Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Đề án tốt nghiệp sắp xếp hệ thống tổ chức đảng trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh thái nguyên giai đoạn 2016 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.85 KB, 32 trang )

Phần 1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ ÁN
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong những năm qua trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên các loại hình doanh nghiệp phát triển nhanh, đa dạng về
quy mơ, hình thức sở hữu đã góp phần quan trọng trong giải quyết việc làm,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Các tổ chức cơ sở đảng trong các
doanh nghiệp đã thể hiện được vị trí, vai trị hạt nhân chính trị lãnh đạo doanh
nghiệp thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh đúng chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước, chăm lo xây dựng, củng cố chính quyền và
các đồn thể vững mạnh, tích cực thực hiện công tác xã hội, từ thiện, bảo vệ
môi trường.
Tuy nhiên các tổ chức đảng trong các doanh nghiệp phát triển chưa
nhiều lại do nhiều đầu mối quản lý, chưa thống nhất với tổ chức trong hệ
thống chính trị ở cơ sở.
Để từng bước đưa công tác quản lý, lãnh đạo các tổ chức đảng trong
các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh có hệ thống, chuyên sâu, vừa đảm bảo phát
huy vai trò, chức năng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, khai thác có
hiệu quả các nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá;
chăm lo xây dựng phát triển đội ngũ doanh nhân, công nhân lao động làm cơ
sở xã hội để xây dựng Đảng, vừa chăm lo xây dựng và phát triển tổ chức
Đảng ngày một trong sạch, vững mạnh, đó là lý do lựa chọn và xây dựng Đề
án “Sắp xếp hệ thống tổ chức đảng trong các doanh nghiệp trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2016 - 2020 ”.
1.2. MỤC TIÊU
Nhằm đồng bộ, thống nhất trong công tác quản lý hệ thống và mơ hình
tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình doanh nghiệp; từng bước nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, đảm bảo giữ
vững vai trò hạt nhân chính trị lãnh đạo trong doanh nghiệp; chăm lo xây
dựng đội ngũ doanh nhân và đội ngũ công nhân vững mạnh có đủ phẩm chất



đạo đức, năng lực cơng tác; tích cực tham mưu cho Tỉnh uỷ những chủ
trương, giải pháp lãnh đạo các doanh nghiệp của tỉnh phát triển bền vững.
1.3. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ ÁN
- Tập trung sức để xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tạo được sự chuyển biến rõ rệt về chất
lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp,
làm cho tổ chức đảng ở cơ sở vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
thực sự là cầu nối giữa Ðảng với quần chúng nhân dân, lãnh đạo thực hiện tốt
nhiệm vụ chính trị và kịp thời giải quyết những vấn đề xảy ra ở cơ sở. Kiện
toàn, sắp xếp tổ chức của hệ thống chính trị đồng bộ, thống nhất, bảo đảm sự
lãnh đạo của Ðảng ở cơ sở. Tập trung củng cố, xây dựng tổ chức đảng và kết
nạp đảng viên ở những doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng, có ít hoặc chưa
có đảng viên. Chăm lo xây dựng đội ngũ cấp ủy viên, trước hết là bí thư cấp
ủy và cán bộ, đảng viên trong doanh nghiệp thật sự tiền phong gương mẫu, có
phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
- Khảo sát, nghiên cứu thực trạng chất lượng các tổ chức cơ sở đảng
tại các doanh nghiệp của tỉnh; phân tích những ưu thế, hạn chế của tổ
chức cơ sở đảng, qua đó, đề ra những giải pháp khả thi để khắc phục
những hạn chế, cũng như xác định các giải pháp thiết thực nhằm xây dựng
và phát triển các tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh đủ sức lãnh
đạo, phục vụ cho hoạt động phát triển SXKD của các doanh nghiệp trên
địa bàn tỉnh.
1.4 GIỚI HẠN CỦA ĐỀ ÁN
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
- Các tổ chức đảng trong các Khu công nghiệp của tỉnh Thái Nguyên.
- Các tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp hiện đang trực thuộc
Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên quản lý.
- Các tổ cơ sở đảng trong các loại hình doanh nghiệp được tách ra từ
tổng cơng ty (cơng ty) đóng trên địa bàn tỉnh, hoạt động độc lập theo Luật

Doanh nghiệp và khơng cịn phụ thuộc vào đơn vị chủ quản trước đây.


- Các tổ chức đảng trong các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hiện đang
sinh hoạt và trực thuộc Đảng bộ Khối các Cơ quan tỉnh Thái Nguyên.
1.4.2 Về không gian: tại tỉnh Thái Nguyên
1.4.3 Về thời gian: Đề án chủ yếu sử dụng số liệu và dữ liệu thu thập
được trong giai đoạn 2010 – 2015 và đưa ra các kiến nghị, giải pháp cho giai
đoạn 2016 – 2020.
1.4.4 Phương pháp nghiên cứu
Đề án sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích, chuyên khảo.
- Các phương pháp khác...;


