Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

TIỂU LUẬN VẬT LÝ LASER ỨNG DỤNG LASER TRONG GHI VÀ ĐỌC TÍN HIỆU QUANG HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.57 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG
CHUYÊN NGÀNH VẬT LÝ – KỸ THUẬT Y SINH

TIỂU LUẬN VẬT LÝ LASER
ỨNG DỤNG LASER TRONG
GHI VÀ ĐỌC TÍN HIỆU QUANG HỌC

Thành Viên
1/ Nguyễn Nhự My
2/ Thái Hịa Thành
3/ Trương Phương Tú


ỨNG DỤNG LASER TRONG GHI VÀ ĐỌC TÍN HIỆU QUANG HỌC

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 2
I. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH LASER ................................... 3
II. SƠ LƯỢC VỀ Ổ ĐĨA QUANG .............................................................. 4
III. CÁCH THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA Ổ ĐĨA QUANG .............................. 6

Page 1


ỨNG DỤNG LASER TRONG GHI VÀ ĐỌC TÍN HIỆU QUANG HỌC

LỜI MỞ ĐẦU
Ra đời vào khoảng giữa thế kỷ XX, laser tạo nên cả một cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật sau khi nó ra đời. Nó đã nhanh chóng được ứng dụng rộng
rãi vào rất nhiều lĩnh vực như: công nghiệp, y học, quân sự, thiết bị điện tử gia


dụng… Sản phẩm của nó trở thành một vật thiết yếu trong công việc hàng
ngày, và thông dụng đến mức có thể mua ở những cửa hàng tạp hóa. Sự thâm
nhập của laser vào mọi mặt đời sống hiện nay có thể được đánh giá đúng nhất
phạm vi ứng dụng của công nghệ laser. Đặc biệt lĩnh vực công nghệ, người ta
cố tìm ra nhiều cách thức lưu trữ, truy xuất dữ liệu mà khơng cần nguồn ni
mà tín hiệu vẫn có thể tồn tại vĩnh viễn và có thể đọc, ghi sửa hay xóa bất kì lúc
nào trong đó ghi và đọc thông tin bằng quang học tức là sử dụng ánh sáng để
ghi và đọc dữ liệu là 1 lĩnh vực đang được quan tâm. Các nhà khoa học đã ứng
dụng được cách thức sử dụng tia laser để lưu trữ dưới dạng đĩa quang.
Trong tiểu luận này, chúng em xin trình bày ngắn gọn về ổ đĩa quang,
cách thức mà ổ đĩa quang hoạt động trong việc ghi và đọc dữ liệu và so sánh nó
với phương pháp ghi và đọc bằng từ trường.
Bài tiểu luận này chúng em chia làm 2 phần:
Phần I : Sơ lược về lịch sử hình thành laser.
Phần II: Cách thức hoạt động của ổ đĩa quang.
Bài tiểu luận chắc chắn vẫn cịn những thiếu sót, rất mong nhận được sự
góp ý của thầy và các bạn để bài viết hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

Page 2


ỨNG DỤNG LASER TRONG GHI VÀ ĐỌC TÍN HIỆU QUANG HỌC
I.

Sơ lược về lịch sử Laser
Laser (Light Amplification by Stimulated Emisson of Radiation) có nghĩa là

khuếch đại ánh sáng bằng bức xạ cưỡng bức. Nguyên lý của bức xạ cưỡng bức là nền tảng
hoạt động của laser. Nguyên lý của bức xạ cưỡng bức là nền tảng hoạt động của laser. Lý

