VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM PHÚ TIẾN
PHÒNG NGỪA CÁC TỘI XÂM PHẠM
TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, NĂM 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM PHÚ TIẾN
PHÒNG NGỪA CÁC TỘI XÂM PHẠM
TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 60.38.01.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS, TS ĐÀM THANH THẾ
HÀ NỘI, NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi, khơng
trùng lặp, khơng sao chép bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào; những tài liệu, số liệu,
dẫn chứng sử dụng trong Luận văn là trung thực và chính xác.
Tơi xin chịu trách nhiệm về nội dung cam đoan trên./.
Người cam đoan
Phạm Phú Tiến
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA CÁC TỘI XÂM
PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG LĨNH VỰC SẢN XUẤT,
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI .............................................................................7
1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại .................................................................7
1.2. Nhận thức về phòng ngừa các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực
sản xuất, kinh doanh, thương mại .............................................................................10
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH CĨ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG
PHÒNG NGỪA CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ
TRONG LĨNH VỰC SẢN XUẤT, KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .............................................................................28
2.1. Đặc điểm tình hình có liên quan đến phịng ngừa các tội xâm phạm trật tự quản
lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại trên địa bàn Thành phố Đà
Nẵng ..........................................................................................................................28
2.2. Thực trạng phòng ngừa các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực
sản xuất, kinh doanh, thương mại trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng........................38
2.3. Nhận xét, đánh giá..............................................................................................53
Chương 3. DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ 58
PHỊNG NGỪA CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ
TRONG LĨNH VỰC SẢN XUẤT, KINH DOANH, THƯƠNG MẠI................58
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .........................................................58
3.1. Dự báo tình hình tội phạm và các yếu tố tác động đến phòng ngừa các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại trên địa
bàn Thành phố Đà Nẵng. ..........................................................................................58
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
...................................................................................................................................62
KẾT LUẬN ..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
CSKT
: Cảnh sát kinh tế
QLTT
: Quản lý thị trường
SX, KD, TM : Sản xuất, kinh doanh, thương mại
TAND
: Tòa án nhân dân
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
TP.
: Thành phố
TTQLKT
: Trật tự quản lý kinh tế
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam đã và đang
đạt được những thành tựu có ý nghĩa hết sức to lớn. Tình hình chính trị - xã hội nước
ta đi vào ổn định; thế và lực của ta được nâng cao hơn; quan hệ quốc tế được mở
rộng; khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập được tăng cường. Những kết quả
đó góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vị thế, vai trò của
đất nước trên trường quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, Việt Nam
cũng đang phải đối phó với nhiều khó khăn, thử thách như nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực, những tác động không nhỏ của mặt trái nền
kinh tế thị trường vào đời sống xã hội, sự du nhập của những yếu tố văn hóa, tinh
thần khơng phù hợp từ các quốc gia, dân tộc khác... Đây là những nguyên nhân cơ
bản thúc đẩy tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp hơn, ảnh hưởng đến sự
ổn định về an ninh quốc gia và TTATXH. Khảo sát, thống kê tình hình tội phạm
truyền thống cho thấy, trong các loại tội phạm kinh tế, nhóm các tội xâm phạm
TTQLKT đã và đang nổi lên một cách đáng báo động, gây hậu quả nghiêm trọng cả
về vật chất lẫn tinh thần cho xã hội.
