Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Khóa luận “ Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Vũ Trọng Phụng “ pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.6 KB, 42 trang )

Khóa luận

“ Nghệ thuật trần thuật
trong truyện ngắn Vũ
Trọng Phụng “



MỤC LỤC

PHẦN DẪN
LUẬN 1
1. Lí do chọn đề
tài 1
2. Lịch sử vấn đề
2
3. Phương pháp nghiên
cứu 21
4. Những đóng góp của luận văn
22
5. Bố cục luận văn
22
CHƯƠNG I : QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI
TRONG TRUYỆN NGẮN VŨ TRỌNG PHỤNG
24
1. Con người với những chân dung xấu xí, dị dạng
25
2. Từ con người “vô nghĩa lý” đến con người tha hóa
30
2.1 Con người “vô nghĩa lý”
30


2.2 Con người tha hóa
38
3. Con người gắn với số phận bất hạnh
43
4. Con người mang vẻ đẹp nhân cách đáng trân trọng
51
5. Con người có đời sống nội tâm đa dạng, phức tạp
63
5.1 Con người bị đeo bám bởi chủ nghĩa định mệnh
63
5.2 Những trường hợp tâm lí đáng quan tâm
70
CHƯƠNG II : NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN
NGẮN
VŨ TRỌNG PHỤNG
78
1. Kết cấu trần
thuật 78
1.1 Sự linh hoạt trong việc chọn lựa cách thức trần thuật 79
1.1.1 Kết cấu đảo trình tự thời gian 79
1.1.2 Kết cấu trần thuật dạng “truyện lồng trong truyện”
84
1.1.3 Kết cấu trần thuật theo diễn biến tâm lí của nhân vật 88
1.2 Cách trần thuật tô đậm phần cuối truyện với những kết thúc bất ngờ 92
1.3 Về những đoạn trữ tình ngoại đề cuối tác phẩm 98
2. Điểm nhìn trần thuật
105
2.1 Trần thuật khách quan với điểm nhìn bên
ngoài 107
2.2 Sự đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật

113
2.2.1 Từ người kể chuyện xưng “tôi” có tham gia vào câu
chuyện
đến nhân vật tự thuật
114
2.2.2 Sự đan xen giữa điểm nhìn nhà văn và điểm nhìn của
nhân vật chính
119
2.2.3 Sự phối hợp nhiều điểm nhìn khác nhau trong một
tác phẩm
124
3. Giọng điệu trần thuật
129
3.1 Một sự bổ sung cho tài năng trào phúng bậc
thầy 131
3.2 Giọng triết lí – sự mở đầu cho khuynh hướng và những đặc trưng
136
PHẦN KẾT LUẬN
144
TÀI LIỆU THAM KHẢO 151


1. KẾT CẤU TRẦN THUẬT :
Nhữ Bá Sĩ đã thể hiện sự quan tâm tới kết cấu ngay từ những năm cuối
thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX khi ông nhận xét: “Loại văn chương tột bậc của
thiên hạ đúng là không ở trong cái giới hạn đóng, mở, kết cấu, nhưng mà
không đóng, mở, kết cấu thì cũng không thành văn chương”. [118, tr.154]
Mỗi tác phẩm văn học tồn tại trong một cấu trúc nghệ thuật nhất định
bao gồm nhiều yếu tố, nhiều bộ phận và mối liên hệ, quan hệ giữa chúng
được tổ chức hợp lý, nghệ thuật trong một hệ thống, một chỉnh thể nhằm biểu

đạt những tư tưởng, tình cảm mà nghệ sĩ muốn kí thác.
Kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ
thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu
là kiến trúc tác phẩm, là toàn bộ tổ chức phức tạp của tác phẩm. Kết cấu tác
phẩm không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng trong tác phẩm.
Khi đánh giá kết cấu một tác phẩm, phải xét trong yêu cầu thể hiện nội dung
của tác phẩm đó, xét hiệu quả mà tác phẩm để lại trong lòng người đọc. Khảo
sát kết cấu của tác phẩm chính là khảo sát cấu trúc của nó
Kết cấu tác phẩm không chỉ là mối liên kết các hiện tượng, con người.
Mối quan tâm lớn của nhà văn là sắp xếp tài liệu làm sao để cho cái chính
yếu được nổi bật lên, cái quan trọng gây được ấn tượng mạnh mẽ. Kết cấu tác
phẩm thể hiện quá trình làm việc căng thẳng, công phu của nhà văn với chất
liệu cuộc sống từ đó để biểu hiện một chân lí khái quát. Nó cũng phản ánh
quá trình tư duy của nhà văn, quá trình vận động của tư duy ấy. Tư tưởng
sống động của nhà văn bao giờ cũng biểu hiện trong kết cấu và qua kết cấu.
Nói theo tác giả Lí luận văn học (tập 2 : Tác phẩm và thể loại văn học)
là : “Kết cấu, cấu trúc vô luận là tổ chức vật thể, quan hệ hay quy tắc,
phương pháp, mô hình đều là yếu tố tạo thành văn bản, là thực tế không thể
bỏ qua trong quá trình sáng tác và đọc hiểu văn bản.” [117, tr.156]
Đến với truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng cũng vậy; việc tìm hiểu,
khảo sát những nét đặc sắc trong nghệ thuật trần thuật thể hiện qua tác phẩm
không thể bỏ qua yếu tố kết cấu.
1.1 Sự linh hoạt trong việc chọn lựa cách thức trần thuật :
1.1.1 Kết cấu đảo trình tự thời gian :
Trên phương diện kết cấu, một trong những loại hình mới mẻ mà
truyện ngắn từ đầu thế kỷ XX đem đến trên phương diện kết cấu cốt truyện là
sự đảo lộn thời gian của sự kiện - tức là nghệ thuật trần thuật không tuân theo
trình tự diễn tiến của cốt truyện tự nhiên theo thời gian tuyến tính. Các truyện
này thường bắt đầu ở phần giữa hoặc phần kết thúc của cốt truyện tự nhiên.
Sự tái tạo lại trật tự nghệ thuật cho các sự kiện trong cốt truyện là một đặc

