1
Tiểu luận
Quan hệ giữa điều ước quốc tế và luật quốc gia
Thực tiễn một số nước trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa điều ước quốc tế và luật quốc gia
2
Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia chủ yếu thể hiện qua
quan hệ thứ bậc giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia cũng như
việc áp dụng điều ước quốc tế ở quốc gia đó. Đây là một trong những vấn
đề cơ bản của khoa học pháp lý hiện đại.
Những luận điểm cơ bản là:
1. Pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai bộ phận cấu thành của
cùng một hệ thống pháp luật hay là hai hệ thống khác nhau
2. Các quy phạm ĐƯQT có vị trí thế nào trong tương quan so sánh với
pháp luật quốc gia
3. Điều ước quốc tế có thể được áp dụng trực tiếp hay được thong quá
quá trình chuyển hoá ĐƯQT vào pháp luật quốc gia.
Đối với những vấn đề trên, mỗi quốc gia đều có những qui định riêng;
tuy nhiên về tổng thể dựa trên cách ứng xử của các quốc gia, người ta
thường chia thành 4 nhóm nước : nước thông luật, nhóm nước dân luật.
nhóm nước, nhóm nước xã hội chủ nghĩa cũ, nóm nước đang phát triển.
Dưới đây sẽ tìm hiểu quan điểm của các nhóm nước về điều ước quốc tế
thông qua phân tích một số nước đại diện.
1, Nhóm nước thông luật: đại diện: nước Anh (UK)
a. Quan hệ thứ bậc
Về cơ bản, có hai trường phái về quan hệ thứ bậc giữa ĐƯQT và luật
quốc gia : trường phái nhất nguyên coi pháp luật quốc tế và luật quốc gia
3
là hai bộ phận cấu thành của cùng một hệ thống, trong khi trường phái
nhị nguyên cho rằng đây là hai hệ thống tách biệt hoàn toàn và chỉ có mối
quan hệ trong một chừng mực nhất định.
Cùng trong nhóm thông luật nhưng nếu như Mỹ theo trường phái nhất
nguyên dung hoà thì UK lại theo trường phái nhị nguyên dung hoà. Chủ
nghĩa nhị nguyên dung hoà xuất phát từ chỗ tách biệt cơ bản hai hệ thống
pháp luật là pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế nhưng không phủ
nhận khả năng xung đột giữa hai hệ thống này. Cả hai hệ thống luật có
các quy định dựa vào nhau, dẫn chiếu nhau , hoặc chuyển hoá các quy
phạm từ hệ thống pháp luật này đến hệ thống pháp luật khác. Do đó mà
pháp luật quốc tế chiếm ưu thế hơn pháp luật quốc gia.
b. Việc áp dụng ĐƯQT
Bất kể theo trường phái nhất nguyên hay nhị nguyên, các nước sẽ vẫn
phải bằng cách này hay cách khác thực hiện những ĐƯQT mà mình đã
ký kết. Điều 27 Công ước Viên năm 1969 của LHQ về luật ĐƯQT qui
định: “ Một bên không thể viện dẫn những qui định pháp luật trong nước
của mình là lý do để không thi hành điều ước”.
Tuy nhiên cách thức để làm cho ĐƯQT có hiệu lực vẫn khác nhau các
nước theo hai trường phái: Phái chấp nhận cho rằng ĐƯQT có hiệu lực
trực tiếp trong các lĩnh vực của pháp luật quốc gia mà không cần nội luật
hoá; phái chuyển hoá cho rằng pháp luật quốc tế không thể được áp dụng
trực tiếp và ĐƯQT muốn phát huy hiệu lực thì phải được nội luật hoá,
4
nghĩa là toàn bộ hoặc một phần nội dung điều ước phải được chuyển đổi
dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật quốc gia
Học thuyết chấp nhận
Khước từ việc ban hành văn bản thi hành của nhà nước như là cầu nối
giữa quy phạm pháp luật quốc tế và việc áp dụng trong nước. Với sự chấp
nhận, các quy phạm ĐƯQT được công nhận như là pháp luật trong nước.
Và UK là quốc gia đi đầu cho việc áp dụng nguyên tắc này ở các nước
theo hệ thống luật Ănglo-Xắc xông. Luật UK quy định: “luật quốc tế là
một bộ phận của luật quốc gia” (Blackstone).
2. Nhóm nước dân luật ( Civil law):
Hà Lan
a) Thứ tự ưu tiên của điều ước quốc tế so với luật quốc gia
Luật quốc gia Hà Lan không quy định rõ điều ước quốc tế có phải là
một bộ phận cấu thành luật quốc gia hay không nhưng vẫn thừa nhận giá trị
ưu tiên của điều ước quốc tế so với luật quốc gia, thậm chí điều ước quốc tế
có thể được xếp ngang hàng với Hiến pháp. Theo điều 65, Hiến pháp Hà
lan: “ Các điều luật mà được ban hành trước hoặc sau khi điều ước quốc tế
được công bố nếu việc áp dụng mà trái với các quy định của hiệp định thì
sẽ không được áp dụng.”
Theo quy định của điều 66, Hiến pháp các điều ước quốc tế sẽ có giá
trị ràng buộc ngay sau khi được công bố. Và do đó sẽ được áp dụng một
cách trực tiếp tại các toà án của Hà lan theo quy định của điều 60, đoạn 3,
5
hiến pháp: “Các Toà án không có thẩm quyền để xem xét tính hợp hiến của
các hiệp định này”.
b) Thẩm quyền ký kết và phê chuẩn điều ước quốc tế
Theo quy định của Điều 60, Hiến pháp Hà lan 1956:
“ Nhà vua có thẩm quyền ký kết các hiệp định với các chính quyền nước
ngoài và các tổ chức quốc tế mà dựa trên luật quốc tế. Nếu những hiệp
đinh này yêu cầu phê chuẩn thì nhà vua cũng có thẩm quyền phê chuẩn.