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm và là trung tâm kinh tế, văn hoá, giáo dục,
khoa học và công nghệ lớn của khu vực miền Trung - Tây Ngun, TP. Đà Nẵng có
vị trí trọng yếu cả về kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh. Với chính sách, đường
lối phát triển đúng đắn của mình, Đà Nẵng đã và đang phát triển về mọi mặt, đảm bảo
chất lượng đời sống, nâng cao dân trí, cải thiện dân sinh, hình thành mơi trường đầu
tư thơng thống, thu hút nhiều nguồn vốn cả trong nước lẫn nước ngoài. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây, tình hình tội phạm kinh tế nói chung và tội phạm xâm
phạm TTQLKT, nhất là trong lĩnh vực SX, KD, TM nói riêng trên địa bàn thành phố
diễn ra hết sức phức tạp, nhiều biến động, có xu hướng gia. Số vụ buôn lậu, buôn bán
hàng cấm với quy mô lớn ngày càng gia tăng, số vụ sản xuất, buôn bán hàng giả bị
phát hiện và xử lý ngày càng nhiều, hành vi lừa dối khách hàng, trốn thuế, vi phạm
1
các quy định về cạnh tranh, bán đấu giá tài sản, đấu thầu, vi phạm các quy định về
quản lý rừng… diễn ra ngày càng phổ biến. Đặc biệt, các đối tượng cịn cấu kết thành
các đường dây khép kín, phương thức thủ đoạn tinh vi, địa bàn hoạt động rộng liên
quan đến nhiều tỉnh, thành, gây khó khăn cho cơng tác phịng ngừa và đấu tranh.
Trong thời gian từ năm 2013 đến năm 2017, theo thống kê, trên địa bàn Thành phố
đã xảy ra 65 vụ án xâm phạm TTQLKT, chiếm 55,1% tổng số vụ án kinh tế. Trong
số 65 vụ án xâm phạm TTQLKT, có đến 55 vụ xảy ra trong lĩnh vực SX, KD, TM,
chiếm tỷ lệ đến 84,6%. Hậu quả do các tội xâm phạm TTQLKT gây ra đã làm rối
loạn thị trường, mất ổn định nguồn cung – cầu, ảnh hưởng xấu đến nền sản xuất hàng
hóa trên địa bàn thành phố. Cá biệt nhiều trường hợp cịn làm cho người tiêu dùng
thiệt hại khơng những về vật chất, sức khỏe mà còn nguy hiểm đến tính mạng, tạo dư
luận phản ứng gay gắt, mạnh mẽ.
Ý thức được mục đích, vai trị của cơng tác phòng ngừa tội phạm, trong những
năm qua, các cơ quan chức năng trên địa bàn TP. Đà Nẵng đã đề ra nhiều chủ trương,
thực hiện nhiều chính sách, kế hoạch phịng ngừa tội phạm kinh tế nói chung và phịng
ngừa các tội xâm phạm TTQLKT nói riêng, qua đó đã đạt được những thành quả
đáng khích lệ. Điển hình như việc ban hành “Quy chế về trách nhiệm và quan hệ phối
hợp hoạt động giữa các cơ quan quản lý Nhà nước trong cơng tác đấu tranh phịng,
chống bn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”...
Tuy nhiên, hoạt động phòng ngừa vẫn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như: Công tác
phòng ngừa xã hội chưa được thực hiện thường xuyên, liên tục, hiệu quả mang lại
chưa mong muốn. Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến công tác điều tra, xử lý
các tội xâm phạm TTQLKT chưa thực sự hồn thiện. Cơng tác phối hợp giữa các lực
lượng và các đơn vị, địa phương trong phịng ngừa nhóm tội phạm này còn hạn chế,
nhất là việc quản lý, giáo dục đối tượng và xử lý người phạm tội... Tình hình thực tế
nêu trên chỉ ra rằng, việc nghiên cứu làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn công tác
phòng ngừa các tội xâm phạm TTQLKT, đặc biệt là trong lĩnh vực SX, KD, TM trên
địa bàn TP. Đà Nẵng để rút ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của chúng nhằm
đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác phịng ngừa nhóm tội phạm này trở nên
2
vơ cùng cấp thiết. Chính vì vậy, chúng tơi quyết định chọn đề tài “Phòng ngừa các
tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng” làm Luận văn
Thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam đã có một số cơng trình nghiên cứu về cơng tác phịng ngừa các tội
xâm phạm TTQLKT như:
- Vũ Văn Thiết (2005), “Đấu tranh chống buôn lậu trên tuyến biển của lực
lượng Công an các tỉnh, thành phố ven biển phía Nam – Thực trạng và giải pháp”,
Đề tài khoa học cấp Bộ;
- Lê Thị Khánh Ly (2015), “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh
vực hoàn thuế giá trị gia tăng theo Luật hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ luật học;
- Trương Văn Út (2013), Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo hình sự Việt Nam
(trên cơ sở số liệu của địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh), Luận văn Thạc sỹ luật học,
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Thị Tố Uyên (2014), Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo Điều 156
BLHS năm 1999, Luận văn Thạc sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Mai Thị Lan (2008), Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo pháp luật hình sự
Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Nguyễn Ngọc Chí (2008), Hồn thiện các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế trước yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Khoa học Đại học QGHN;
Ngồi ra cịn có các báo cáo sơ kết, tổng kết chuyên đề về cơng tác đấu tranh
phịng chống các tội xâm phạm TTQLKT của các cơ quan chức năng trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng và các địa phương khác.