trưng của tư duy nghệ thuật hiện đại. Sự đảo lộn trật tự thời gian của các sự
kiện có ý nghĩa không nhỏ trong việc thể hiện nội dung tác phẩm nên kiểu kết
cấu này đã rất phổ biến ở truyện ngắn các giai đoạn sau.
Được sử dụng trong 13/41 số lượng truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng,
dạng kết cấu này khiến chúng ta phải dành sự chú ý cẩn trọng cho nó. Một
khi tác giả đã xóa đi trật tự tuyến tính của thời gian, ắt hẳn ông muốn nhấn
mạnh với người đọc một vấn đề nào đó.
Trong truyện ngắn Nhân quả, ông đã để nhân vật người đàn ông hồi
tưởng lại những chuyện xưa cũ từ điểm nhìn ngày đám cưới trong thực tại.
Dòng hồi tưởng đó gắn liền với tâm trạng phơi phới khi nhớ lại một quá khứ
đào hoa lẫy lừng đã vùi chôn bao đời con gái. Hắn đã chiếm đoạt, hắn đã
khinh khi và giờ đây tràn đầy khao khát, mãn nguyện với ý nghĩ cô vợ mới
cưới “về phần tân tiết thì nắm chắc đến mười mươi”. Đảo trình tự thời gian
như vậy, Vũ Trọng Phụng đã lột tả bản chất xấu xa của một gã trai phóng
đãng, bỉ ổi, sở khanh và giúp ta hiểu được niềm khao khát trinh tiết phụ nữ
trong hiện tại của hắn vì sao lại mãnh liệt nhường ấy để từ đó càng làm rõ
được nỗi chua chát, bẽ bàng của hắn ở cuối truyện.
Với truyện ngắn Người có quyền, tác giả lại kể về cuộc đời một nhân
vật “văn dốt, vũ dát, hai mươi bảy tuổi đầu còn ăn bám vào mẹ, cả ngày đi
tìm mấy gia đình nhàn cư bất thiện để gạ đánh cờ không tiền hay là chầu rìa
tổ tôm”, nói tóm lại là dở ông dở thằng. Nhưng ông không bắt đầu câu
chuyện từ điều ấy mà khơi nguồn từ tâm trạng phớn phở của nhân vật khi
hôm nay anh ta đã được làm cha một đứa trẻ con – kết quả mối tình của anh
và “một người đàn bà góa chồng rất trẻ, cũng vui vẻ, nhí nhảnh…mà anh đã
chim”. Để nhân vật triết lí về hạnh phúc, sung sướng với thực tại trong sự hồi
tưởng ngược dòng về quá khứ, Vũ Trọng Phụng cho người đọc những bất
ngờ : con người như thế mà sao may mắn đến vậy? Nhưng không, đó chỉ là
cách nhà văn che giấu cho một tương lai gần rất bi kịch mà hợp lí : con là con
người ta, nhân tình bấy lâu đầu ấp tay gối đã lừa gạt và phũ phàng xua đuổi
không thương tiếc. Lối trần thuật như vậy quả thật có giá trị riêng của nó :

không chỉ lí giải cho hoàn cảnh, tâm lí nhân vật trong thực tại và chuẩn bị
cho những bất ngờ phía trước; nó còn giúp ta hiểu rõ về nhân vật qua cái nhìn
ngược thời gian đầy ấn tượng.
Cách trần thuật đưa kết quả sự việc lên trước rồi lần lượt kể lại nhằm
lí giải nguyên nhân, truy tìm nguồn gốc cũng là kết cấu được sử dụng trong
một số truyện ngắn như : Phép ông láng giềng, Bẫy tình, Chống nạng lên
đường, Tội người cô, Duyên không đi lại, Cái hàng rào, Bà lão lòa, Gương
…tống tiền, Lòng tự ái…
Truyện ngắn Bà lão lòa tái hiện cho ta ngay từ đầu thời khắc tăm tối, ê
chề trong phận sống nhờ của nhân vật cùng tên - là người cô họ của bác đánh
giậm. Lần hồi sau đó, tác giả đưa ta trở về với quá khứ khi bà lão còn giàu có,
bà đã “giúp đỡ kẻ nghèo khó; trong họ ngoài làng, nhiều người đã được nhờ
bà” thế nhưng “đến khi gặp bà bước khốn cùng thì chẳng ai thương cả”. Tác
giả cũng cho ta biết rằng ngày trước bác đánh giậm “đã nhiều phen ngửa tay
nhận lấy đồng tiền cứu giúp của bà” nên bây giờ “đành cắn răng, vuốt bụng,
nhắm mắt” nuôi bà trong lúc hoạn nạn với nỗi niềm biết bao “xót ruột khi bà
lão lòa lò rò ngồi vào mâm, cướp cơm của vợ, của con nhà bác”. Quay
ngược thời gian như vậy, nhà văn đã cho ta một cái nhìn toàn diện hơn về
cuộc đời bà lão lòa; đồng thời ông cũng nhấn mạnh thái độ lên án, phê phán
đối với cuộc đời này. Một quá khứ tử tế, ăn ở phúc đức nhưng đổi lại chỉ là
một hiện thực cay đắng : con trai ăn chơi, phá của đến nỗi “bán ruộng, cầm
nhà” khiến bà thành tật nguyền, nghèo khổ và đứa cháu họ vô ơn bạc nghĩa
đối xử với ân nhân của mình không ra gì. Hiện tại bà cụ chẳng gặp lành dù
ngày trước đã ăn ở rất hiền lành, hiện tại người ta vong ân dù quá khứ vốn
chịu nhiều ơn cứu giúp của bà – những đối nghịch thời gian đi kèm với
nghịch lí cuộc đời khiến câu chuyện cứ ám ảnh chúng ta mãi.
Không đi vào những nghịch lí thời gian như trên, một loạt tác phẩm đã
đưa ra hiện thực tha hóa hoặc bi đát rồi giúp người đọc đi tìm nguyên nhân
trong quá khứ. Không đi theo thời gian tuyến tính, những câu chuyện ngược
dòng, đan xen hôm nay – ngày trước khiến người đọc có thêm nhiều suy

