt
được dùng để dịch chữ καθολικός, catholicus hoặc catholique, với ý nghĩa đó
là đạo chung, đạo phổ quát, đón nhận mọi người, chứ không riêng cho dân tộc
hay quốc gia nào. Công giáo được dùng với một số nghĩa như sau:
+ Do ảnh hưởng lịch sử và hiện tại của Giáo hội Công giáo Rôma,
"Công giáo" thường được dùng để chỉ hệ thống niềm tin tôn giáo của giáo
hội.
+ Sau cuộc Đại Ly giáo năm 1054, Đông phương dần thường được gọi
là Chính thống giáo trong khi Tây phương gắn với tên gọi Công giáo.
+ Thuật ngữ này cũng được dùng để đề cập đến các giáo hội Công giáo
về bản chất qua việc họ tuyên bố giữ niềm tin Cơng giáo và có tính tơng
truyền như Giáo hội Chính thống giáo Đơng phương, Giáo hội chính thức của
Anh hay các Giáo hội Công giáo Cổ và một số giáo hội khác.
+ Được dùng để phân biệt giáo hội Kitô giáo tiên khởi (Duy nhất,
Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền) với các nhóm lạc giáo.
Các giáo hội tuyên bố mình là "Cơng giáo"
Giáo hội Cơng giáo Rơma
Giáo hội Cơng giáo Rôma là giáo hội lớn nhất trong số các nhóm tự gọi
mình là Cơng giáo. Một số người cũng dùng cách gọi "Công giáo Rôma" để
đề cập tới thành phần chiếm đa số trong giáo hội và theo nghi thức Latinh, là
Giáo hội Latinh. Như trên có đề cập, thuật ngữ "Công giáo" thường được
6



dùng để nói về "Cơng giáo Rơma". Từ "Rơma" dùng để chỉ vai trị trung tâm
của Giáo hồng Rơma đối với giáo hội này và theo định nghĩa mọi tín đồ
Cơng giáo Rơma có sự hiệp thơng trọn vẹn với vị Giáo hoàng này khi là thành
phần của Giáo hội Latinh (Tây phương) chiếm đa số hay thuộc 22 Giáo hội
Cơng giáo Đơng phương nhỏ hơn, chấp nhận "quyền bính trọn vẹn. tối cao,
phổ quát trên Hội thánh" của Giáo hồng tại Rơma (Điều 882 Giáo lý Hội
thánh Cơng giáo).
Các nhóm Cơng giáo khác
Trong Kitơ giáo Tây phương các nhóm chính tự xem là "Cơng giáo"
mà khơng có sự hiệp thơng đầy đủ với Giáo hồng là Giáo hội Cơng giáo
Thượng cổ (Ancient Catholic, Giáo hội Công giáo Cổ tại Hà Lan), các Giáo
hội Công giáo Cổ (Old Catholic, tách khỏi Giáo hội Công giáo Rôma năm
1870), Hội Công giáo Yêu nước Trung Quốc, các Giáo hội Công giáo Độc lập
(Independent Catholic) như các nhóm ở Philippines, Brazil, Ba Lan và một số
thành phần của Anh giáo (Thượng Giáo hội hay Cơng giáo Anh). Các nhóm
này giữ các niềm tin tinh thần và thực hành nghi lễ tôn giáo tương tự như
Cơng giáo Rơma nghi lễ La-tinh mà từ đó họ xuất phát, nhưng từ chối địa vị
và thẩm quyền của Giáo hồng. Một số nhóm Cơng giáo Truyền thống chủ
nghĩa khơng chấp nhận một phần hoặc tồn bộ các cải cách của Cơng đồng
Vatican II cũng ở tình trạng tương tự.
Các sách nhập môn về Anh giáo thường đề cập đến đặc tính của truyền
thống Anh giáo là bao gồm cả "Công giáo và Cải cách", Anh giáo
(Anglicanism) về thực hành có thể được chia thành 2 cánh chính: Thượng
Giáo hội (High Church), cịn được gọi là Cơng giáo Anh (AngloCatholicism), và Hạ Giáo hội (Low Church), còn được gọi là trường phái Tin
lành. Mặc dù tất cả các thành tố bên trong Anh giáo đều áp dụng các tín điều
như nhau nhưng Anh giáo Hạ Giáo hội xem chữ "Cơng giáo" theo ý nghĩa lý
tưởng, cịn Anh giáo Thượng Giáo hội xem đó là tên gọi cho tồn thể Giáo
7