Các luận văn, đề tài khoa học, các bài báo khoa học nêu trên chủ yếu đi sâu
nghiên cứu, phân tích một số vấn đề sau:
- Lý luận: Làm rõ nhận thức về hoạt động phòng ngừa các tội phạm cụ thể nằm
trong nhóm các tội xâm phạm TTQLKT.
- Thực trạng: Đề cập đến thực trạng cơng tác phịng ngừa các tội phạm cụ thể
nằm trong nhóm các tội xâm phạm TTQLKT trên địa bàn một số tỉnh, thành phố.
3
- Giải pháp: Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng
ngừa các tội phạm cụ thể nằm trong nhóm các tội xâm phạm TTQLKT trên địa bàn
một số tỉnh, thành phố.
Như vậy, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc, tồn diện về hoạt
động phịng ngừa nhóm các tội xâm phạm TTQLKT nói chung và trong lĩnh vực SX,
KD, TM nói riêng trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng hiện nay. Do vậy, luận văn Thạc
sỹ “Phòng ngừa các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn Thành phố Đà
Nẵng" là một cơng trình khoa học mới, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn cấp thiết của
công tác phòng ngừa các tội xâm phạm TTQLKT trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng
và yêu cầu của một luận văn Thạc sỹ Luật học.
3. Mục đích, nội dung nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng nhận thức và thực tiễn phòng ngừa
các tội xâm phạm TTQLKT nói chung và trong lĩnh vực SX, KD, TM nói riêng trên
địa bàn TP. Đà Nẵng của các chủ thể phòng ngừa, rút ra những ưu điểm, tồn tại và
nguyên nhân của nó để đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa các tội
xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM trên địa bàn TP. Đà Nẵng trong thời
gian tới.
3.2. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần làm rõ những nội dung sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về phòng ngừa các tội xâm phạm TTQLKT nói
chung và các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM nói riêng.
- Làm rõ thực trạng phịng ngừa các tội xâm phạm TTQLKT nói chung và
các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM nói riêng trên địa bàn
Thành phố Đà Nẵng
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa các tội xâm phạm
TTQLKT nói chung và các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM
nói riêng trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng
4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động phịng ngừa các tội
xâm phạm TTQLKT nói chung và các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX,
KD, TM nói riêng trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi tội danh: Khảo sát 12 tội danh được quy định tại Mục 1 - Phần các tội
xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM, nằm trong Chương XVIII, Bộ luật
hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (từ Điều 188 đến Điều 199).
- Không gian: Địa bàn Thành phố Đà Nẵng.
- Thời gian: Từ năm 2013 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối, chính sách, quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác đấu tranh phịng chống tội phạm trong giai
đoạn hiện nay.