nghĩ.
Nhân vật Lê Vân trong truyện ngắn Gương … tống tiền giờ đây bệ rạc,
chán đời, phung phí tuổi trẻ khi “làm bạn với ả phù dung”, đến nỗi “từ một
thiếu niên có tương lai tốt đẹp” nay đã thành “kẻ bị xã hội khinh bỉ…, ma dại
thân tàn”. Tất cả cũng chỉ vì nỗi thất vọng trong tình yêu với Loan. Vì tình
yêu, Lê Vân điên đảo cuộc đời, phá nát tương lai. Và cũng bất ngờ thay,
chính nhờ tình yêu cay đắng ngày xưa ấy Vân kiếm chác được ít tiền duy trì
tháng ngày “sống mòn” của mình. Khởi đầu nhân vật này khiến người đọc có
cảm xúc giận dữ nhưng vẫn còn chút xót xa nhưng càng về sau, qua cách trần
thuật giàu kịch tính của tác giả, ta chỉ còn một cảm giác khinh bỉ tận cùng
dành cho Lê Vân.
Chống nạng lên đường và Tội người cô cũng trình bày cho ta thảm
cảnh hiện tại của hai nhân vật Hai Xuân và người cô ông chủ nhà. Hai Xuân
chịu cảnh tật nguyền, phải sống nhờ vào anh và hằng ngày chứng kiến cảnh
vì một người làm nuôi cả nhà, vì thiếu cơm mà anh của Xuân “mắng bố, gắt
mẹ, chửi nồi, chửi rế, chửi đôi guốc đang đi mà quai đứt, chửi xó nhà lắm
muỗi vo vo ”. Tất cả cũng chỉ vì một buổi kéo xe Hai Xuân đã bị xe hơi chẹt
phải đến nỗi đành cưa chân thành tật nguyền. Cả một số phận con người rẽ
sang bước ngoặt tăm tối trong một tích tắc oan trái của quá khứ. Bên cạnh đó,
tác giả còn để cho nhân vật hồi tưởng lại ngày xưa nghèo khổ mà vui vẻ khi
sau mỗi ngày làm việc mệt nhọc được trở về nhà, “đến chĩnh nước ngửa cổ
“tu” một hơi nước lã thật dài xong thở đánh “hà à à”một cái rất khoái chí
rồi cầm mảnh mo vừa quạt vừa bước vào nhà ngơ ngác nhìn xem bố mẹ đã
thổi chín cơm chưa, để liệu dọn mâm bát”, một ngày xưa thân ái với cảnh
“mâm cơm dọn xong, nó chỉ còn chờ anh Cả cho nó đi làm về là cùng ngồi
vào, tuy bữa nào cũng chẳng hơn gì bữa nào, chỉ rặt cà, tương, dưa muối mà
thằng Xuân ăn thấy rất ngon”. Thế nhưng quá khứ ấy chỉ là thoáng chốc còn
hiện tại đau đớn khố khổ khốn nạn mới kéo dài chưa biết đến đâu. Khởi đầu
với hiện thực phũ phàng, cay đắng rồi sống lại với quá khứ giản dị mà tươi
đẹp, câu chuyện đã khiến chúng ta thêm ngậm ngùi buồn đau cho số phận

con người.
Mở đầu truyện ngắn Tội người cô là hình ảnh một “bà già chít khăn
vuông, chống gậy” đang “lom khom bước lên thềm gạch, rón rén đến gần
cửa sổ” mà trông vào khung cảnh tiệc tùng bên trong “tòa nhà tây hai tầng,
một tòa nhà có vẻ kiêu hãnh vô cùng”. Từ sự ngạc nhiên của nhân vật “tôi”,
người bạn đã kể lại nguyên nhân vì sao bà già - “chính là cô ruột của chủ
nhân tòa nhà ấy” – lại phải chịu cảnh cô đơn, hắt hủi. Ngược về quá khứ, tác
giả cho ta biết được bà cô ấy là một người phụ nữ quá lứa lỡ thì, ở vậy và
sống cùng cháu ruột, đã từng rất thương và quan tâm đến cháu, hết lòng vì
cháu mình. Bà cô “vẫn đi trông nom bà vợ ông cháu mình những khi đi xa,
trẩy hội” và cũng chính bà “trong cái đêm cháu dâu bất thình lình trở dạ,
trời mưa như bão” nhưng “vẫn khoác áo tơi ton tả ra đi, vượt mấy cánh
đồng để tìm bà đỡ”. Thế nhưng cũng vì quá thương đứa cháu bé, bà đã ẵm
cháu đi chơi cả buổi chiều, lại cho cháu ăn kẹo bột đến nỗi “thằng bé đến
đêm thấy trở, thấy nôn rồi khóc lên ngằn ngặt”, “phải nhịn bú mãi đến chiều
hôm sau”. Và sau này vì “bà chiều cháu quá một hôm đưa dao cho cháu để
cháu cứa đứt cả tay” nên đã bị cha mẹ nó đuổi ra khỏi nhà. Rồi từ đó người
cô tội nghiệp ấy “phơ mái tóc hoa râm ra giữa nắng, ngồi nhìn chồng bánh
đa, mấy củ khoai, mấy quả chuối bày trên cái mẹt một cách buồn rầu, mỗi khi
thấy tiếng dép của khách qua đường lại ngước mắt lên nhìn một cách đau
đớn như muốn van lạy khách mua cho…” nhưng “vẫn chẳng rứt tình quên
được cháu, mỗi khi thấy bố mẹ nó chè chén vì nó là bà lại chống gậy tìm đến,
lần nào cũng chỉ đứng ngoài cửa kính ghé mắt nhìn vào”. Cũng trong câu
chuyện quá khứ ấy, chúng ta biết bố mẹ đứa trẻ tuy giàu có nhưng hiếm
muộn, đã bốn năm trời “mang hương hoa lễ khắp các chùa cầu tự” để có
được mụn con nên thương quí nó cũng là hợp lí. Nhưng thương yêu con đến
độ để bảo vệ nó mà đành đoạn đuổi cả cô ruột ra đường tự mưu sinh thì thật
vô lí. Tình thương với tình thương không thể có sự mâu thuẫn, nhưng nếu
một bên là yêu thương hết mình không nghĩ ngợi còn bên kia lẫn trong tình
thương là toan tính, lạnh lùng, tàn nhẫn, vong ân thì quả thật không thể nào