hội hoàn vũ mà họ là một bộ phận cùng với Cơng giáo Rơma và các giáo hội
Chính thống giáo.
Cơng giáo Anh giữ nhiều nét giống với nghi lễ La-tinh của Công giáo
Rôma cũng như nhiều yếu tố tinh thần có liên quan, như niềm tin và thực
hành 7 bí tích, tin vào sự Hiện diện thực sự của Chúa Kitơ trong Tiệc thánh,
tơn kính Nữ Đồng trinh Maria và các thánh, gọi người đã được truyền chức là
"linh mục" – được xưng hô là "cha" – mặc lễ phục trong các nghi thức lễ nhà
thờ, và đôi khi gọi hy lễ Tạ ơn là lễ "Missa". Cánh Công giáo Anh của Anh
giáo phát triển chủ yếu vào thế kỷ thứ 19 và có liên hệ mạnh mẽ với Phong
trào Oxford. Hai người lãnh đạo nổi bật của phong trào, John Henry Newman
và Henry Edward Manning, vốn đều là giáo sĩ Anh giáo, sau này gia nhập
Giáo hội Công giáo Rơma và trở thành Hồng y.
Một vài giáo hội Chính thống giáo Đơng phương và Chính thống giáo
Đơng phương phi Chalcedon tự xem là giáo hội Công giáo chân thực và hoàn
vũ, và xem các giáo hội khác cùng hệ thống hoặc các giáo hội Công giáo Tây
phương là lạc giáo và rời bỏ Giáo hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và
Tông truyền. Thượng phụ của các giáo hội Chính thống giáo này là các tổng
giám mục độc lập, nghĩa là mỗi vị không bị một vị khác giám sát trực tiếp
khác (mặc dù vẫn ở dưới quyền, tuỳ theo truyền thống riêng của họ, của hội
đồng giám mục hoặc quyết định chung của các thượng phụ cùng hiệp thơng
với nhau).
CHƯƠNG II: ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG TƠN GIÁO
ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Tác động tích cực
Trong bối cảnh các sinh hoạt tơn giáo được khởi sắc, nhiều phong tục,
tập quán chứa đựng giá trị nhân văn của dân tộc cũng được phục hồi trở lại và
được thực hành sống động trong đời sống xã hội. Các phong tục như đi lễ
8



chùa đầu năm, ăn chay, phóng sinh gắn với những biến đổi của Phật giáo là
những ví dụ điển hình.