Ngồi ra, đề tài còn được tiến hành dựa trên lý luận cơ bản của khoa học Tội
phạm học và phòng ngừa tội phạm, tiếp thu các luận điểm, luận chứng khoa học phù
hợp từ các cơng trình đã nghiên cứu của nhiều tác giả và kinh nghiệm thực tiễn trong
các hồ sơ, tài liệu tổng kết, sơ kết hoạt động phịng ngừa các tội xâm phạm TTQLKT
nói chung và các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Chương 1. Phương pháp phân tích, bình luận, nghiên cứu tài liệu, diễn dịch,
so sánh.
Chương 2. Phương pháp thống kê, nghiên cứu bản án, hồ sơ vụ án, khảo sát thực
tiễn, tổng kết rút kinh nghiệm, so sánh.
Chương 3. Phương pháp suy luận logic, chuyên gia.
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ và phong phú thêm lý
luận về hoạt động phịng ngừa các tội xâm phạm TTQLKT nói chung và trong lĩnh
vực SX, KD, TM nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Việc áp dụng kết quả nghiên cứu của luận văn vào thực tiễn công tác của các
cơ quan chức năng trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động phịng ngừa tội phạm kinh tế nói chung và phịng ngừa các tội xâm phạm
TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM nói riêng trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng
- Luận văn còn được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu,
giảng dạy và học tập trong các trường trong và ngồi Cơng an nhân dân.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn được cấu
trúc thành 3 chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về phòng ngừa các tội xâm phạm trật tự quản
lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại.
Chương 2. Đặc điểm tình hình có liên quan và thực trạng phòng ngừa các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng
Chương 3. Dự báo tình hình và giải pháp nâng cao hiệu quả phịng ngừa các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
PHÒNG NGỪA CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ
TRONG LĨNH VỰC SẢN XUẤT, KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại
1.1.1. Khái niệm
Trước khi tìm hiểu khái niệm về các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX,
KD, TM, chúng ta cần tìm hiểu khái niệm về các tội xâm phạm TTQLKT. Đầu tiên,
cần nhận thức rằng: TTQLKT là tổng thể các quy trình, thủ tục, nội dung, phạm vi,
địa vị pháp lý của chủ thể khi tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, lưu thơng
hàng hóa, sản phẩm cũng như sử dụng các nguồn tài nguyên để tạo ra lợi nhuận. Trật
tự này do nhà nước quy định nhằm đảm bảo quyền của chủ thể kinh doanh, người
tiêu dùng, đảm bảo ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Về các tội xâm phạm TTQLKT chính là sự quy định cụ thể trên cơ sở kế thừa
chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với hành vi xâm phạm TTQLKT
của Nhà nước, đồng thời, phản ánh kết quả phát triển của nền kinh tế quốc dân trong
giai đoạn cải cách, đổi mới hiện nay. Trong các giáo trình Luật hình sự và Tội phạm
học, khái niệm tội phạm xâm phạm TTQLKT được trình bày khá đơn giản và thống
nhất. Xuất phát từ hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, có thể đưa ra được
khái niệm này như sau:
Các tội phạm xâm phạm TTQLKT là hành vi vi phạm các quy định của Nhà
nước trong quản lý kinh tế, xâm phạm cơ chế Nhà nước quản lý, vận hành nền kinh
tế, gây thiệt hại đáng kể cho nền kinh tế, lợi ích của Nhà nước, các chủ thể của nền
kinh tế và người tiêu dùng.
Tổng kết quá trình thi hành BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (BLHS
năm 1999) cho thấy một số quy định tại chương các tội xâm phạm TTQLKT khơng
cịn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, nhiều tội phạm mới phát sinh
7
trên thực tế chưa được bổ sung hoặc tuy đã được bổ sung nhưng chưa đầy đủ, toàn
diện, nhất là tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại… Những hạn
chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển lành mạnh, bền vững của nền kinh
tế cũng như cơng tác đấu tranh, phịng chống tội phạm. Do vậy, BLHS năm 2015 sửa
đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung mới
quan trọng, trong đó quy định các tội xâm phạm TTQLKT tại Chương XVIII, gồm
có 47 tội danh. Đối với lĩnh vực SX, KD, TM được quy định tại Mục 1 Chương này,
gồm 12 tội danh từ Điều 188 đến Điều 199. Đây cũng là nhóm tội phổ biến nhất trong
các tội xâm phạm TTQLKT hiện nay, bao gồm: [19, tr.143].