tồn tại chung được với nhau. Mượn lời người bạn để hiểu được một quá khứ
lắm nỗi và một cuộc đời đáng thương, truyện ngắn này thật đúng với nhan đề
của nó : thật tội cho người cô; chỉ vì cái “tội” yêu thương đến dại khờ, hi sinh
đến mê muội mà phải chịu cảnh cô độc, ghẻ lạnh đớn đau.
Cái hàng rào - một truyện ngắn được cho là một đoạn của tiểu thuyết
Bởi không duyên kiếp (tức Dứt tình) - cũng được thuật lại với kết cấu đảo
trình tự thời gian. Đoạn đối thoại khá gay cấn giữa hai nhân vật - Phong và
Tiết Hằng - ở đầu tác phẩm đã dần chuyển sang chuyện quá khứ để giúp ta
hình dung ra phần nào cơ sự của ngày hôm nay. Chuyện của ba năm về trước,
hai người yêu nhau nhưng đã không đến được với nhau vì mẹ Phong “kịp lúc
đoạn tang” đã cải giá với cha của Tiết Hằng. Sự tình ai oán, éo le này khiến
Phong xót xa nghĩ rằng “sự thành hôn, cuộc gắn bó giữa mình với Hằng sẽ là
một bài văn khôi hài cho miệng thế”. Vì vậy, anh đã rứt áo ra đi, bỏ lại Tiết
Hằng “đứng rũ rượi, dựa vào một cột đèn ở ga”. Để rồi sau đó, Tiết Hằng
lấy một người chồng theo sự sắp đặt của cha và chịu cảnh góa bụa chỉ sau ít
năm ngắn ngủi. Về phần Phong, anh “lên thượng du, sống cái đời mây rừng
gió núi, coi sóc việc thầu đốn rừng lim của cha để lại cho” và sống trong nỗi
“lo buồn, áy náy, hối hận” trước cảnh đời của người tình cũ. Quá trình nhân
vật Phong từ “một cậu học trò yếu ớt nhưng có một trái tim bọc sắt” hóa
thành “cái thân thể vạm vỡ lẩn trong một bộ quần áo đi săn mũ da cáo, giầy
ống, áo tơi nhưng có trái tim đa cảm của đàn bà” đã được tác giả diễn tả sinh
động, khéo léo, chân thực qua cách trần thuật đan xen, lồng ghép quá khứ và
thực tại, nhưng chiếm phần lớn vẫn là chuyện của quá khứ. Và cuộc đối thoại
gay cấn đầu tác phẩm đã có một điểm dừng, dù xót xa, bất ngờ. Dĩ nhiên để
đi đến được kết thúc này phải trải qua một quá trình dẫn dắt sống động
ngược dòng thời gian để lí giải cho hiện tại, đan xen bao nỗi niềm trong quá
khứ để thể hiện rõ sự đời lắm khi ngang trái.
Những truyện ngắn trên là minh chứng tiêu biểu cho lối trần thuật đảo
trình tự thời gian của Vũ Trọng Phụng. Xét ở khía cạnh kết cấu trần thuật,
cách kể chuyện này ít nhiều cũng đã hình thành nên một nét đặc sắc cho