thuyết bắt đầu được xây dựng vào năm 1900 bởi Max Planck, người đầu tiên chứng minh
rằng năng lượng của sóng điện từ khơng liên tục mà là những phần tử rời rạc-lượng tử
năng lượng-với mức năng lượng tương ứng với tần số của sóng. Vào năm 1916, sau khi
được bầu vào Viên Hàn lâm Khoa học Đức, A.Einstein bằng tư duy trừu tượng cao, đã
đưa ra định đề về lý thuyết của bức xạ cưỡng bức: Nếu chiếu những nguyên tử bằng một
sóng điện từ, sẽ có thể xảy ra một bức xạ “được kích hoạt” và trở thành một chùm tia
hồn tồn đơn sắc, ở đó tất cả những photon phát ra sẽ có cùng một bước sóng.
Năm 1960, chiếc laser đầu tiên ra đời do nhà bác học Maiman (Mỹ) chế tạo. Đó là
chiếc laser Ruby, laser này sử dụng Ruby làm môi trường hoạt chất. Ngay sau đó các nhà
khoa học nghiên cứu và chế tạo ra nhiều laser khác sử dụng nhiều chất khác làm mơi
trường hoạt chất. Từ đó cơng nghệ laser trở nên đa dạng với nhiều lĩnh vực: laser rắn,
laser khí, laser bán dẫn, laser lỏng... Ban đầu laser tạo ra có cơng suất thấp ứng dụng
khơng nhiều, các nhà khoa học đã nghiên cứu và dùng nhiều cách đã tạo ra được laser
công suất cao với nhiều ứng dụng quan trọng trong thực tế. Công nghệ laser phát triển
mạnh mẽ nữa sau thế kỷ 20, nhưng hiện nay công nghệ laser được nghiên cứu theo những
hướng mới. Đặc biệt là trào lưu sử dụng đơn nguyên tử vào công nghệ laser.
Ở lĩnh vực công nghệ, Nhu cầu lưu trữ thông tin cũng trở nên cần thiết. Người ta
cố tìm ra nhiều cách thức lưu trữ, truy xuất dữ liệu mà khơng cần nguồn ni mà tín hiệu
vẫn có thể tồn tại vĩnh viễn và có thể đọc, ghi sửa hay xóa bất kì lúc nào. Ngày nay, gần
như tất cả các thơng tin được số hóa và được ghi lại trong định dạng kỹ thuật số. Có nhiều
yếu tố để tạo ra mã nhị phân nhưng chỉ có 3 là có giá trị thương mại : Từ trường, quang
học và điện tử.

Page 3


ỨNG DỤNG LASER TRONG GHI VÀ ĐỌC TÍN HIỆU QUANG HỌC
Các khái niệm cơ bản của một đĩa quang bắt đầu từ năm 1961 khi các phịng thí
nghiệm nghiên cứu Stanford đã phát triển một đĩa video sử dụng công nghệ chụp ảnh.
Tuy nhiên, độ sáng thấp của nguồn ánh sáng có sẵn mang lại sao chép hình ảnh chất

lượng thấp. Columbia Broadcasting System (CBS) công bố hệ thống EVR (điện tử Video
Recorder) trong năm 1967, nhưng chi phí khổng lồ cuối cùng buộc họ phải ngừng phát
triển. Việc phát minh ra tia laser bởi T.H. Maiman et al. năm 1960 cung cấp nguồn ánh
sáng được coi là phù hợp nhất cho các ổ đĩa quang.
Laser có sự đồng bộ thời gian và khơng gian tốt, điều đó cho phép có được giới
hạn nhiễu xạ tia nhỏ cần thiết để thu hồi thông tin chất lượng cao từ đĩa quang.
Sau nhiều phương pháp được xem xét, thiết kế cơ bản của đĩa quang và phương
pháp ghi "bit-by-bit" đã được phát triển trong những năm 1970. Lần đầu tiên hệ thống đĩa
video quang học để sử dụng thương mại,nó được phát hành vào năm 1973 bởi Philips của
Hà Lan và MCA (Tổng công ty âm nhạc của Mỹ) của Hoa Kỳ.Những hệ thống đầu tiên,
laser He - Ne là nguồn ánh sáng ưa thích. Ngay sau đó, nhiều hệ thống đĩa quang học mới
được ra đời. Đĩa âm thanh kỹ thuật số (DAD) có đường kính là 12cm, sau này gọi là đĩa
CD (compact disk) đã được công bố trong năm 1978. Đến năm 1980 thì chuẩn đĩa CDDA ra đời, chúng được chuẩn hoá với định dạng Sách đỏ (Red Book). Sản phẩm CD tiêu
chuẩn từ một số nhà sản xuất bắt đầu có sẵn vào tháng 12 năm 1982. Năm 1983 Sony và
Philips tiếp tục hợp tác để đưa ra các chuẩn đĩa chung. Chuẩn định dạng Sách vàng để
phù hợp hơn với dữ liệu trên máy tính CD ROM. Máy nghe đĩa CD sử dụng laser bán dẫn
để cho phép thiết kế các đầu phát nhỏ và trọng lượng nhẹ. Năm 1996, đĩa đa năng kỹ
thuật số (DVD) cho đầu phát đã được phát hành. Các hệ thống phát lại chỉ đánh dấu sự
khởi đầu của các sản phẩm đĩa quang.