Phần 2. NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TRẠNG VÀ PHÁP LÝ CỦA VIỆC SẮP
XẾP HỆ THỐNG TỔ CHỨC ĐẢNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN GIAI ĐOẠN 2016 – 2020
2.1. TƯ TƯỞNG CỦA C. MÁC - PH. ĂNGGHEN VỀ ĐẢNG
CỘNG SẢN
2.1.1. Tính tất yếu khách quan về sự ra đời các Đảng Cộng sản
2.1.1.1. Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chun chính vơ sản
Trước C. Mác và Ph. Ăngghen, các nhà khoa học đã nhận thấy: xã hội
phân chia thành giai cấp tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp; nhưng C. Mác và
Ph. Ăngghen phát hiện rằng: đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chun chính
vơ sản. Các ơng chỉ ra rằng, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, có nhiều giai cấp
mâu thuẫn sâu sắc với giai cấp tư sản về lợi ích. Trong số các giai cấp bị giai
cấp tư sản áp bức, làm cho lụi bại và suy tàn, chỉ duy nhất có giai cấp cơng
nhân là ngày càng hùng mạnh: họ là con đẻ của đại công nghiệp, bị tước đoạt

hết tư liệu sản xuất, buộc phải làm thuê cho giai cấp tư sản; là giai cấp xã hội
đông đảo, sống tập trung ở các trung tâm công nghiệp và đơ thị; có tinh thần
đồn kết, kỷ luật và cách mạng cao. Hơn nữa, tính cách mạng của giai cấp
cơng nhân khơng chỉ hình thành bởi những đặc điểm nêu trên, mà cịn vì giai
cấp cơng nhân là lực lượng sản xuất đại biểu cho phương thức sản xuất tiến
bộ trong tương lai.
Cách mạng xã hội là biểu hiện ra bên ngoài cuộc đấu tranh giải quyết
mâu thuẫn khơng thể điều hịa bên trong phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, giữa tính chất, trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Thắng lợi của cách mạng xã hội do giai cấp
công nhân lãnh đạo sẽ mở ra thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
cộng sản, tương ứng với thời kỳ này, chun chính vơ sản là một hình thức
chính trị mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng vào mục đích
kiến tạo những cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội cho chủ nghĩa cộng sản tương
lai. Khái quát những tư tưởng vĩ đại nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng


sản, Ph. Ăngghen viết: Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu
xã hội; cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra; cả hai cái đó cấu
thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đaị ấy; do đó (từ
khi chế độ cơng hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử
các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những
giai cấp đi bóc lột, giữa những giai cấp bị trị và những giai cấp thống trị, qua
các giai đoạn của sự phát triển xã hội của họ; nhưng cuộc đấu tranh ấy hiện
nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp
vơ sản) khơng cịn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức
mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải
phóng tồn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi những cuộc đấu
tranh giai cấp.
2.1.1.2. Đấu tranh giai cấp đạt đến trình độ nhất định sẽ dẫn tới sự

ra đời của chính đảng. Đấu tranh giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản
đòi hỏi sự ra đời của Đảng Cộng sản
Xã hội phân chia thành giai cấp tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp
nhằm giải quyết mâu thuẫn về lợi ích giữa các giai cấp. Đấu tranh giai cấp đạt
đến trình độ nhất định sẽ xuất hiện các đảng chính trị; đấu tranh giữa các đảng
chính trị là biểu hiện đấu tranh giai cấp đạt đến trình độ khá cao.
Người ta nhận thấy, trong xã hội nô lệ đã xuất hiện các giai cấp, mâu
thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Song, cuộc đấu tranh giữa giai cấp địa
chủ với chủ nơ, giữa nơ lệ với chủ nơ, người bình dân với chủ nơ khơng địi
hỏi phải có các đảng chính trị của giai cấp địa chủ, của giai cấp nơ lệ, của
người bình dân. Do trình độ chung của các lực lượng sản xuất thấp kém dưới
xã hội nô lệ, nên trình độ lý luận, nhận thức của các giai cấp và trình độ tổ
chức bộ máy nhà nước nơ lệ cịn tương đối thấp. Do đó, để đấu tranh chống
lại giai cấp chủ nô cầm quyền, các giai cấp bị áp bức khơng cần các đảng
chính trị lãnh đạo cuộc cách mạng chống chế độ nô lệ.
Đánh đổ chế độ nô lệ, thiết lập chế độ phong kiến là một bước tiến lớn
của lịch sử nhân loại. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất xã hội
làm xuất hiện trong lịng xã hội phong kiến, ngồi hai giai cấp chủ yếu là địa


chủ phong kiến và nơng dân, cịn xuất hiện các giai cấp mới là tư sản và công
nhân... Lực lượng sản xuất phát triển vượt bậc so với chế độ nơ lệ là tiền đề
vật chất có ý nghĩa quyết định để giai cấp địa chủ phong kiến xây dựng nên
bộ máy nhà nước hùng mạnh bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình. Muốn đánh
đổ chế độ phong kiến, lập nên chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản phải
làm cách mạng xã hội đập tan bộ máy nhà nước phong kiến, giành chính
quyền về tay giai cấp mình.
Cách mạng tư sản thành cơng ở Hà Lan và Vương quốc Anh thế kỷ
XVI, XVII đã đưa giai cấp tư sản lên vũ đài lịch sử. Kể từ đó cách mạng tư
sản lần lượt nổ ra và thắng lợi ở các nước châu Âu, châu Mỹ, thiết lập chế độ