truyện ngắn của tác giả.
1.1.2 Kết cấu trần thuật dạng “truyện lồng trong truyện” :
Trong bài viết “Sự di chuyển của kết cấu truyện lồng truyện và kiểu
truyện khung trong văn học từ Ấn Độ sang Đông Nam Á” (trích từ trang web
www.khoavanhocngonngu.edu.vn), tác giả Nguyễn Ngọc Bảo Trâm cho ta
biết được kết cấu truyện lồng truyện ở góc độ một thủ pháp văn chương đã
xuất hiện rất sớm trong lịch sử văn học thế giới. Nói một cách đơn giản đây
là thủ pháp để lồng ghép một câu chuyện độc lập (có liên quan hoặc không về
mặt nội dung) vào tác phẩm chính trong quá trình diễn tiến của tác phẩm. Có
thể thấy biểu hiện xa xưa của nó trong sử thi Odyssey của Hy Lạp (thế kỷ
VIII trước công nguyên) khi người anh hùng Ulysses tự kể lại những chuyện
phiêu lưu của mình trong bữa tiệc. Từ thời cổ đại, kết cấu truyện lồng truyện
đã được văn học Ấn Độ sử dụng triệt để để tạo nên hai thiên sử thi đồ sộ nhất
trong lịch sử nhân loại là Mahabharata (thế kỷ V trước công nguyên) và
Ramayana (khoảng thế kỷ IV-III trước công nguyên).
Với truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX, kết cấu truyện lồng trong
truyện là một lối kết cấu mới mẻ, thể hiện việc chịu ảnh hưởng phương Tây
rõ nét, mà tác phẩm đầu tiên cần kể tới là truyện Thầy Lazarô Phiền của
Nguyễn Trọng Quản. Trong truyện Thầy Lazarô Phiền có tới hai chuyện:
chuyện thứ nhất là của nhân vật “tôi” kể cho bạn đọc nghe về cuộc gặp gỡ
giữa bản thân và thầy Phiền, chuyện thứ hai là chính thầy Phiền đã kể lại
chuyện đời mình cho nhân vật “tôi” nghe từ việc thầy đã lấy được một người
vợ đáng yêu như thế nào, thầy đã nghi ngờ và tìm cách giết vợ ra sao, và
những ăn năn dằn vặt của thầy …).
Một đặc điểm đáng lưu ý nữa là ở những tác phẩm có kết cấu truyện
lồng trong truyện như vừa nêu trên là những câu chuyện trong một truyện
không tách rời mà luôn được đan cài vào nhau rất linh hoạt, tự nhiên, cho
người đọc những ấn tượng về sự chân thực của chuyện được kể, kéo họ lại
gần với thế giới nghệ thuật của tác phẩm hơn, đồng thời tạo sự sinh động cho
truyện.

Mặt khác, sự đan cài hai câu chuyện vào nhau là một cách thức tạo sự
luân phiên điểm nhìn, góp phần làm cho nhân vật (nhất là thế giới nội tâm
của nó) được xem xét dưới nhiều góc độ và được xây dựng một cách tự nhiên
hơn. Đó chính là thế mạnh của kết cấu truyện lồng trong truyện, góp phần tạo
dựng cho truyện một nghệ thuật trần thuật hiện đại.
Như đã nêu trên, kết cấu “truyện lồng trong chuyện” không phải một
dạng kết cấu mới lạ đối với loại hình tự sự. Và kết cấu này đã đi vào truyện
ngắn Vũ Trọng Phụng với những giá trị riêng của nó. Lỡ lời, Cái ghen đàn
ông, Một cái chết, Lấy vợ xấu, Sống để mà lo, Bà lão lòa, … là những truyện
ngắn được kết cấu theo dạng thức như vậy.
Với trường hợp Cái ghen đàn ông, Một cái chết và Lấy vợ xấu, tác giả
thường lồng một câu chuyện khác vào cuộc trò chuyện giữa các nhân vật.
Xen vào cuộc gặp gỡ giữa nhân vật “tôi” và người bạn trong truyện ngắn Một
cái chết là cảnh một ông lão ăn mày “vừa lòa vừa cụt chân, người quắt như
con mắm nướng, áo tơi, nón lá chống nạng lê vào” xin bố thí. Trong khi
nhân vật “tôi” gắt ầm lên đuổi đi thì người bạn đã “đứng dậy, ra ân cần để
vào tay ông lão một xu” rồi kể lại một chuyện “đuổi ăn mày … đã được mục
kích” biến thành tấn kịch rất đỗi bi thương. Đó là chuyện Thằng Hợi, con
thầy cai lấy thuế chợ, chủ nơi trọ học của người bạn tác giả. Qua câu chuyện
xót xa với hai cái chết thương tâm : một của người ăn mày bị cha Hợi xua
đuổi, một của Hợi như một sự day dứt – tác giả đã đưa ra một bài học về lẽ
đời thật sâu sắc. Từ chuyện đuổi ăn mày, “những chuyện rất thường”,
“tưởng chẳng có chuyện gì bình thường hơn thế nữa”, Vũ Trọng Phụng đã
thể hiện rõ nét tấm lòng thương cảm sâu sắc của mình.
Trong truyện ngắn Cái ghen đàn ông, lẫn trong câu chuyện giữa Giao
Đài, Lê Văn Thư và mấy người bạn là chuyện đời bi đát của vợ chồng giáo
Hiển ; và trong Lấy vợ xấu thì giữa lúc chuyện trò giữa hai người bạn cũ –
nhân vật “tôi” và anh Doãn – anh Doãn đã kể về mối duyên giữa anh và vợ
mình, “một người đàn bà có cái nhan sắc của một người đàn ông không đẹp
giai”.