Điều 188. Tội buôn lậu
Điều 189. Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới
Điều 190. Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm
Điều 191. Tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm
Điều 192. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả
Điều 193. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia
thực phẩm
Điều 194. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phịng bệnh
Điều 195. Tội sản xuất, bn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn ni, phân
bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi
Điều 196. Tội đầu cơ
Điều 197. Tội quảng cáo gian dối
Điều 198. Tội lừa dối khách hàng
Điều 199. Tội vi phạm các quy định về cung ứng điện
Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm các tội phạm xâm phạm
TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM như sau:
“Các tội phạm xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM là hành vi nguy
hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm hại TTQLKT nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương
mại, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức
và cá nhân”.
8
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại
Các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM mang đầy đủ các đặc
điểm của tội phạm hình sự nói chung như tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính
phải chịu hình phạt… Theo quy định tại BLHS 2015, cấu thành tội phạm của các tội
xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM bao gồm những yếu tố sau đây:
Về chủ thể: Chủ thể của các tội phạm xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX,
KD, TM có thể là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự. Đối với “Tội vi
phạm các quy định về cung ứng điện”, chủ thể phải là người có chức vụ, quyền hạn
nhất định trong các cơ quan, tổ chức kinh tế (chủ thể đặc biệt).
Về khách thể: Các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM xâm
phạm trực tiếp hoặc gián tiếp đến các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ
nhằm bảo đảm cho sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Đó là chế độ
quản lý điều hành tồn bộ nền kinh tế của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
quyền và lợi ích của nhà nước, của các tổ chức kinh tế, quyền, lợi ích, tính mạng sức
khỏe của người dân… được thể chế hóa trong quy định pháp luật.
Về mặt khách quan: Các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM
bao gồm những hành vi vi phạm các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế ở các
mức độ khác nhau. Hành vi phạm tội đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho nền
kinh tế quốc dân hoặc cho từng ngành lĩnh vực nhất định. Trong lĩnh vực này, chỉ
duy nhất “Tội vi phạm các quy định về cung ứng điện”, hành vi phạm tội có thể được
thể hiện dưới dạng khơng hành động, cịn những tội khác đều được thể hiện dưới dạng
hành động.
Hậu quả xảy ra có thể ở những mức độ rất khác nhau (ít nghiêm trọng, nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng) như: Làm rối loạn thị trường, mất cân
đối cung cầu, làm ảnh hưởng xấu đến nền sản xuất hàng hoá của cả nước; thậm chí
có những tội phạm cịn làm cho người tiêu dùng thiệt hại không những cả về vật chất,
sức khoẻ mà có khi cịn nguy hiểm đến tính mạng.... Đối với một số tội, hậu quả
nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm.
9
Về mặt chủ quan: Các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM
được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp. Khi thực hiện hành vi, người phạm
tội đều ý thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, nhưng vẫn cố ý thực
hiện tội phạm và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc với ý thức để mặc cho hậu quả xảy
ra. Mục đích và động cơ phạm tội chủ yếu là vụ lợi.