tư bản thay thế chế độ phong kiến mục ruỗng, thối nát. Trong xã hội tư bản,
bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản hết sức đồ sộ và hoàn bị đến mức đã tạo
ra cho người ta cảm giác đây là nhà nước của nhân dân, nhà nước bảo đảm lợi
ích và an ninh cho tất cả mọi người.
Giai cấp vô sản muốn thực hiện được sứ mệnh lịch sử: trở thành giai
cấp cầm quyền, thiết lập phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, xóa bỏ cơ
sở kinh tế, xã hội của chế độ người bóc lột người thì điều kiện tiên quyết là
phải tổ chức ra chính đảng độc lập của mình. Chính đảng độc lập có vai trị
lãnh đạo cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chuyển từ đấu tranh
tự phát, lẻ tẻ, rời rạc, vì mục đích kinh tế trước mắt thành cuộc đấu tranh tự
giác, có tổ chức, có lãnh đạo, vì mục đích chính trị rộng lớn: phát triển giai
cấp cơng nhân từ một giai cấp 'tự mình" thành giai cấp “vì mình”. Về vấn đề
này, C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ: "Trong cuộc đấu tranh của mình chống
quyền lực liên hiệp của giai cấp hữu sản, giai cấp công nhân chỉ khi được tổ
chức thành một chính đảng độc lập đối lập với tất cả các chính đảng cũ do
giai cấp hữu sản lập nên, thì mới có thể hành động với tư cách là một giai
cấp. Việc tổ chức như vậy giai cấp công nhân thành một chính đảng là cần
thiết để bảo đảm thắng lợi của cách mạng xã hội và giành được mục đích cuối
cùng của nó là thủ tiêu các giai cấp" 1. Như vậy, sứ mệnh lịch sử của giai cấp
vô sản trong cuộc đấu tranh xóa bỏ nền thống trị của giai cấp tư sản tất yếu
1

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.18, Nxb CTQG, H., 1995, tr. 203..


địi hỏi sự ra đời của chính đảng vơ sản với tư cách là lãnh tụ chính trị, đội
tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
2.1.2. Quy luật ra đời và những nguyên tắc tổ chức, hoạt động của
Đảng Cộng sản
2.1.2.1. Quy luật ra đời của Đảng Cộng sản

C. Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ, đảng cộng sản ra đời là kết quả tất
yếu của sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân: Nếu
lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học không kết hợp với phong trào công nhân
thì về mặt tổ chức, thành tựu cao nhất của nó là các Hội truyền bá chủ nghĩa
Mác. Nếu phong trào công nhân không kết hợp với chủ nghĩa xã hội khoa
học, thì về mặt lý luận thành tựu cao nhất của nó là chủ nghĩa cơng đồn. Chỉ
đến khi chủ nghĩa xã hội khoa học thâm nhập vào phong trào công nhân, làm
cho giai cấp công nhân giác ngộ về địa vị lịch sử của mình, có ý thức về cuộc
đấu tranh chính trị nhằm giải phóng giai cấp và do đó nhận thấy tính tất yếu
phải lập ra chính đảng độc lập của giai cấp mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh
giành chun chính vơ sản.
C. Mác và Ph. Ăngghen không chỉ là những người đầu tiên nêu tư
tưởng về tính tất yếu, quy luật ra đời của đảng cộng sản, về tổ chức và hoạt
động của đảng, mà cịn trực tiếp tham gia phong trào cơng nhân, lập ra tổ
chức cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân thế giới. Mùa xuân năm 1847,
các lãnh tụ của tổ chức “Đồng minh những người chính nghĩa” mời C. Mác
và Ph. Ăngghen tham gia tổ chức của họ. Đến lúc này các ông nhận thấy, lý
luận về chủ nghĩa cộng sản khoa học đã chín muồi và cần được truyền bá vào
phong trào công nhân, nên đã nhận lời tham gia tổ chức "Đồng minh những
người chính nghĩa", nhưng với điều kiện tổ chức này phải được cải tổ lại.
Việc đầu tiên các ông đề xuất và được chấp thuận là cải tổ "Đồng minh những
người chính nghĩa" thành "Liên đoàn những người cộng sản"; được giao khởi
thảo Cương lĩnh và Điều lệ của Liên đoàn trên cơ sở những nguyên tắc của
chủ nghĩa cộng sản khoa học. Kể từ đây chính đảng cộng sản đầu tiên của giai
cấp công nhân quốc tế được thành lập. Lý luận của C. Mác và Ph. Ăngghen
về đảng cộng sản, ngay từ khi ra đời đã gắn chặt với thực tiễn cách mạng và


được đúc kết từ thực tiễn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế thế
kỷ XIX.