II.

Sơ lược về đĩa quang

Đĩa quang tiếng Anh là optical disc là thuật ngữ dùng để chỉ chung các loại đĩa mà
dữ liệu được ghi/đọc bằng tia ánh sáng hội tụ. Tuỳ thuộc vào từng loại đĩa quang (CD,
DVD...) mà chúng có các khả năng chứa dữ liệu với dung lượng khác nhau.
Đĩa quang là hình thức lưu trữ dữ liệu mà khi ngừng cung cấp điện (non-volatile)
sẽ khơng mất dữ liệu. Các nguồn tín hiệu được mã hóa dưới dạng số (ADC) sau đó được
điều chế và ghi trên đĩa. Các tín hiệu số được ghi trên đĩa dưới dạng các lỗ trống (pit)

hoặc mặt phẳng (land).
Đĩa quang theo đúng như ý nghĩa của tên gọi, nó sử dụng các tính chất quang học
để lưu trữ dữ liệu. Khái niệm track trên đĩa quang cũng giống như ổ đĩa cứng, mỗi track là
một vòng tròn, tuy nhiên ở đĩa quang các track là các vòng tròn hở nối tiếp nhau.
Page 4


ỨNG DỤNG LASER TRONG GHI VÀ ĐỌC TÍN HIỆU QUANG HỌC
Trên đĩa quang có các rãnh theo hình xoắn ốc từ trong ra ngồi khơng giống như
các track đồng tâm ở ổ đĩa cứng. Nó chứa các chấm sáng (có khả năng phản xạ tia sáng
đến) và điểm tối (không phải xạ hoặc phản xạ yếu đối với tia sáng chiếu vào). Tia ánh
sáng thường là tia laser có cơng suất thấp, khi chiếu vào bề mặt đĩa quang nếu gặp một
điểm sáng, tia sáng sẽ được phản xạ ngược lạ nguồn phát sáng, khi gặp một điểm tối, tia
laser không phản xạ ngược lại bởi điểm tối đã hấp thụ tia sáng chuyển hoá chúng thành
nhiệt năng nên đĩa quang thường nóng lên khi làm việc.
Tại ổ đĩa quang, trên đường chiếu của tia sáng có hệ lăng kính để phản xạ tia sáng
truyền ngược lại (khi chiếu vào điểm sáng) để không chuyển tia sáng này về nguồn phát,
mà đổi hướng chúng đến một bộ cảm biến để nhận tín hiệu (thường là các điốt cảm
quang). Tín hiệu nhận được dạng nhị phân, tương ứng với điểm sáng và tối sẽ cho kết quả
1 và 0.

Hình cấu trúc bề mặt đĩa quang
Ưu điểm
Đĩa quang đang được sử dụng trong các ứng dụng khác nhau, bao gồm các thiết bị
âm thanh bộ nhớ máy tính, tập tin hình ảnh, tập tin tài liệu và các tập tin video. Những lợi
thế của đĩa quang học trên các thiết bị nhớ khác được biết đến là:
1. Dung lượng lớn / mật độ thông tin cao.
Dung lượng thông tin của một đĩa DVD đường kính 120 mm là 4,7 GBytes cho DVDROM/RAM 1 lớp , và 8,5 GBytes cho DVD ROM hai lớp. Các sản phẩm phát triển mới
Page 5



ỨNG DỤNG LASER TRONG GHI VÀ ĐỌC TÍN HIỆU QUANG HỌC
cho thế hệ tiếp theo cho thấy một dung lượng thơng tin có thể đạt được hơn 16 Gbits / in2
bằng cách sử dụng một tia laser màu xanh và một vật kính có khẩu độ số cao.
2. Truy cập nhanh và ngẫu nhiên vào hệ thống thư viện cho phép truy cập vào
hàng loạt bộ nhớ lớn.
Cơ chế thay đổi cung cấp truy cập chỉ trong vài giây đến vài petabyte thông tin.
3. Độ tin cậy.
Bề mặt thông tin của một đĩa quang học được bao phủ bởi một lớp bảo vệ, đảm bảo sự
lưu trữ lâu dài. Truy vấn thông tin được thực hiện mà không cần tiếp xúc vật lý, làm tăng
độ tin cậy của thông tin được lưu trữ.
4. Nhân rộng.
Sản xuất hàng loạt sử dụng khn đúc, ép hoặc kỹ thuật cao là có thể thực hiện được. Sao
chép đĩa quang chi phí thấp hơn cho đĩa từ cứng hoặc băng.
5. Removability
Khả năng tương thích giữa nhân rộng và ghi đĩa giữa các ổ đĩa tiêu chuẩn cung cấp khả
năng này. Những lợi thế này dẫn đến việc sử dụng phổ biến các sản phẩm đĩa quang trong
các ứng dụng của người tiêu dùng và máy tính.
Cấu tạo đĩa quang
Một cách chung nhất, đĩa quang có cấu tạo gồm:
Lớp nhãn đĩa (chỉ có ở loại đĩa quang một mặt)
Lớp phủ chống xước (chỉ có ở loại đĩa quang một mặt).
Lớp bảo vệ tia tử ngoại.
Lớp chứa dữ liệu.
Lớp polycarbonat trong suốt (phía bề mặt làm việc)
Đối với loại đĩa quang ghi dữ liệu ở cả hai mặt, các lớp được bố trí đối xứng nhau để đảm
bảo ghi dữ liệu ở cả hai mặt đĩa.