Chuyện nhà anh giáo Hiển là một minh chứng đầy thuyết phục cho lí lẽ
mà nhân vật Giao Đài đưa ra : “Người ta chẳng nên thật thà, nhất là những
khi người ta yêu nhau” vì tác dụng của thật thà với hạnh phúc khi yêu là
“phá hoại chứ chẳng kiến thiết bao giờ”. Sự thật thà quá mức đã giết chết vợ
giáo Hiển trong xót xa, tủi cực. Lòng ghen tuông mù quáng, vô lí của giáo
Hiển đã lên đến cực điểm đến nỗi quên hết cả nghĩa vợ chồng, thậm chí quên
cả tình người vốn xem trọng “nghĩa tử là nghĩa tận”. Tác giả đã mượn lời
nhân vật Giao Đài mà nói rằng : “Cái ghen của anh Hiển có một thứ thế lực
ở tâm giới anh đến nỗi khiến anh hóa ra tầm thường, hóa ra đê hèn, hóa ra
"bất thành nhân dạng"”. Nêu ra một trường hợp lạ kì, nghịch dị để làm rõ
cho một ý nghĩa rất vô lý nhưng cũng không phải không có lý, tác giả khiến
người đọc không khỏi băn khoăn dù đã đọc xong câu chuyện.
Phần nhân vật Doãn, anh kể lại chuyện gặp gỡ của vợ chồng mình cho
người bạn nghe nhằm minh họa cho quan niệm : vợ chồng là duyên số. Gặp
nhau trên một chuyến tàu từ Lào Cai về Hà Nội cách đây hai năm, anh Doãn
và vợ mình đến với nhau từ một ý nghĩ vẩn vơ của anh. Và thế là anh đã
chuyện trò cùng người phụ nữ ấy, rồi dần dần đến với nhau, gắn bó vì cô ấy
đã mang trong bụng đứa con của anh và đã rất thành thực khiến anh phải mủi
lòng, đành dẹp mộng “lấy được cô gái đẹp nhất Hà Thành” để sánh duyên
cùng “cô gái xấu xí nhất Bắc Kì”. Câu chuyện về anh Doãn nghe cũng vô lí,
khó tin như chuyện vợ chồng anh giáo Hiển ở trên nhưng lại xảy ra như một
dẫn chứng sinh động cho những điều phi lí khác khó cắt nghĩa đang mặc
nhiên xuất hiện trong cuộc đời.
Cũng không thể không nhắc đến truyện ngắn Bà lão lòa, một trong
những truyện ngắn đầu tay xuất sắc của Vũ Trọng Phụng. Trong diễn tiến
cuộc đời cơ cực của bà lão tội nghiệp chịu cảnh tật nguyền sống nhờ nhục
nhã bỗng xuất hiện ba câu chuyện nhỏ về những hành động nhân đức của một
người phụ nữ : thấy người ăn mày lụ khụ đến xin ăn bị mấy con chó “nhảy xổ
ra cắn xa xả”, bà đã “quát thằng nhỏ ra mắng chó, dắt ông ăn mày vào thết
một lưng cơm”; trước gia cảnh bác nhiêu B. vợ chết, nhà bị hỏa hoạn, đàn

con nheo nhóc, đói kém, bà đã “cởi hầu bao, lấy ra một cuộn giấy bạc” đem
cho; và cuối cùng trước cảnh đau xót của một người phụ nữ phải bán con để
mong cứu chồng bệnh liệt giường liệt chiếu đã hơn nửa tháng, bà cũng đã cho
năm đồng về lo thuốc men cho chồng mà không phải bán con. Đến cuối cùng
Vũ Trọng Phụng mới cho ta biết hóa ra đó chính là bà lão lòa tội nghiệp bây
giờ. Ba câu chuyện nhỏ về sự phúc đức để góp phần làm rõ một nghịch lí : bà
đã từng rất tử tế với người không ruột thịt thân thích, bà đã từng động lòng
trắc ẩn trước bao số phận vật vờ tận đáy cuộc đời; song giờ đây, người thân
thích ruột rà không mảy may động lòng xót xa cho thân già tật nguyền cô độc
của bà, nhẫn tâm tàn tệ với bà hơn cả với người dưng nước lã, đay nghiến chà
đạp lên thân phận sống nhờ đầy nghịch cảnh bà đang phải chịu. Trần thuật
với kết cấu “truyện lồng trong truyện”, Vũ Trọng Phụng đã dựng lên sự đối
lập gay gắt giữa quá khứ và thực tại, giữa thiện tâm và ác tâm, giữa vị tha và
ích kỉ để phê phán sự bội bạc, bất nhân của người đời và tố cáo cái nghèo làm
nhân cách con người dần thảm hại như nó.
Mỗi một truyện ngắn có kết cấu “truyện lồng trong truyện” dường như
đều mang trong đó một nghĩa lí nào đó mà tác giả muốn đem lại cho người
đọc. Lồng ghép những mảnh đời vào câu chuyện, tác giả không chỉ làm đa
dạng hóa kết cấu trần thuật mà phần nào đó đã nêu bật được tình cảm, thái độ
của ông dành cho dành cho cuộc đời, cho kiếp người. Có cảm giác đọc truyện
ngắn Vũ Trọng Phụng như đến với một quyển sách với nhiều chương, mỗi
một chương lần giở ra lại thấy hiện lên một cảnh đời, một câu chuyện khác
nhau. Điều ấy khiến quyển sách chưa bao giờ nhàm chán, luôn mới lạ, hấp
dẫn, kích thích người đọc khám phá tiếp tục để hiểu thêm bao nhiêu trang đời
đã nén chặt, đã được lồng ghép trong quyển sách số phận ấy. Lại có một hình
dung khác về những câu chuyện trên, nó cứ như những bông hoa đang chớm
nở. Ta phải bóc dần từng cánh từng cánh để thấy được cái nhụy bên trong –
một cái nhụy mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc như một hạt giống lành để lại
mùa sau.
1.1.3 Kết cấu trần thuật theo diễn biến tâm lí của nhân vật :