Đi lễ chùa đầu năm là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của người dân
Việt Nam từ ngàn xưa. Sau lễ giao thừa, người dân lên chùa cầu cho gia đình
một năm mới bình an, hạnh phúc, đất nước được thái hòa,... Những năm gần
đây, cùng với đà phát triển của đất nước, nhiều ngôi chùa được trùng tu và
xây mới khang trang ở khắp các tỉnh, thành. Người đi lễ chùa vào các ngày
rằm, mùng một hằng tháng, vào dịp lễ tết ngày càng đông hơn. Sau nghi lễ
giao thừa chào đón năm mới, đền, chùa và các cơ sở thờ tự của tín ngưỡng
dân gian ln nườm nượp khách dâng hương. Khơng khí nhộn nhịp này diễn
ra từ ngày đầu năm mới đến hết tháng Giêng.
Ăn chay (Chữ chay nguyên âm là Trai, dịch từ nguyên nghĩa chữ Phạn
- Upavasatha, có nghĩa là Thanh tịnh), theo quan niệm của đại đa số tín đồ
Phật giáo (Bắc tơng) Việt Nam, ăn chay mang đến cho con người thân tâm
thanh tịnh và lòng từ bi với chúng sinh. Ngày nay, số người theo Phật giáo và
thực hành ăn chay ngày càng nhiều. Để đáp ứng nhu cầu của Phật tử, nhiều
chùa thường tổ chức nấu cơm chay phục vụ tín đồ đi lễ vào các ngày rằm,
mùng một. Bên cạnh đó, có khá nhiều quán ăn, nhà hàng chuyên phục vụ đồ
chay cho nhu cầu ăn chay ngày càng đông của người dân. Tuy nhiên, không
phải 100% số người ăn chay ở Việt Nam hiện nay đều là tín đồ Phật giáo,
nhưng đa phần trong đó đều có ảnh hưởng từ niềm tin Phật giáo.
Tục phóng sinh (bắt nguồn từ Phật giáo Trung Quốc) cũng mang ý
nghĩa sâu xa nhằm chuyển tải thông điệp từ bi và tôn trọng sự sống mn lồi
của Đức Phật. Phong tục này đã có ảnh hưởng từ lâu trong dân gian Việt Nam
và những năm gần đây cũng được một số nhà tu hành Phật giáo quan tâm
phục hồi trở lại.
9



Có thể nói, đi lễ chùa đầu năm, ăn chay, phóng sinh là những phong tục
đẹp được duy trì trong sinh hoạt Phật giáo ở Việt Nam, đã góp phần giáo dục
tinh thần hướng thiện cho con người Việt Nam từ xưa đến nay.

Ngoài ra, một số phong tục, tập quán khác cũng chịu tác động rất lớn từ sự
biến đổi của Phật giáo. Xu hướng các bạn trẻ tìm đến nhà chùa làm lễ hằng
thuận (kết hôn) để tăng tính thiêng cho nghi lễ hơn nhân đang gia tăng ở nhiều
tỉnh, thành trong cả nước. Cùng với đó, tang ma của một bộ phận người dân
Việt Nam hiện nay (người Kinh) cũng có sự hiện diện của nhà sư làm lễ cầu
siêu cho linh hồn người chết. Bên cạnh đó là các nghi lễ như lập đàn cúng 35
ngày, 49 ngày,... cũng gia tăng ở nhiều địa phương trên cả nước. Những hoạt
động trên nếu được tổ chức ở những chừng mực nhất định sẽ có tác dụng thỏa
mãn nhu cầu tâm linh, cân bằng đời sống tinh thần cho một bộ phận người
dân; đây cũng là một nét đẹp mà Phật giáo đem lại cho văn hóa truyền thống
của dân tộc.
Với đạo Tin lành, sự hiện diện của tôn giáo này cùng với những giáo
lý, luật lệ, lễ nghi của nó đã làm thay đổi hẳn lề lối sinh hoạt, cách sống và
hành vi ứng xử trong cuộc sống hàng ngày của đồng bào dân tộc thiểu số
(DTTS) theo đạo. Từ niềm tin vào thế giới đa thần, một bộ phận đồng bào
DTTS chuyển sang niềm tin vào thế giới độc thần với sự sáng tạo của Chúa.
Sự thay đổi thế giới quan này đã kéo theo nhiều thay đổi về lối sống, nếp sống
của đồng bào. Khi theo đạo, đồng bào DTTS được giải phóng khỏi những
ràng buộc của các lễ nghi phiền toái, tốn kém và những kiêng cữ lạc hậu, dần
dần hình thành trong cộng đồng một nếp sống mới. Thực tế tại khu vực miền
núi phía Bắc và khu vực Tây Nguyên cho thấy, ở làng bản nào có đơng người
DTTS theo đạo Tin lành thì ở đó lối sống của đồng bào có nhiều mặt tiến bộ
hơn như: ăn ở hợp vệ sinh hơn, khu vực nhà ở và nguồn nước sinh hoạt được
quan tâm hơn; đường vào các làng bản được dọn dẹp sạch sẽ; các hủ tục lạc
10