Có thể thấy rằng: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi, các quy định trong Chương XVIII BLHS năm 2015 đã có sự phân định rõ mức độ
nào thì coi là tội phạm và mức độ nào chưa phải là tội phạm. Các tội này thường nhằm
mục đích vụ lợi nên đối với người phạm tội lần đầu, ít nghiêm trọng, để tạo điều kiện
và giáo dục họ trở thành người tốt, hình phạt chính chỉ áp dụng là phạt tiền, phạt cải
tạo khơng giam giữ hoặc tù có thời hạn. Đối với một số tội phạm gây ra những hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng như tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lượng thực, thực phẩm,
phụ gia thực phẩm, tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng
bệnh (Điều 193, Điều 194), mức cao nhất của khung hình phạt quy định đến chung
thân, tử hình. Ngoài ra, tuỳ theo hậu quả và mức độ thu lợi bất chính mà người phạm
tội có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung như: Phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn
bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
1.2. Nhận thức về phòng ngừa các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại
1.2.1. Khái niệm
Ở nước ta, phòng ngừa tội phạm là vấn đề sớm được nghiên cứu trong khoa học
pháp lý hình sự.
Theo GS, TS. Võ Khánh Vinh: Phòng ngừa tội phạm là hệ thống các biện pháp
Nhà nước và xã hội nhằm khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm,
làm giảm bớt hoặc tiến tới loại trừ tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội… Phòng
ngừa tội phạm là hoạt động mang giá trị nhân đạo xã hội, đồng thời có hiệu quả kinh
tế xã hội cao.[28, tr. 50].
Theo GS, TS. Nguyễn Xuân Yêm: Phòng ngừa tội phạm là một bộ phận lớn
của vấn đề phòng ngừa các vi phạm pháp luật. Phòng ngừa và ngăn chặn các hành
10
vi vi phạm pháp luật chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, hạn chế các nguyên nhân
của nó sẽ tạo ra những điều kiện để cản trở việc phát triển những hành động trái
pháp luật thành tội phạm.[50, tr.49].
Phòng ngừa tội phạm là trách nhiệm của toàn xã hội, không phải riêng của bất
kỳ một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào. Do đó, chủ thể phịng ngừa bao gồm tất cả
các bộ phận cấu thành nên hệ thống chính trị như: Đảng Cộng sản Việt Nam, các cơ
quan quyền lực, cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và địa phương, cơ quan tư
pháp, tổ chức và cơng dân. Trong đó, Cơ quan Cơng an, VKSND, TAND là những
chủ thể chủ yếu của phòng ngừa tội phạm.
Như vậy, có thể nói rằng: Phịng ngừa tội phạm là hoạt động của tồn thể hệ
thống chính trị, áp dụng đồng bộ, tổng hợp các biện pháp nhằm mục đích thủ tiêu
nguyên nhân, điều kiện phạm tội, loại bỏ các yếu tố tiêu cực làm nảy sinh tội phạm,
từ đó, từng bước loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
Theo đó: Phịng ngừa tội phạm xâm phạm TTQLKT là hoạt động của tồn thể
hệ thống chính trị, áp dụng đồng bộ, tổng hợp các biện pháp nhằm mục đích thủ tiêu
nguyên nhân, điều kiện phạm tội, loại bỏ các yếu tố tiêu cực làm nảy sinh tội phạm
xâm phạm TTQLKT, từ đó, từng bước loại bỏ tội phạm xâm phạm TTQLKT ra khỏi
đời sống xã hội.
Trên cơ sở đặc điểm của tội phạm xâm phạm TTQLKT trong lĩnh SX, KD,
TM, có thể thấy: Phịng ngừa tội phạm xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD,
TM là tổng thể hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công
dân, áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp khác nhau nhằm xóa bỏ những
nguyên nhân, điều kiện hình thành, nảy sinh và phát triển của các loại tội phạm
xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM..., tạo môi trường kinh doanh lành
mạnh, đảm bảo sự phát triển bình thường của nền kinh tế, loại bỏ các loại tội phạm
này ra khỏi đời sống xã hội.