2.1.2.2. Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản
Thực tiễn hoạt động của một số tổ chức cộng sản và những văn kiện do
C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo cho thấy, các tổ chức này đã thể hiện quan
điểm, tư tưởng của hai ông về những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Đảng Cộng sản, những nguyên tắc ấy có thể tóm gọn lại như sau:
Một là, Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, có lý luận cách
mạng, giác ngộ và kiên quyết trong hoạt động thực tiễn.
Ba là, Đảng được xây dựng trên tinh thần của nguyên tắc tập trung dân
chủ.
Bốn là, người vào Đảng phải thừa nhận thế giới quan cộng sản chủ
nghĩa; hành động phù hợp mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng; tự giác phục tùng
nghị quyết và giữ gìn bí mật của Đảng.
Năm là, Đảng phải thường xuyên được củng cố vững chắc, thống nhất
về tư tưởng và tổ chức.
Sáu là, Đảng phải có cơ cấu tổ chức phù hợp với điều kiện và thời gian
hoạt động, với nhiệm vụ mà Đảng phải giải quyết.
Bảy là, Đảng được xây dựng trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô
sản, "vô sản tất cả các nước đoàn kết lại".
2.2. LÊNIN KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO TƯ
TƯỞNG CỦA C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN
Kế thừa những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về Đảng Cộng
sản, V.I. Lênin đã tích cực tham gia vào q trình xây dựng Đảng Công nhân
dân chủ - xã hội Nga (năm 1898) theo hướng xây dựng một chính đảng cách
mạng thật sự của giai cấp công nhân. Trong các tác phẩm Làm gì? viết vào
tháng 3-1902 và tác phẩm Một bước tiến, hai bước lùi viết vào đầu năm 1904,
V.I. Lênin đã đóng vai trị xuất sắc trong q trình xây dựng một đảng cơng
nhân mácxít cách mạng. V.I. Lênin đã luận chứng và phát triển tư tưởng của
C. Mác và Ph. Ăngghen về Đảng Cộng sản, đề xuất những ngun tắc về
chính đảng vơ sản kiểu mới của giai cấp công nhân Nga:



- Đảng là đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức chặt chẽ nhất, giác
ngộ nhất của giai cấp công nhân.
- Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động
của Đảng.
- Đảng được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Đảng gắn bó chặt chẽ với quần chúng nhân dân, kiên quyết đấu tranh
ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng.
- Đảng là một khối đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ
chức; tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng.
- Khi có chính quyền, Đảng là hạt nhân lãnh đạo chun chính vơ sản
và là một bộ phận của hệ thống đó.
- Đảng mạnh lên do thường xuyên đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội
trong Đảng.
- Đảng tuân theo chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
2.3. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG VÀ PHÁT
TRIỂN HỌC THUYẾT MÁC – LÊNIN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG
XÂY DỰNG ĐẢNG
2.3.1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam tuân theo quy luật
chung và đặc thù của cách mạng Việt Nam
2.3.1.1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam tuân theo quy luật
chung về sự ra đời của các Đảng Cộng sản, đồng thời tuân theo quy luật
đặc thù của cách mạng Việt Nam
Để xây dựng một đảng cách mạng vững chắc, đủ sức lãnh đạo cách
mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng, Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng
sáng tạo học thuyết Mác - Lê nin về đảng cộng sản vào xây dựng Đảng ta trên
ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Về chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng lý luận của V.I. Lê nin về
cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới để phác thảo Cương lĩnh chính trị tương
lai của Đảng: “cách mệnh Việt Nam bây giờ còn là tư sản dân quyền cách

mệnh. Trong công cuộc cách mạng này, thổ địa cách mệnh là một bộ phận rất


trọng yếu”2. Giai cấp lãnh đạo cuộc cách mạng đó, khơng có ai khác ngồi
giai cấp cơng nhân: “Cách mạng bây giờ, cũng như về bước sau, vô sản giai
cấp phải đứng về địa vị lĩnh đạo mới được” 3. Sau khi thực hiện cách mạng
dân chủ tư sản thắng lợi, giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, tiếp tục làm cách mạng xã hội chủ nghĩa để “phá tan cái
xã hội bất bình hiện tại mà lập ra xã hội ai cũng phải làm, ai cũng đủ dùng, ai
cũng tự do, bình đẳng, tức là xã hội cộng sản”4.
Về tư tưởng, Người khẳng định dứt khoát phải xây dựng Đảng trên cơ
sở tư tưởng của chủ nghĩa Lênin: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm
cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà
không có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ
nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”5.
Về tổ chức, Nguyễn Aí Quốc nhấn mạnh, phải xây dựng một đảng
“vững bền”, “chắc chắn” cho cách mạng Việt Nam. Đây là cách diễn đạt đơn
giản, dễ hiểu của Người về một nhiệm vụ rất khó khăn là xây dựng Đảng ta
thành một đảng cách mạng, chiến đấu, đủ sức dẫn dắt giai cấp và dân tộc trên
đường tranh đấu đến thắng lợi cuối cùng. Trong Sách lược vắn tắt của Đảng,
tại khoản 1 ghi: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho
được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai mình lãnh đạo được dân
chúng”6. Về bản chất giai cấp của Đảng, văn kiện chỉ rõ: Đảng phấn đấu vì lợi
ích của giai cấp công nhân và nông dân, không bao giờ hy sinh quyền lợi của
hai giai cấp ấy cho các giai cấp khác. Về tơn chỉ, mục đích, Điều lệ vắn tắt
của Đảng Cộng sản Việt Nam ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để
lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế
quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”7.
2


Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t. 2, Nxb Chính trị quốc gia, H., 1998, tr. 106.

3

Sđd, tr. 115.

4

Sđd, tr 107.