Có thể nói đây là kiểu kết cấu mới mẻ nhất trong văn học Việt Nam
giai đoạn đầu thế kỷ XX. Đó là kiểu kết cấu của những tác phẩm có cốt
truyện tâm lí nhằm miêu tả những diễn biến tinh vi, phức tạp của đời sống nội
tâm con người. Trong những truyện này, chỉ có một vài sự việc, còn lại là
cảm giác, suy nghĩ của nhân vật với những hồi ức, liên tưởng và độc thọai nội
tâm. Nếu có sự kiện thì sự kiện chỉ đóng vai trò khơi gợi cho dòng chảy tâm
lý. Tiêu biểu cho truyện có kết cấu tâm lý này là những truyện của các tác giả
thuộc dòng truyện ngắn trữ tình như Thạch Lam, Thanh Tịnh và sau này
được tiếp nối, phát huy, thành công rực rỡ với Nam Cao.
Hẳn nhiên mạch truyện được triển khai theo tâm lý nhân vật nhưng vẫn
phải bám sát vào các sự kiện, dựa vào sự kiện. Do vậy, để có một truyện hay,
người viết không chỉ miêu tả tâm lý mà là phân tích tâm lý, phân tích gắn với
với sự kiện, vì sao chỉ có sự kiện ấy thì tâm lý nhân vật mới có biểu hiện như
vậy.
Dẫu không nhiều nhưng một số truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng đã
được cấu trúc theo chính diễn biến tâm lý của nhân vật. Rửa hờn, Nhân quả,
Duyên không đi lại, Chống nạng lên đường, … là những truyện ngắn như
vậy.
Với Chống nạng lên đường, tác giả đã cấu trúc truyện ngắn này phần
lớn theo diễn biến tâm lý nhân vật Hai Xuân. Câu chuyện bắt đầu với nỗi
buồn, dần chuyển sang hoài niệm xa xôi về một quá khứ đẹp tươi, rồi ai oán
khi nghĩ đến cảnh nhà túng thiếu và phận ăn nhờ của mình. Dần dần tác giả
mở rộng ra những cảnh mà Hai Xuân đã trông thấy ở trên cầu, bao nhiêu
cảnh tượng yên bình mở ra nhưng thực chất đó là cố nhìn, cố quên để qua
cơn đói đang cồn cào trong người. Những ý nghĩ tốt đẹp, rồi hài hước, thoáng
qua để trở về với nỗi cay đáng, xót xa cho số phận. Sau đó Hai Xuân nhớ về
những kí ức đau khổ của nghề kéo xe tay phải chiến đấu hằng ngày cùng
“những tia nắng mặt trời dữ dội chiếu xuống đốt lưng, đốt gáy”, “những
trận mưa gió phũ phàng ném những hạt nước nặng nề thẳng vào mặt” hoặc
“thổi tung cát bụi lên làm tối mắt”, chiến đấu với cả sự cạnh tranh không cân

sức với những chiếc xe cơ khí hóa đang lăm le cướp cơm của mình. Tận cùng
trong dòng hồi ức ấy là bao ai oán, ngỡ ngàng, uất ức với bước ngoặt cuộc
đời : ngày bị tật nguyền. Những điều đó đưa Hai Xuân trở lại với nỗi buồn
ghê gớm, buồn vì nỗi mặc cảm ; hổ thẹn khi cụt chân, buồn đến độ muốn chết
đi ngay được. Và rồi, nhân vật ngủ quên đi trước khi bị đánh thức dậy bởi
tiếng đoàn tàu. Và khi tỉnh dậy, Hai Xuân sợ chết, lần lần tìm về nhà nhưng
lại càng buồn hơn khi chứng kiến cảnh nhà. Trước sự tàn nhẫn lạnh lùng và
hỗn láo của anh mình, Hai Xuân đã thấy giận sôi lên nhưng rồi vì sợ, vì
thương bố mẹ nên đành ra đi, dẫu rằng không biết đi về đâu, dẫu rằng “đau
lòng quá đỗi”. Chịu trận ngoài đường qua cơn mưa đêm xối xả, anh trở về
nhà và chọn cách ra đi để cha mẹ đỡ tủi nhục, tê tái. Cả một quá trình tâm lý
của Hai Xuân trong khoảng thời gian ngắn ngủi từ chiều hôm trước đến sáng
hôm sau được diễn tả sinh động, chân thực và đầy thương tâm. Câu chuyện
cũng chỉ diễn ra trong chừng ấy thời gian, tuy ngắn ngủi mà gây nhiều xúc
động. Ta phục cái tài của Vũ Trọng Phụng đã cấu trúc, nối kết những diễn
biến tâm lý của nhân vật vào một câu chuyện hoàn chỉnh, nhưng càng kính
trọng hơn cái tâm đã xúc động biết bao với số phận đau khổ của nhân vật mà
tác giả đã ẩn sâu vào từng dòng tâm lý ấy. Nếu không xót xa chân thành và
yêu thương sâu sắc, làm sao nhà văn có thể miêu tả được đến như vậy.
Rửa hờn, Duyên không đi lại và Nhân quả có thời gian diễn ra còn
nhanh hơn cả Chống nạng lên đường. Ở đó, Vũ Trọng Phụng đã dồn nén sự
kiện và cấu trúc tác phẩm theo diễn biến tâm lý của nhân vật chính ở những
thời điểm có tính chất bước ngoặt của cảm xúc.
Với nhân vật gã đàn ông trong Nhân quả thì thời điểm ấy là đêm tân
hôn. Bao nhiêu khung cảnh lãng mạn trữ tình được y vẽ ra trong đầu. Càng
tưởng tượng đến cảnh đó hắn càng bực mình khi khách khứa vẫn chưa chịu
về, để hắn cứ mãi phải ngồi tiếp chuyện, đáp lại “những lời chúc sáo bằng
một nụ cười gằn luôn điểm vờ vĩnh trên môi”. Tình cờ ngắm mình trong
gương, nhân vật có cảm xúc tự hào vì “hắn cũng biết mình là điển đấy”.
Chợt cả một đoạn hồi ức năm xưa sống dậy trong hắn, một quá khứ nổi tiếng