1.2.2. Mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc phịng ngừa
1.2.2.1. Mục đích
Trong tình hình hiện nay, ở nước ta để chỉ đạo cuộc đấu tranh phòng chống tội
11
phạm, Đảng ta đã ban hành Chỉ thị số 48-CT/TW “về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác đấu tranh phịng chống tội phạm trong tình hình mới” trong đó
chỉ rõ: “…trong thời gian tới cơng tác phòng chống tội phạm phải kiềm chế, làm giảm
các loại tội phạm, nhất là các loại tội phạm nghiêm trọng, tội phạm mới, tạo mơi
trường lành mạnh phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ cuộc
sống hạnh phúc và bình yên của nhân dân…”[12, tr.2]. Thực hiện tinh thần của chỉ
thị, các cơ quan chức năng đã tổ chức, triển khai nhiều hoạt động phịng ngừa tội
phạm kinh tế nói chung và các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM
nói riêng nhằm đạt được những mục đích sau:
- Thứ nhất, làm hạn chế, góp phần tiến tới xóa bỏ, khơng để hình thành các
nguyên nhân, điều kiện phạm tội, giảm cơ hội hoặc không tạo ra cơ hội để cho đối
tượng có thể thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm các quy định của Nhà nước về
TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM;
- Thứ hai, làm thay đổi suy nghĩ, nhận thức của người có ý định phạm tội, tác
động để họ từ bỏ ý định, từ bỏ hoạt động phạm tội nếu có, đồng thời giáo dục họ tích
cực tham gia cơng tác phịng ngừa, đấu tranh, tố cáo hành vi phạm tội xâm phạm
TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM, chủ động bảo vệ quyền và lợi ích của mình;
- Thứ ba, ngăn chặn kịp thời, khơng để xảy ra hành vi phạm tội, hoặc làm cho
quá trình thực hiện hành vi phạm tội trở nên khó khăn hơn, nhiều trở ngại, rủi ro hơn,
ít hiệu quả hơn. Từ đó làm mất ý chí, ý định phạm tội của đối tượng, giảm nguy cơ
tội phạm có thể xảy ra.
1.2.2.2. Ý nghĩa
Hoạt động phòng ngừa các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM
có ý nghĩa thực tiễn vơ cùng to lớn trong kiểm sốt xã hội, kiểm sốt tội phạm, ngăn
chặn khơng để cho tội phạm xảy ra trong đời sống xã hội. Phòng ngừa các tội phạm
này còn mang ý nghĩa nhân đạo và tiến bộ xã hội bởi không để cho thành viên của xã
hội phải chịu hình phạt của pháp luật, thể hiện sự chia sẻ trách nhiệm của Nhà nước
và xã hội đối với người phạm tội, đồng thời bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ lợi ích
chính đáng của các nhà sản xuất, kinh doanh chân chính. Bên cạnh đó, về mặt kinh
12
tế, phòng ngừa các tội phạm này vừa đảm bảo sự phát triển bình thường của nền kinh
tế và các thành phần kinh tế, vừa hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại gây ra,
kể cả những thiệt hại gián tiếp mà Nhà nước, xã hội phải chịu để khắc phục hậu quả
do tội phạm để lại, không phải tốn kém những chi phí để phục vụ cơng tác điều tra,
truy tố, xét xử, giam giữ, cải tạo phạm nhân. Về mặt quản lý xã hội, thông qua các
hoạt động phịng ngừa tội phạm, Nhà nước có thể kiểm sốt được tình hình tội phạm,
qua đó, đảm bảo tính chủ động trong quản lý Nhà nước, góp phần nâng cao uy tín của
Đảng và Nhà nước ta trong lãnh đạo, quản lý đất nước cũng như trong quan hệ đối
ngoại với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế. Như vậy, có thể nhận thấy, phịng ngừa tội phạm xâm phạm TTQLKT vừa
thể hiện tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa, vừa là mong muốn chung của toàn xã hội.