Page 6



ỨNG DỤNG LASER TRONG GHI VÀ ĐỌC TÍN HIỆU QUANG HỌC

Cấu tạo vật lý

Vùng trong cùng của đĩa không chứa dữ liệu, dữ liệu bắt đầu được ghi ở vị trí bán kính
23mm và kết thúc ở đường kính vịng ngồi là 117mm
Vùng bán kính từ 23mm đến 25mm là vùng lead-in và vùng đường kính từ 116-117mm là
vùng lead-out. Vùng lead-in chứa các kênh thông tin phụ để truy xuất dữ liệu nhanh hơn
Cịn vùng lead-out ngồi cùng chứa dữ liệu bằng 0. Vùng này cho biết vùng chứa dữ liệu
trên CD đã kết thúc.
Độ rộng của một pit bằng khoảng bước sóng của ánh sáng và khoảng cách giữa các rãnh
bằng khoảng gấp 3 lần bước sóng
III.

Cách đĩa quang hoạt động

Page 7


ỨNG DỤNG LASER TRONG GHI VÀ ĐỌC TÍN HIỆU QUANG HỌC
Ghi tín hiệu

Khi ghi tín hiệu người ta sử dụng diode laser để tạo chùm tia laser đi qua hệ thống thấu
kính để tập trung năng lượng trên bề mặt của đĩa, cường độ của tia laser phụ thuộc vào
các bit tín hiệu và ta sẽ có các pit và các plant tương ứng trên mặt đĩa.
Các chùm tia laser phát ra từ vật kính thì tập trung vào một chỗ trên đĩa. Kích thước tại
chỗ là tỷ lệ thuận với bước sóng l của các chùm tia laser và tỉ lệ nghịch với khẩu độ số
(NA) của vật kính.
khẩu độ số NA được tính bởi (sin u ) của góc giữa quang trục và các tia biên:

NA = n*sin (u)
trong đó n đại diện cho chiết suất của mơi trường trong không gian vật thể
Ds= k*λ/ NA
k đại diện cho một hằng số phụ thuộc vào sự phân bố biên độ ánh sáng ở đồng tử vật kính.
Nếu chùm tia tới để vật kính là làn sóng phẳng, giá trị của k là 0,53. Khi chùm tia tới là
Gaussian hoặc có chứa một số quang sai, k trở thành lớn hơn.
Giả sử k = 0.53, λ= 0,405 µm và NA=0.85
Page 8


ỨNG DỤNG LASER TRONG GHI VÀ ĐỌC TÍN HIỆU QUANG HỌC
Chúng ta có được những điểm có đường kính Ds=0.25µm. Có thể lưu trữ nhiều hơn
1.4x1011 bit thơng tin trên một mặt của một đĩa quang học 5.25 in sử dụng tia có kích
thước này.
Khẩu độ vật kính hạn chế đáp ứng tần số không gian của các hệ thống quang học.

Hình. Bước sóng và khẩu độ số ở 1 số đĩa quang hiện nay
Với đường kính khoảng 12cm dữ liệu được chứa theo hình xoắn ốc từ trong ra ngồi,
khoảng cách giữa các track là 1.6µm, kích thước đường dữ liệu là 0.5µm.