hậu giảm bớt, trai làng không uống rượu, không hút thuốc; khi ốm đau đã
khơng cịn tin vào việc cúng ma, trừ tà mà đã biết đến cơ sở y tế để khám,
chữa bệnh; đã khơng cịn để người chết ở lâu trong nhà gây ô nhiễm như
trước; cưới xin, tang ma không tổ chức dài ngày mà tiết kiệm hơn, tang ma
khơng phải mổ trâu, mổ bị cúng tế linh đình; việc học hành của con cái cũng
được quan tâm hơn,...
Trước đây, đời sống sinh hoạt, giao lưu của đồng bào các DTTS thường
chỉ khép kín trong nội bộ dịng họ, làng bản, tộc người thì từ khi theo đạo Tin
lành, quan hệ giao lưu được mở rộng ra với đồng đạo bên ngồi phạm vi dịng
họ, làng bản và với cộng đồng các tộc người khác. Ngoài ra, sinh hoạt tơn
giáo cũng là mơi trường để các tín đồ học hỏi, tăng cường hiểu biết những
kiến thức mới giúp đồng bào có thêm tri thức về chăn ni, trồng trọt, kinh
doanh, buôn bán và trở nên năng động hơn đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội. Có thể nói, đạo Tin lành đã đem đến cho một bộ phận đồng bào các
DTTS lối sống mới có nhiều yếu tố tích cực.
2.2. Tác động tiêu cực
Bên cạnh tác động tích cực, biến đổi tơn giáo ở Việt Nam cũng có tác
động tiêu cực khơng nhỏ tới phong tục, tập quán của người Việt Nam, để lại
những hệ lụy cho văn hóa dân tộc. Cùng với sự sơi động của đời sống tôn
giáo, nhiều hủ tục, tập quán lạc hậu cũng có cơ hội hồi sinh mạnh mẽ.
Với Phật giáo, sự tác động của nền kinh tế thị trường cùng xu thế thế
tục hóa đã làm cho nhiều phong tục, tập quán truyền thống được dung chứa
trong sinh hoạt Phật giáo dần trở nên biến dạng, sai lệch.
Phong tục đi lễ chùa đầu năm, tục phóng sinh có ý nghĩa nhân văn sâu
sắc. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, những phong tục này đang bị thực
hành một cách sai lệch, biến tướng. Rất nhiều người khơng cịn quan tâm đến
ý nghĩa thực sự của việc đi lễ chùa đầu năm, của việc phóng sinh, ăn chay,..
11