Những hiệp định này phải được đệ trình lên Quốc hội trong thời gian
sớm nhất; khi có được sự thông qua của Quốc hội chúng mới được phê
chuẩn và có hiệu
Các Toà án không có thẩm quyền để xem xét tính hợp hiến của các hiệp
định này.”
Hà Lan là một nước quân chủ lập hiến vẫn còn tồn tại chế độ vua
chúa, tuy nhiên hầu hết quyền lực của Nhà vua lại đặt dưới sự điều chỉnh
của Quốc hội. Do đó, ở Hà Lan Nhà vua có thẩm quyền ký kết các điều ước
quốc tế nhưng phải được sự thông qua của Quốc hội thì điều ước đó mới
được phê chuẩn và có hiệu lực. Tuy nhiên trong những trường hợp quy
định trong Điều 62, Hiến pháp 1956 thì điều ước quốc tế sẽ có hiệu lực
ngay mà không cần đến sự thông qua của Quốc hội.
Điều 62, Hiến pháp Hà Lan 1956 quy định về việc có hiệu lực của
điều ước quốc tế mà không cần có sự thông qua của Quốc hội
6
“a. nếu hiệp định liên quan đến những vấn đề được tuyên bố trong
luật pháp;
b. nếu hiệp định liên quan đến việc thi hành một hiệp định khác đã
được thông qua
d. trong trường hợp khẩn cấp liên quan đến lợi ích quốc gia thì
hiệp định sẽ ngay lập tức có hiệu lực
c) Thủ tục phê chuẩn điều ước quốc tế
Theo quy định của Hiến pháp cũ, các hiệp ước (mà sau khi ký kết cần
phải được phê chuẩn) cần phải được thông qua bởi Nghị viện sau khi được
ký kết phải được đệ trình lên Quốc hội như một phần phụ lục của một dự
luật miễn là dự luật đó đã được thông qua. Sau khi dự luật trên được ban
hành, hiệp ước sẽ được nhà vua phê chuẩn. Các hiệp định khác ( mà không
cần phải phê chuẩn trước khi thông qua) chỉ cần đệ trình lên Quốc hội để
thông báo ngay sau khi nó có hiệu lực.
Tuy nhiên , do số lượng các hiệp ước và hiệp định ngày càng tăng nên
nguyên tắc các hiệp định cần phải được Quốc hội thông qua có thể ngăn
cản sự có hiệu lực của các hiệp định. Do đó, hiến pháp sửa đổi năm 1956 đã
quy định về cơ chế đồng thuận của Quốc hội tại điều 61. Nhưng thủ tục
được quy định trong điều 61 chỉ được áp dụng nếu nhà vua không cho rằng
điều đó là cần thiết để đệ trình một hiệp định lên Quốc hội. Nếu nhà vua
nghĩ rằng đó là cần thiết để một hiệp định được thông qua bởi Quốc hội.
7
Điều 60 Hiến pháp sửa dổi 1956 cũng quy định rằng các hiệp định phải đệ
trình lên Quốc hội ngay khi có thể. Việc này áp dụng cả trong trường hợp
không cần có sự thông qua của Quốc hội. Tuy nhiên Hiến pháp năm 1956
cũng quy định rằng Nhà vua trong quá trình đệ trình hiệp định lên Quốc hội
cũng phải chỉ ra rằng liệu: hiệp định có nằm trong những ngoại lệ ở điều
62 không; hiệp định có thuộc những hiệp định được quy định trong điều 61
hay không; liệu chính phủ có ý định đệ trình 1 dự thảo Luật bao gồm cả sự
thông qua một cách hợp pháp hay không
Philippin: Nhóm nước đang phát triển
Tương tự luật của Anh
Article 2:
Declaration of Principles and State Policies
Principles
SEC. 2.
The Philippines renounces war as an instrument of national policy, adopts
the generally accepted principles of international law as part of the law of
the land and adheres to the policy of peace, equality, justice, freedom,
cooperation, and amity with all nations.
SEC. 5.
The Supreme Court shall have the following powers:
(1) Exercise original jurisdiction over cases affecting ambassadors, other
8
public ministers msand consuls, and over petitions for certiorari,
prohibition, mandamus, quo warranto, and habeas corpus.
(2) Review, revise, modify , or affirm on appeal on certiorari, as the law
or the Rules of Court may provide, final judgments and orders of lower
courts in:
(a) All cases in which the constitutionality or validity of any treaty,
international or executive agreement, law, presidential decree,
proclamation, order, instruction, ordinance, or regulation is in question.
SEC. 4.
(1) The Supreme Court shall be composed of a Chief Justice and fourteen
Associate Justices. It may sit en banc or, in its discretion, in divisions of
three, five, or seven Members. Any vacancy shall be filled within ninety
days from the occurrence thereof.
(2) All cases involving the constitutionality of a treaty, international or
executive agreement, which shall be heard by the Supreme Court en banc,
and all other cases which under the Rules of Court are required to be
heard en banc, including those involving the constitutionality, application,
or operation of presidential decrees, proclamations, orders, instructions,
ordinances, and other regulations, shall be decided with the concurrence
of a majority of the Members who actually took part in the deliberations
on the issues in the case and voted thereon.
9