Hình ảnh trên bề mặt đĩa quang
Page 9


ỨNG DỤNG LASER TRONG GHI VÀ ĐỌC TÍN HIỆU QUANG HỌC
Đọc tín hiệu

Đĩa có dữ liệu được quay với tốc độ cao, mắt đọc sẽ đọc dữ liệu ghi trên đĩa theo nguyên
tắc:
* Sử dụng tia laser ( yếu hơn lúc ghi ) chiếu lên bề mặt đĩa dọc theo các đường track có

dữ liệu, sau đó hứng lấy tia phản xạ quay lại rồi đổi chúng thành tín hiệu điện.
- Khi tia laser chiếu qua các điểm trên bề mặt đĩa bị đốt cháy sẽ khơng có tia phản xạ và
tín hiệu thu được là 0.
- Khi tia laser chiếu qua các điểm trên bề mặt đĩa không bị đốt cháy sẽ có tia phản xạ và
tín hiệu thu được là 1.
Tia phản xạ sẽ được đổi thành tín hiệu điện, sau khi khuếch đại và xử lý ta thu được tín
hiệu ban đầu.
Đĩa quang được chia thành nhiều loại khác nhau. Về dạng thức dữ liệu tồn tại: Đĩa quang
thường được chia thành các loại sau:
Đĩa đã ghi dữ liệu: Loại đĩa ca nhạc, phim, phần mềm...ngay từ khi bán ra thị
trường. Loại này người sử dụng không thể ghi thêm dữ liệu vào được (trừ một số trường
hợp đặc biệt như đĩa mua về được ghi chưa hết dung lượng theo cách ghi cho phép ghi
tiếp hay đĩa mua về là dạng RW). Do là đĩa đã ghi dữ liệu nên giá cả của đĩa này sẽ cao
hơn so với đĩa chưa ghi dữ liệu.
Đĩa chưa ghi dữ liệu - Loại ghi một lần: Đĩa được sản xuất chưa được ghi dữ
liệu nhưng chỉ cho phép người sử dụng ghi dữ liệu lần đầu tiên. Đây cũng chỉ là khái
Page 10


ỨNG DỤNG LASER TRONG GHI VÀ ĐỌC TÍN HIỆU QUANG HỌC
niệm tương đối, người sử dụng có thể có cách thức ghi dữ liệu sao cho một đĩa có thể ghi
nhiều lần liên tiếp nhau cho đến khi đĩa được ghi hết chỗ trống. Loại đĩa này thường có ký
hiệu “R”, hầu hết các đĩa bán ngoài thị trường được ghi từ loại đĩa này mà ra, người ta
còn gọi loại đĩa này là đĩa trắng và chữ R là viết tắt của Recordable.
Đĩa chưa ghi dữ liệu - Loại ghi nhiều lần: Đĩa được sản xuất chưa ghi dữ liệu
nhưng cho phép người sử dụng có thể ghi dữ liệu và sau đó có thể xố đi để ghi lại dữ liệu
khác (hồn tồn khác nội dung trước đó). Loại này thường có ký hiệu “RW”-Read-Write.
Để ghi và xóa được loại đĩa này, chúng ta cần dùng một phần mềm chuyên dụng như
Nero. Do có khả năng lưu trữ như một USB- nghĩa là ghi-xóa-ghi nên giá của loại đĩa này
rất mắc, cao khoảng 4 lần so với loại chỉ ghi một lần.

Với dạng thức: Số mặt chứa dữ liệu, đĩa quang có hai dạng sau:
Đĩa chỉ có một mặt chứa dữ liệu: Là loại đĩa thông dụng nhất: Dữ liệu chỉ chứa trên một
mặt của đĩa, mặt còn lại thường là nhãn đĩa và các lớp bảo vệ.
Đĩa có cả hai mặt chứa dữ liệu: (kiểu tương tự các đĩa nhựa của các máy hát cổ điển) Cả
hai mặt đĩa đều được ghi dữ liệu do đó loại đĩa này thường khơng có lớp nhãn đĩa hoặc
các lớp bảo vệ phần dữ liệu. Người sử dụng có thể lật mặt đĩa để đọc dữ liệu tại mặt còn
lại. Dung lượng đĩa hai mặt lớn nhất (tất nhiên) gấp đôi đĩa một mặt.
Phân loại và thông số kỹ thuật đĩa quang
Đĩa CD (CD-ROM, CD-R, CD-RW)
Dung lượng: thông dụng là đĩa có đường kính 129mm có dung lượng 605MiB (682MB)
hoặc 700MiB (737MB) – 1MiB = 220byte
Đĩa DVD (DVD-ROM, DVD-RAM, DVD±RW, DVD±R)
Dung lượng: Cấu trúc pit và land trên đĩa DVD nhỏ hơn CD và có khả năng ghi trên
nhiều lớp khác nhau
DVD-5: 4,7GB một mặt, một lớp
DVD-9: 8,5GB một mặt, hai lớp
DVD-10: 9,4GB hai mặt, một lớp
DVD-18: 17.1GB hai mặt, hai lớp
Đĩa Blu-ray (BD-ROM, BD-R, BD-RW):
Đĩa quang cao cấp được phát triển bởi hãng SONY sử dụng tia lazer xanh-tím (405nm).
Dung lượng: 25GB đối với đĩa 1 lớp, 50GB đối với đĩa 2 lớp