1.2.2.3. Nguyên tắc
Phòng ngừa tội phạm là hoạt động hữu ích của các cơ quan nhà nước, các tổ
chức và cơng dân vì an ninh trật tự, vì lợi ích của cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, để
hoạt động phòng ngừa tội phạm xâm phạm TTQLKT nói chung và trong lĩnh vực SX,
KD, TM nói riêng thực sự hiệu quả và có thể kiểm sốt được vấn đề tội phạm trong
xã hội, cần triệt để tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc pháp chế
Hoạt động phòng ngừa các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM
phải tuân thủ các quy định của pháp luật, tức là các quy định của Hiến pháp, luật và
các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến hoạt động phòng ngừa các tội
xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM. Các chủ thể phịng ngừa thường có
tâm lý, động cơ muốn nhanh chóng hạn chế, loại trừ tội phạm ra khỏi xã hội nên có
thể dẫn đến vi phạm pháp luật trong việc triển khai, áp dụng các biện pháp phịng
ngừa. Do đó, tn thủ ngun tắc pháp chế là yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất khi
phịng ngừa tội phạm nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của những người có liên
quan. Để nguyên tắc pháp chế được tuân thủ thì yêu cầu đầu tiên là các quy định của
pháp luật về phòng ngừa tội phạm phải được hoàn thiện, ý thức tuân thủ quy định
pháp luật từ các chủ thể phòng ngừa tội phạm phải được nâng cao. Các chủ thể không
13
được tiến hành một cách tuỳ tiện, theo ý chí chủ quan của mình mà phải trên cơ sở
quy định của pháp luật. Ví dụ: Hành vi bêu xấu các cửa hàng kinh doanh có nghi vấn
bn bán hàng lậu, hàng giả, hàng cấm trên các phương tiện thông tin đại chúng để
nhân dân tẩy chay, cảnh giác tuy là hoạt động phòng ngừa tội phạm nhưng hành vi
này lại bị pháp luật hình sự cấm.
- Nguyên tắc dân chủ
Hoạt động phòng ngừa các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM
phải có sự tham gia của tồn thể các tầng lớp, lực lượng trong xã hội, đặc biệt là quần
chúng nhân dân bởi đây là chủ thể gánh chịu hậu quả trực tiếp. Hơn nữa, các tội xâm
phạm TTQLKT TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM có liên quan mật thiết đến vấn
đề về đặc điểm dân cư, đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, sức khỏe của người dân,
chính vì vậy phịng ngừa các tội phạm này phải được sự hưởng ứng, tham gia rộng
rãi từ phía người dân thì mới có thể đạt hiệu quả như mong muốn.
Để nguyên tắc này được áp dụng trong thực tế cần thiết phải có sự ghi nhận trong
các quy định của pháp luật về phòng ngừa các tội xâm phạm TTQLKT, bên cạnh đó,
cần nhận thức rằng quần chúng nhân dân là chủ thể phòng ngừa tội phạm đơng đảo
nhất nhưng khơng có cơng cụ, phương tiện nhằm đấu tranh trực tiếp với tội phạm, do
đó, quần chúng nhân dân cần được giáo dục, hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi từ các
chủ thể chuyên trách là cơ quan nhà nước trực tiếp áp dụng các biện pháp phịng ngừa
thơng qua tổ chức các đợt tun truyền, giáo dục, tố cáo hành vi kinh doanh, buôn bán
hàng nhập lậu, hàng cấm, sản xuất buôn bán hàng giả… công bố rộng rãi về hộp tin
báo tội phạm, số điện thoại của công an địa phương trong trường hợp khẩn cấp… Việc
thực hiện, tuân thủ nguyên tắc dân chủ trong phòng ngừa các tội xâm phạm TTQLKT
trong lĩnh vực SX, KD, TM nhằm phát huy hết sức mạnh của các tầng lớp nhân dân,
làm cho nhân dân trở thành cánh tay đắc lực, không để tội phạm xảy ra và kịp thời phát
hiện, xử lý nghiêm, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm.
- Nguyên tắc nhân đạo
Xét cho cùng, mục đích của phịng ngừa tội phạm là bảo vệ con người, chính vì
vậy khi phịng ngừa các tội xâm phạm TTQLKT trong lĩnh vực SX, KD, TM, các chủ
14