5

Sđd, tr. 24.

6

Sđd, tr. 4.

7

Sđd, tr 7.


Có thể nói, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời tuân theo quy luật chung
về sự ra đời của các đảng cộng sản, là kết quả sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã
hội khoa học với phong trào công nhân Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.
Tuy nhiên, do đặc thù của cách mạng Việt Nam, sự ra đời của Đảng còn là sự
kết hợp với phong trào yêu nước Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người
thực hiện sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê nin với phong trào công nhân và

phong trào yêu nước Việt Nam để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.3.1.2. Trong suốt q trình phát triển, Đảng ta ln vận dụng và
phát triển sáng tạo những nguyên tắc xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác Lê nin
Trải qua hơn tám mươi năm ra đời, phát triển, Đảng ta luôn vận dụng
và phát triển sáng tạo những nguyên tắc cơ bản của học thuyết Mác - Lê nin
về xây dựng Đảng Cộng sản. Tồn bộ cơng tác xây dựng Đảng qua các thời
kỳ cách mạng khác nhau, tuy cách diễn đạt về các nguyên tắc xây dựng Đảng
có khác nhau một vài điểm, nhưng nhìn chung Đảng ta vẫn ln khẳng định
các nguyên tắc sau: một là, Đảng là đội tiên phong của giai cấp, đồng thời là
đội tiền phong của nhân dân lao động và dân tộc; hai là, chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng; ba là, tập trung
dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của Đảng; bốn là, Đảng
gắn bó mật thiết với nhân dân; năm là, Đảng là một khối đoàn kết thống nhất,
thường xuyên tự phê bình và phê bình để phát triển; sáu là, Đảng là hạt nhân
lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống; bảy là,
Đảng phải tích cực kết nạp những quần chúng ưu tú của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động vào Đảng, kịp thời đưa những người không đủ tư cách ra
khỏi Đảng; tám là, Đảng tuân theo chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Tuân thủ nghiêm ngặt tám ngun tắc chủ yếu nói trên trong q trình xây
dựng Đảng ta là một trong những nguyên nhân có tính quyết định bảo đảm
cho Đảng ta giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân, đại biểu trung
thành cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt
Nam; là cơ sở khoa học để Đảng ta không ngừng chăm lo xây dựng Đảng,


nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng ln
xứng đáng vai trị người lãnh đạo cách mạng Việt Nam
2.3.2. Đảng Cộng Sản Việt Nam; Vị trí, vai trị và chức năng,
nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng
2.3.2.1 Đảng Cộng Sản Việt nam
Điều lệ Đảng khóa XI, nêu rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên

phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo
cách mạng của Đảng.
2.3.2.2. Khái niệm, vị trí, vai trị và nhiệm vụ chức năng của tổ chức
cơ sở Đảng
+ Khái niệm
Tổ chức cơ sở Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam bao gồm các chi bộ,
đảng bộ cơ sở. Đảng xác định đó là nền tảng của Đảng và là hạt nhân chính trị
ở cơ sở.
Đảng phải gắn bó, liên hệ chặt chẽ với quần chúng; ở đâu có quần
chúng, ở đó cần có sự lãnh đạo của Đảng. Mọi tầng lớp nhân dân, ai cũng đều
sinh sống, lao động sản xuất, công tác, học tập ở một đơn vị cơ sở nhất định
trong hệ thống tổ chức xã hội. Theo tinh thần đó, tổ chức cơ sở Đảng được
thành lập tương ứng với cấp hành chính nhà nước ở cơ sở (xã, phường, thị
trấn); cơ quan, đơn vị sự nghiệp hoặc đơn vị cơ sở trong Công an nhân dân và
Quân đội nhân dân, tổ chức kinh tế (các loại hình hợp tác xã, các doanh
nghiệp, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Ở các cơ sở trên,
nếu có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở Đảng, nếu chưa
đủ ba đảng viên chính thức thì cấp ủy cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên
sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp.


Điều 21, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua Đại hội XI
của Đảng quy định:
- Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các
tổ đảng trực thuộc.

- Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ
sở, có các chi bộ trực thuộc đảng uỷ.
Như vậy, tổ chức cơ sở đảng gồm chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở.
Việc lựa chọn mơ hình tổ chức nào (chi bộ cơ sở hoặc đảng bộ cơ sở) phụ
thuộc vào số lượng đảng viên chính thức và phải được cấp ủy cấp trên (quận,
huyện ủy hoặc tương đương) trực tiếp quyết định.
- Về tổ chức cơ sở đảng, Điều lệ quy định những trường hợp sau đây,
cấp ủy cấp dưới phải báo cáo và được cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý mới
được thực hiện:
+ Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên.
+ Lập chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở có hơn ba mươi đảng viên.
+ Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng ủy cơ sở.
Những năm gần đây, thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, ở nước ta có nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau. Do vậy, ngồi các loại hình tổ chức cơ sở đảng được tổ chức tại
đơn vị cơ sở hành chính (xã, phường, thi trấn), các đơn vị sự nghiệp, cơ quan,
doanh nghiệp nhà nước, đơn vị cơ sở trong cơng an, qn đội...cịn xuất hiện
tổ chức cơ sở đảng trong các đơn vị doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngồi.
+ Vị trí, vai trò và chức năng nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng
- Vị trí, vai trị
Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng:
- Xét trong hệ thống tổ chức của Đảng, thì tổ chức cơ sở đảng là tổ
chức đảng nhỏ nhất, số lượng nhiều nhất và gắn liền với các tổ chức hành
chính, kinh tế ở cơ sở. Vì vậy, tổ chức cơ sở đảng là “nền tảng”, là “gốc rễ”
của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng” và


“...chi bộ là nền tảng của Đảng, của cách mạng ở xã... Đảng mạnh là do các
chi bộ mạnh” và “Các chi bộ mạnh tức là Đảng mạnh”.

- Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với mọi mặt của đời sống xã
hội, tổ chức cơ sở đảng vừa là nơi trực tiếp thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đồng thời cũng là nơi góp
phần phát triền và hồn thiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Sức mạnh của Đảng là sự gắn bó, liên hệ mật thiết với nhân dân.
Trong mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, vai trò của tổ chức cơ sở đảng là
những “sợi dây chuyền” trực tiếp nối liền Đảng với dân. Nói về vấn đề này,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tác dụng của chi bộ là cực kỳ quan trọng, vì
nó là sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng”.
Tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân chính trị ở cơ sở:
- Đảng là một thành viên của hệ thống chính trị, nhưng là thành viên
giữ vị trí, vai trị lãnh đạo hệ thống đó, bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở
theo đúng định hướng chính trị của Đảng.
- Tổ chức cơ sở đảng cịn là nơi giáo dục, tổ chức, động viên nhân dân
thực hiện có hiệu quả Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, góp phần xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở là trung tâm đoàn kết quy tụ, tập hợp
được mọi lực lượng ở cơ sở thành một khối thống nhất ý chí và hành động,
tạo ra sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của cơ
sở.
2.4- NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
2.4.1- Căn cứ Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Ba, Trung ương
Chín (khố IX) về “Sắp sếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp Nhà nước”.
2.4.2- Căn cứ Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI; Nghị
quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XVIII.


2.4.3- Căn cứ Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung

ương (khoá X) về “tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
2.4.4- Căn cứ Quy định số 294-QĐ/TW ngày 23 tháng 3 năm 2010 của
Ban Bí thư Trung ương quy định chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của
Đảng uỷ khối doanh nghiệp tỉnh, thành phố.
2.4.5- Căn cứ Quyết định số 494-QĐ/TU ngày 16 tháng 5 năm 2003
của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về thành lập Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh.
2.4.6- Căn cứ Hướng dẫn số 38-HD/BTCTW ngày 9 tháng 3 năm 2012
của Ban Tổ chức Trung ương về xây dựng và hoàn thiện mơ hình tổ chức của
một số loại hình tổ chức cơ sở đảng.
2.5. TÌNH HÌNH CÁC TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
2.5.1. Thực trạng tình hình tổ chức cơ sở đảng và đảng viên trong
các doanh nghiệp
Thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, nhiều thành phần và chủ động hội nhập quốc tế, các doanh nhà
nước và đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước (DNNKVNN)
ở nước ta đã phát triển mạnh mẽ, góp phần to lớn vào tăng trưởng kinh tế của
đất nước, giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động, đẩy mạnh thực hiện
mục tiêu CNH, HĐH đất nước. Tính đến 6-2014, số lượng  DNNKVNN là
353.690. Trong đó, doanh nghiệp trong nước là 342.857, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài là 10.833(*) Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của Tổng cục
Thống kê.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với khu vực kinh tế quan
trọng này, bảo đảm cho các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngồi tiếp tục phát triển lành mạnh, đúng hướng, đóng góp tích cực
vào cơng cuộc CNH, HĐH đất nước, từ năm 1996, Bộ Chính trị (khố VIII)
đã có Chỉ thị số 07-CT/TW "Về tăng cường cơng tác xây dựng đảng và các
đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần tư nhân (gọi tắt là doanh nghiệp tư nhân) và doanh



nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi". Năm 2010, Ban Bí thư có Kết luận số 80KL/TW ngày 29-7-2010 về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TW
của Bộ Chính trị (khóa VIII) trong tình hình mới, chủ trương đẩy mạnh việc
xây dựng và củng cố tổ chức đảng và đoàn thể trong các doanh nghiệp tư
nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi và u cầu cấp uỷ các cấp
thường xuyên chăm lo việc nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức
đảng trong doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Nằm trong xu thế phát triển chung của cả nước, tính đến cuối năm 2012
tồn tỉnh Thái Ngun có trên 3.305 doanh nghiệp, trong đó 206 doanh
nghiệp đã có tổ chức cơ sở đảng, chiếm 6,23% tổng số các doanh nghiệp,
chiếm 26,7 % tổng số tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ tỉnh với 8.227
đảng viên, trong đó có 183 tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp Nhà
nước, công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên, công ty cổ phần
được chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước sang, chiếm 88,83%; 19 tổ chức
cơ sở đảng trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần tư nhân và các hợp tác xã, chiếm 9,23% và 4 tổ chức cơ sở
đảng trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên
doanh với nước ngoài, bằng 1,94%. Các tổ chức cơ sở đảng trong doanh
nghiệp hiện đang trực thuộc nhiều cấp uỷ cấp trên trực tiếp quản lý, cụ thể:
- Đảng bộ khối Doanh nghiệp tỉnh quản lý 63 tổ chức cơ sở đảng,
chiếm 30,58 % tổng số tổ chức cơ sở đảng trong tỉnh với trên 2.923 đảng
viên;
- Các huyện, thành phố, thị xã quản lý 75 tổ chức cơ sở đảng, chiếm
36,41 % tổng số tổ chức cơ sở đảng trong tỉnh với 1.964 đảng viên.
- Các đảng bộ trực thuộc Tỉnh uỷ (Đảng bộ Công ty cổ phần Gang thép,
Đảng bộ Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên Kim loại
màu, Đảng bộ Công ty cổ phần Đầu tư và sản xuất công nghiệp và Đảng bộ
Các cơ quan tỉnh) quản lý 68 tổ chức cơ sở đảng, chiếm 33,01 % tổng số tổ
chức cơ sở đảng trong tỉnh với gần 3.340 đảng viên.