Page 11


ỨNG DỤNG LASER TRONG GHI VÀ ĐỌC TÍN HIỆU QUANG HỌC
Đĩa HD-DVD (HD-DVD-R, HD-DVD-RW): đĩa quang cao cấp được phát triển bởi
hãng Panasonic và NEC, dung lượng: 15GB đối với đĩa 1 lớp, 30GB đối với đĩa 2 lớp
DVD sử dụng ánh sáng laser diode có bước sóng 650nm, khác với bước sóng 780 nm đối
với CD. Việc làm này cho phép tạo nên những điểm nhỏ hơn trên bề mặt đĩa (1.32

micromet cho DVD còn 2.11 micromet đối với CD).
Tốc độ ghi của DVD là 1X, là 1350 kB/s (1318 KiB/s), trong ổ đĩa và những mẫu DVD
đầu tiên. Các mẫu gần đây hơn đã đạt tốc độ 18X hoặc 20X, nghĩa là 18 hoặc 20 lần
nhanh hơn. Lưu ý là đối với ổ đĩa Cd, 1X có tốc độ 153.6 kB/s (150 KiB/s), chậm hơn 9
lần.

Tài liệu tham khảo
Bài giảng của trường cao đẳng công nghệ thông tin iSPACE
Handbook of Optical and Laser Scanning edited byGerald F. MarshallConsultant in
OpticsNiles, Michigan, U.S.A.
/> /> /> /> />
Page 12


ỨNG DỤNG LASER TRONG GHI VÀ ĐỌC TÍN HIỆU QUANG HỌC
Thảo luận
1/ Tại sao chỉ có ghi và đọc tín hiệu bằng chùm tia laser mà không dùng ánh sáng
khác?
Bởi vì
+ Bước sóng càng ngắn thì mật độ thơng tin càng nhiều, lượng thông tin lưu trữ càng lớn.
+ Laser có tính đơn sắc cao, tính kết hợp cao, mang năng lượng lớn.
+ Laser có sự đồng bộ thời gian và khơng gian tốt, điều đó cho phép có được giới hạn
nhiễu xạ tia nhỏ cần thiết để thu hồi thông tin chất lượng cao từ đĩa quang.
2/ Bộ phận ghi và đọc có nằm trên cùng ổ đĩa hay khơng?
Phần lớn các ổ đĩa sử dụng chỉ có thể dùng để đọc. Người ta gọi đó là ổ CD-ROM, DVDROM.
Bộ phận ghi đĩa khá đắt tiền nên thường không được tích hợp nhưng vẫn có thể kết hợp
ghi và đọc. Các ổ đĩa có thể ghi và đọc là các ổ CD-RW,DVD-RW.
Hiện nay, vẫn chưa có thiết bị ghi đĩa Blu-ray mà chỉ có các nhà sản xuất đĩa
3/ Các đĩa đó có thể sao chép (copy) được hay khơng?
Hầu như các đĩa CD, DVD đều có thể sao chép được. Đó là ưu điểm đĩa CD, DVD. Nó

cho phép sản xuất hàng loạt, sao chép đĩa quang với chi phí thấp hơn cho đĩa từ cứng
hoặc băng từ.
Như đã nói thì đĩa Blu-Ray do sử dụng bước sóng ngắn, khẩu độ số lớn nên hệ thống ghi
và đọc đĩa rất đắt tiền.
Nếu chúng ta có thể chuyền được dữ liệu từ đĩa sang dạng số thì việc sao chép có thể thực
hiện được. Tùy vào việc bảo mật của đĩa quang mà các đĩa đó có thể sao chép được hay
không.

Page 13



×