mà thực hành các phong tục đó theo phong trào và mang tính hình thức. Mùa
lễ hội đầu năm, người người, nhà nhà đi lễ chùa để cầu đủ thứ theo nhu cầu
trần tục, chen chúc, xô bồ. Nghi lễ phóng sinh hiện nay cũng được thực hiện
theo phong trào, cho có lệ mà quên mất ý nghĩa thực sự của nó. Vào mỗi mùa
Vu lan, nhiều người đến chùa phóng sinh chim, cá; khi phóng sinh song,
chim, cá lại bị bắt trở lại và đem bán tiếp. Chính vì vậy, sau một số nghi lễ
phóng sinh của nhà chùa, chim, cá khơng những khơng được cứu mạng mà
cịn chết hàng loạt.
Bên cạnh đó, sự biến động tơn giáo đã hình thành thị trường tơn giáo
với các loại hình dịch vụ tâm linh. Điều đó có thể nhận thấy rất rõ trong hoạt
động sôi động của Phật giáo. Sự huyên náo của các loại dịch vụ như vàng mã,
cầu an, cầu siêu, trừ ma, trừ tà, bốc bát hương, xem hướng nhà, hướng bếp,...
nở rộ ở nhiều địa phương, gây tốn kém tiền của của xã hội. Sinh hoạt Phật
giáo ở một số nơi đang bị biến tướng với những hoạt động tiêu cực, có tác
động rất xấu tới đời sống xã hội. Hiện tượng dâng sao, giải hạn ở một số chùa
khu vực miền Bắc hay hiện tượng cúng oan gia trái chủ ở chùa Ba Vàng gần
đây gây ra nhiều hệ lụy xấu cho Phật giáo và cho xã hội.
Các nghi lễ tang ma ở một bộ phận người dân cũng được phục hồi khá
rườm rà, tốn kém với nhiều thủ tục như xem ngày, kén giờ, giải trùng tang,
lập đàn cầu siêu, cúng lễ linh đình có sự trợ giúp của các nhà tu hành Phật
giáo với mức chi phí khơng hề nhỏ. Ở thành phố Hải Phịng, gần chục năm
nay đã hình thành dịch vụ dẫn vong với sự tham dự rất cầu kỳ của Phật giáo
và đã từng có đám tang nhà chùa nhận làm dịch vụ tổ chức trọn gói lên đến
150 triệu đồng.
Trong xu thế mới, việc thực hành đức tin của tín đồ Cơng giáo Việt
Nam cũng có những biến đổi nhất định và cũng có những tác động tiêu cực
nhất định tới đời sống của đồng bào. Theo giáo lý Kitô giáo, Đức Maria và
các thánh khơng có quyền ban ơn mà chỉ có vai trị “cầu bầu” làm trung gian

12


giữa Thiên Chúa và tín đồ, nhưng với người Cơng giáo Việt Nam, Đức mẹ
Maria từ lâu đã được tôn xưng là Thánh Mẫu với lịng thành kính vơ hạn.
Những năm gần đây, một bộ phận người Công giáo Việt Nam cũng có chiều
hướng sùng kính Đức Mẹ một cách thái quá theo chiều hướng mê tín dị đoan.
Tác động tiêu cực nhất của sự biến đổi tôn giáo đối với phong tục, tập
quán truyền thống của người Việt Nam là sự phát triển và tác động của đạo
Tin lành đối với phong tục tập quán truyền thống của đồng bào DTTS. Nhiều
giá trị tốt đẹp trong phong tục tập quán truyền thống của đồng bào đã bị ảnh
hưởng thậm chí bị loại bỏ hồn tồn. Chẳng hạn, với người Mông, thờ cúng tổ
tiên, thờ thần bản mệnh cộng đồng, dịng họ,... là một trong những tín ngưỡng
truyền thống, là chất keo cố kết mọi thành viên trong gia đình, dịng họ và
cộng đồng thơng qua việc thực hành các nghi lễ cúng tế. Tuy nhiên, với bộ
phận người Mông theo đạo Tin lành, do sự khác biệt trong đức tin nên các
nghi lễ nói trên đều bị xóa bỏ và được thay thế hoàn toàn bằng các nghi lễ tôn
giáo. Kết quả khảo sát gần đây cho thấy, chỉ có 4,4% người Mơng theo đạo
Tin lành ở khu vực Tây Bắc còn thực hiện nghi lễ thờ cúng tổ tiên, có tới
95,6% khơng thực hiện. Người Mơng cũng có nhiều lễ hội truyền thống đặc
sắc như: Lễ Tạ ơn (Thể hiện lòng biết ơn tổ tiên, cha mẹ); Lễ Nào cống, Lễ
Nào sồng (Lễ quy ước cùng nhau thực hiện những quy định chung của cộng
đồng); Lễ hội Gầu tào (Gia chủ cầu con, cộng đồng cầu được mùa, trai gái
trao duyên hẹn ước nên đôi),... Các lễ hội của người Mơng cịn chứa đựng khá
nhiều giá trị văn hóa độc đáo, tuy nhiên, hiện nay chỉ cịn 6,1% người Mông
theo đạo tham gia vào các lễ hội dân tộc nói trên .
Ở khu vực Tây Nguyên cũng đã từng xảy ra tình trạng tương tự như
khu vực Tây Bắc, thời kỳ đầu, khi mới từ bỏ niềm tin truyền thống để đi theo
Tin lành, đa phần đồng bào các DTTS cũng đoạn tuyệt hồn tồn với văn hóa
truyền thống, gây nên những đứt gãy văn hóa, làm phai nhạt bản sắc văn hóa