2.5.2. Những thuận lợi và khó khăn, bất cập
2.5.2.1- Những thuận lợi


- Trong những năm qua thực hiện chủ trương “Sắp xếp, đổi mới và
nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước” theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 3, Trung ương 9 (khoá IX), Nghị quyết Đại hội X và
XI của Đảng, đồng thời tỉnh có nhiều giải pháp, cơ chế, chính sách khuyến
khích, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển nên số lượng, chất lượng, quy mơ,
loại hình doanh nghiệp và đội ngũ đảng viên trong các doanh nghiệp cũng
được tăng cường hơn so với trước đây.
- Các chỉ thị, nghị quyết, đề án của Trung ương, của Tỉnh uỷ nhằm
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất
lượng đội ngũ đảng viên được triển khai, quán triệt kịp thời đã củng cố vai trị
hạt nhân chính trị ở cơ sở, lãnh đạo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị
sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm cho người lao động; bảo đảm an ninh,
quốc phịng; củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, góp phần quan trọng vào sự
phát triển chung của tỉnh.
- Nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng doanh
nghiệp có nhiều tiến bộ, đảm bảo đúng đường lối đổi mới, đáp ứng chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cơ sở pháp lý và
mơi trường thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp phát triển.
- Đảng bộ các huyện, thành, thị uỷ, đảng uỷ trực thuộc đã bám sát sự
chỉ đạo của Tỉnh uỷ, tập trung lãnh đạo các tổ chức cơ sở đảng trong các
doanh nghiệp thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị; đảm bảo an ninh quốc phịng;
tích cực chăm lo xây dựng, củng cố tổ chức đảng, đoàn thể vững mạnh; kịp
thời tham mưu với tỉnh về các lĩnh vực phát triển cơng nghiệp, doanh nghiệp.
- Các tổ chức đồn thể quần chúng trong các doanh nghiệp được các
cấp uỷ, lãnh đạo doanh nghiệp quan tâm đã có nhiều hoạt động thiết thực góp

phần thúc đẩy các phong trào thi đua trong các doanh nghiệp.
2.5.2.2- Những hạn chế, bất cập
- Hệ thống và mơ hình tổ chức đảng, các tổ chức đồn thể trong hệ
thống chính trị ở doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh hiện còn trực thuộc nhiều cấp


khác nhau, công tác xây dựng Đảng chưa gắn kết chặt chẽ với lãnh đạo thực
hiện nhiệm vụ chính trị và củng cố các đồn thể quần chúng.
- Q trình sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 3, Trung ương 9 (khoá IX), Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã có
một số đơn vị thành viên của các tổng công ty chuyển sang hoạt động theo mơ
hình cổ phần, có tư cách pháp nhân, hoạt động độc lập theo Luật Doanh
nghiệp, khơng cịn phụ thuộc đơn vị chủ quản trước đây cả về vốn, ngành
nghề kinh doanh, công tác cán bộ…nhưng tổ chức đảng, đoàn thể chưa được
sắp xếp lại. Một số chi nhánh, trạm, trại, trung tâm… trực thuộc các cơng ty
đóng trên địa bàn các huyện, thành phố, thị xã khơng có tư cách pháp nhân,
mọi hoạt động phụ thuộc vào công ty nhưng lại có tổ chức cơ sở đảng ngang
cấp với công ty (công ty và chi nhánh trực thuộc đều có tổ chức cơ sở đảng)
trực thuộc cấp uỷ cấp trên khác nhau dẫn đến quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
trong các doanh nghiệp có sự chồng chéo, thiếu tập trung và hiệu quả thấp.
- Nội dung, phương thức lãnh đạo, mối quan hệ công tác giữa cấp uỷ,
tổ chức đảng với bộ máy quản lý, điều hành trong doanh nghiệp chậm đổi
mới, nhiều điểm chưa theo kịp với tiến trình phát triển của doanh nghiệp. Một
số tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước chi
phối hoạt động còn mang nặng phương thức thời bao cấp; trong khi một số tổ
chức đảng ở các doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước khơng chi phối hoặc
khơng cịn vốn nhà nước hoạt động có nhiều lúng túng, hiệu quả cịn thấp.
- Chất lượng hoạt động của các đoàn thể trong các doanh nghiệp ngồi
khu vực nhà nước cịn hạn chế, chưa thu hút được đơng đảo đồn viên, hội
viên tham gia sinh hoạt, chưa thực hiện đúng chức năng bảo vệ quyền và