tộc người, làm mất dần bản sắc Tây Nguyên.
13


Bên cạnh những tác động do sự biến đổi của các tôn giáo như Phật
giáo, Công giáo và đạo Tin lành, một số hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện
trong những thập niên gần đây cũng có tác động khơng nhỏ đến phong tục,
tập quán truyền thống của dân tộc.
Những hiện tượng tôn giáo mới liên quan đến thờ cúng Vua Hùng, thờ
cúng Chủ tịch Hồ Chí Minh và các danh nhân văn hóa của dân tộc xuất hiện
ngày càng nhiều, một mặt như muốn khẳng định, tôn vinh giá trị văn hóa dân
tộc, nhưng mặt khác những hiện tượng này cũng có tác động xấu tới văn hóa,
phong tục, tập quán và đạo đức xã hội. Ở một số địa phương, tín đồ theo các
hiện tượng tơn giáo mới nói trên đã dỡ bỏ bàn thờ tổ tiên, gây xung đột, mất
đồn kết trong gia đình, dịng họ.
Đặc biệt, trong trào lưu của các hiện tượng tôn giáo mới, xuất hiện
những hiện tượng tơn giáo mang tính phản văn hóa, phi nhân tính có tác động
cực kỳ tiêu cực đối với văn hóa, đạo đức, với thuần phong, mỹ tục của dân
tộc. Hiện tượng giáo phái Tốc Phạ ở Thuận Châu, Sơn La hay hiện tượng
Chân Không của Lưu Văn Ty một thời là những ví dụ điển hình. Hiện nay,
các hiện tượng tơn giáo mới như Hà mịn, Amí sa rí ở Tây Nguyên với nhiều
biểu hiện mê tín dị đoan cũng đã và đang có những tác động tiêu cực tới đời
sống văn hóa xã hội của đồng bào các DTTS. Hay gần đây nhất là sự phát
triển của Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ tại nhiều tỉnh thành trong cả nước dấy
lên hồi chuông báo động về những tác động tiêu cực của các hiện tượng tơn
giáo mới đối với văn hóa, phong tục, đạo đức truyền thống của dân tộc trong
thời kỳ mới. Hoặc hoạt động của nhóm người tu theo pháp mơn lạ gây nên cái
chết cho hai người ở Bình Dương cũng cho thấy, hiện tượng tơn giáo mới
khơng chỉ có tác động xấu đến văn hóa, phong tục, đạo đức truyền thống mà
cịn có tác động xấu đến an ninh, trật tự xã hội.


14


CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐẤU TRANH CHỐNG
LỢI DỤNG VẤN ĐỀ TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Đối với bộ ngành, địa phương và Đảng viên
Trước diễn biến phức tạp của vấn đề tơn giáo, tín ngưỡng hiện nay, cần
thực hiện tốt chủ trương của Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tơn giáo, đồn
kết tơn giáo như sau:
Thứ nhất, tuyên truyền nâng cao nhận thức của xã hội về tôn giáo và
công tác tôn giáo. Các bộ, ngành và địa phương liên quan cần tiếp tục quán
triệt và thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tôn
giáo. Tăng cường công tác tuyên truyền đối nội cũng như đối ngoại về hoạt
động tôn giáo và chính sách tơn giáo nhất qn của Đảng và Nhà nước, nhất
là Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP để cán bộ,
người dân và tổ chức, cá nhân tôn giáo hiểu, nâng cao nhận thức và chủ động
thực hiện đúng. Bổ sung, hồn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn
giáo và các chính sách, pháp luật khác có liên quan tương thích với Luật Tín
ngưỡng, tơn giáo và các cơng ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam
tham gia, ký kết. Bảo đảm bình đẳng giữa trách nhiệm, quyền lợi của các tổ
chức tôn giáo, giữa tổ chức tôn giáo và các tổ chức xã hội khác. Hạn chế để
các tổ chức, cá nhân tôn giáo lợi dụng khoảng trống, sự vênh nhau giữa các
luật để tìm cách xuyên tạc, hiểu sai, hoạt động sai luật, ảnh hưởng đến đoàn
kết dân tộc, an ninh chính trị.
Thứ hai, tăng cường cơng tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tơn giáo.
Hướng dẫn các tổ chức hoạt động tôn giáo theo hiến chương, điều lệ đã được
nhà nước công nhận và quy định của pháp luật. Xem xét, giải quyết thấu đáo
các nhu cầu sinh hoạt tôn giáo thuần túy của người dân trên địa bàn, phân biệt
sinh hoạt tôn giáo thuần túy và việc lợi dụng tôn giáo trong giải quyết các vụ

việc phức tạp để loại bỏ yếu tố chính trị cực đoan ra khỏi hoạt động tín
ngưỡng, tơn giáo. Siết chặt kỷ cương, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác
15


quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tơn giáo. Lồng ghép nội dung, nhiệm vụ
công tác tôn giáo với các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
vùng có đơng đồng bào tơn giáo ở địa phương. Tập trung giải quyết vấn đề
nhà, đất liên quan đến tôn giáo, giải quyết dứt điểm các vụ khiếu kiện, tranh
chấp đất đai có liên quan đến tơn giáo kéo dài nhiều năm tại các địa phương.
Rà soát, đánh giá và quan tâm giải quyết các nhu cầu về đất đai tơn giáo chính
đáng, tránh tạo cớ để các đối tượng cực đoan tụ tập tín đồ tạo điểm nóng,
tuyên truyền xuyên tạc gây phức tạp về an ninh trật tự. Đẩy mạnh vận động
chức sắc, chức việc, nhà tu hành tôn giáo nâng cao trách nhiệm xã hội trong
hoạt động tơn giáo. Các cấp chính quyền cần thường xuyên gặp gỡ, tiếp xúc,
đối thoại với chức sắc, chức việc, nhà tu hành để nắm tâm tư, nguyện vọng và
kịp thời giải quyết các nhu cầu chính đáng, vấn đề phát sinh trong hoạt động
tơn giáo; khích lệ họ nâng cao trách nhiệm cơng dân trong thực hiện chính
sách, pháp luật và các phong trào thi đua yêu nước ở địa phương.
Thứ ba, ổn định bộ máy tổ chức và đào tạo đội ngũ cán bộ thực thi
chính sách về tín ngưỡng, tơn giáo. Xây dựng bợ máy và đợi ngũ cán bợ phải
tương xứng thì mới thực hiện tốt chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước
về tín ngưỡng, tôn giáo. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức tôn giáo,
nghiệp vụ công tác cho đội ngũ cán bộ, đảng viên làm công tác tôn giáo. Chủ
động nghiên cứu, nắm vững thông tin, kịp thời tham mưu trong công tác tôn
giáo. Xây dựng cơ chế phối hợp trong công tác tôn giáo giữa các cấp, các
ngành và các cơ quan trong hệ thống chính trị để nâng cao trách nhiệm trong
thực hiện chính sách, pháp luật về tơn giáo.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác đối ngoại về tôn giáo, chủ động tham gia
các diễn đàn tôn giáo quốc tế và khu vực. Thông qua các hoạt động hợp tác

quốc tế, các cuộc đối thoại song phương, đa phương để họ hiểu đúng chủ
trương, chính sách tơn giáo và lên tiếng ủng hộ vấn đề nhân quyền, tự do tôn

16



×