nghĩa vụ chính đáng của đồn viên hội viên. Tổ chức Cơng đồn trong các
doanh nghiệp cịn do nhiều cấp, ngành quản lý, trong khi ngành chủ quản chỉ
giữ vai trò quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực, không lãnh đạo, chỉ đạo
trực tiếp các doanh nghiệp như trước đây, do đó một số nội dung trong cơng
tác lãnh đạo, chỉ đạo của cơng đồn ngành chưa sát với tình hình của doanh
nghiệp.
2.5.2.3- Nguyên nhân của hạn chế, bất cập


+ Nguyên nhân khách quan
- Quá trình sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước diễn ra nhanh chóng, nhiều mơ hình tổ chức cơ sở đảng
trong các loại hình doanh nghiệp mới xuất hiện, trong khi các quy chế, quy
định về chức năng, nhiệm vụ; công tác lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý chưa
được đồng bộ, kịp thời.
- Nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội ở các huyện, thành phố, thị xã nặng
nề, số lượng đầu mối các tổ chức cơ sở đảng nhiều, đa dạng và phức tạp. Một
số địa phương còn thiếu đội ngũ cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực quản lý hoạt
động của doanh nghiệp do đó chưa có điều kiện quan tâm nghiên cứu, đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng trong
doanh nghiệp.
+ Nguyên nhân chủ quan
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp giữa các cấp, các ngành trong
việc sắp xếp các tổ chức đảng ở các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh còn thiếu
những chủ trương, giải pháp mang tính đồng bộ, thống nhất.
- Cùng với q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố, số lượng cơng nhân
và doanh nghiệp tăng nhanh nhưng chưa có các quy định, hướng dẫn mang
tính thống nhất trong việc phát triển doanh nghiệp với phát triển tổ chức đảng
cũng như bố trí, sắp xếp vào một hệ thống nhất định, do đó có tình trạng
doanh nghiệp được thành lập và hoạt động một nơi nhưng tổ chức đảng lại

trực thuộc cấp uỷ cấp trên nơi khác.
- Bản thân một số cấp uỷ, tổ chức đảng trong doanh nghiệp chưa nhận
thức và quán triệt đầy đủ, sâu sắc nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng
Đảng, chưa tích cực, chủ động đề ra các biện pháp nhằm nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng.
Tóm lại: Từ thực trạng và những nguyên nhân phân tích ở trên,
chúng ta thấy được sự cần thiết phải sắp xếp hệ thống tổ chức đảng trong
các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, với các lý do sau:
- Xuất phát từ vị trí vai trị hạt nhân chính trị của tổ chức đảng trong
doanh nghiệp bảo đảm lãnh đạo việc chấp hành đường lối, chính sách của


Đảng, pháp luật của Nhà nước; tham gia, đề ra và lãnh đạo thực hiện có hiệu
quả nhiệm vụ phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, phát huy dân chủ, thi đua hoàn
thành nhiệm vụ; lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và đấu tranh
chống tiêu cực, tham nhũng, lãnh đạo các tổ chức quần chúng làm tốt chức
năng, nhiệm vụ.
- Tập trung sức để xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tạo được sự chuyển biến rõ rệt về chất
lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp,
làm cho tổ chức đảng ở cơ sở vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
thực sự là cầu nối giữa Ðảng với quần chúng nhân dân, lãnh đạo thực hiện tốt
nhiệm vụ chính trị và kịp thời giải quyết những vấn đề xảy ra ở cơ sở. Kiện
tồn, sắp xếp tổ chức của hệ thống chính trị đồng bộ, thống nhất, bảo đảm sự
lãnh đạo của Ðảng ở cơ sở. Tập trung củng cố, xây dựng tổ chức đảng và kết
nạp đảng viên ở những doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng, có ít hoặc chưa
có đảng viên. Chăm lo xây dựng đội ngũ cấp ủy viên, trước hết là bí thư cấp
ủy và cán bộ, đảng viên trong doanh nghiệp thật sự tiền phong gương mẫu, có
phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, hoàn thành tốt

nhiệm vụ được giao.
- Việc sắp xếp quản lí các tổ chức đảng trong các doanh nghiệp thời
gian vừa qua có nhiều bất cập cịn chồng chéo, chưa có tiêu chí thống nhất cụ
thể chưa phát huy hết vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng trong doanh
nghiệp, đòi hỏi phải sớm được khắc phục kiện toàn, sắp xếp lại để nâng cao
chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng trong thời gian tới.
2.6. QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG SẮP XẾP HỆ THỐNG TỔ
CHỨC ĐẢNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
2.6.1. Quan điểm
- Tạo sự chuyển biến rõ rệt về chất lượng hoạt động của các loại hình tổ
chức đảng trong các doanh nghiệp; tăng cường công tác quản lý và phát triển
đảng viên, bảo đảm hiệu quả, chất lượng theo quy định của Điều lệ Đảng;
từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ.



×