là một tay chuyên lừa tình. Được trời phú cho bộ mã, lại có học, hắn nghiễm
nhiên thu hút được bao nhiêu cô gái ngây thơ. Trong lúc đang tự nhủ bây giờ
phải sống tử tế vì đã có vợ, “phải tu tỉnh làm ăn mà kính, mà yêu, mà thờ
người vợ mới cưới ấy”, hắn vẫn nghĩ đến “mấy cô gái non đã là nhân tình
của hắn xưa kia”, vẫn nhớ đến “những buổi hẹn hò ân ái cũ”. Hắn thấy nực
cười vì hai lẽ : cô nào cũng thề nguyền tha thiết sẽ chọn cái chết nếu không
lấy được hắn nhưng chẳng có ai chết khi hắn cưới vợ và ý nghĩ không bao
giờ cưới về làm vợ những cô gái hắn đã “lôi qua được cái cổng trên có chữ
đề “Phòng cho thuê”” vì hắn cho rằng : “Đời nó thế, ai làm gì được ? Mình
chẳng chơi thì rồi cũng chán vạn thằng chơi”. Thế rồi hắn sống lại hoài niệm
hai năm trời khó khăn để có được lòng yêu của người con gái giờ là cô dâu
mới của hắn. Ngạc nhiên thay, trong giờ phút sung sướng cực đỉnh ấy, cô dâu
mới tiết lộ việc mình trót thất tiết với một gã trai từ năm mười sáu tuổi, câu
chuyện tình phụ vợ hắn kể cứ y như những chuyện trước đây hắn đã làm với
bao người. Bao nhiêu trạng thái cảm xúc dồn dập ùa đến : khi đau đớn tưởng
đến “ngất đi”, lúc tưởng như “bị một nhát búa vào đầu”, khi “ngây người
ra” tức giận nhưng cuối cùng tỉnh ngộ khi nghĩ đến chuyện bạc tình của
mình để mà tha thứ cho vợ. Mấy trang truyện ngắn ngủi nhưng đã khắc họa
thật chi tiết và tài tình tâm lý của một kẻ đểu giả đang chịu cảnh “gậy ông
đập lưng ông”. Bài học nhân quả ở đời được tác giả tái hiện lại thật sống
động qua diễn biến tâm lý của nhân vật khiến người đọc vừa bất ngờ vừa hả
hê vì sự trừng phạt đích đáng dành cho kẻ xấu.
Cũng nhớ về ngày xưa, cũng có những phút giây trăn trở dữ dội với
thực tại bất ngờ là trường hợp của Duyên không đi lại. Truyện ngắn này cũng
được Vũ Trọng Phụng xây dựng từ diễn biến tâm lý của cô thầy bói khi gặp
lại người tình phụ năm xưa. Mười năm mang mối hận tình, khởi đầu cho tâm
trạng đặc biệt sắp xảy đến là sự hồi tưởng về quãng đời của một thiếu nữ
khuê các bị một gã trai “đến phá hoại mất mọi sự e lệ, ngây thơ” đến nỗi giờ
đây “cái tương lai rực rỡ chỉ còn lại cái thân thể một cô thầy bói nghèo nàn,
làm cái nghề báo phúc, báo họa cho đời mà chẳng đủ nuôi mình và nuôi

con”. Cô bỗng “bủn rủn chân tay, lạnh toát cả người” khi nghe lại giọng nói
năm xưa, xót xa bao nhiêu khi giờ đây “kẻ bạc tình nỡ đến hỏi mình về
chuyện vợ con”. Sau đó là sự “sung sướng” vì được nhân cơ hội để báo thù
khi dồn ép, tra tấn tâm lí người tình phụ bằng việc dần hé lộ quá khứ xấu xa
của y. Nhưng khi nghe hắn tỏ ý muốn tìm lại mình và con, cô thầy bói đã
“lặng im, cảm động”. Tiếp nối diễn biến câu chuyện là bao dằn xé : tha thứ
hay không tha thứ, cho cha con nhận nhau hay mãi mãi lặng im. Cuối cùng,
lòng tự trọng đã thắng và cô đoạn tuyệt với người xưa bằng lời phán cả hai
mẹ con mình đã chết từ lâu cho người ấy khỏi kiếm tìm. Như đã phân tích ở
phần trên, nhân vật cô thầy bói khiến ta xót thương và quí trọng – thương xót
cho số phận hẩm hiu và quí trọng một nhân cách tốt đẹp. Đi từ hận thù, oán
giận đến mủi lòng và cuối cùng dứt khoát đoạn tuyệt ân tình, một kết thúc bất
ngờ nhưng hợp lý cho cả quá trình diễn biến tâm lý phức tạp, đa dạng của
nhân vật. Truyện ngắn này có nhiều điều khiến ta phải ngạc nhiên : ngạc
nhiên vì sự gặp gỡ trùng hợp, ngạc nhiên trong cách cô ứng xử rõ ràng với
người xưa nhưng hơn hết vẫn là niềm tin cho nhân cách tốt đẹp của con
người vẫn tồn tại trên cuộc đời vốn nhiều dối trá, lọc lừa.
Rửa hờn lại đưa ta sống cùng với những cảm xúc đối nghịch đến bất
ngờ của nhân vật thầy đội Chín Tư trong buổi sáng mùng một Tết. Đang phơi
phới trong bao nhiêu sự tha thứ với ý nghĩ quyết chẳng đánh đập ai hôm nay,
thầy Chín Tư thấy sao “cuộc đời lại có thể tốt đẹp đến thế !”, nhân vật sống
trong lâng lâng xúc cảm ngày Tết khi nhận thấy : “Xác pháo trông đẹp, mùi
thuốc pháo ngửi thơm. Ai cũng có quần áo đẹp, ai cũng tươi cười. Ăn mày
chẳng cần lè nhè nhiều, phu xe không phải giở giọng vòi vĩnh”, với đứa trẻ
nghịch pháo ném trúng giữa lưng thầy, thầy “chỉ quay lại, mỉm cười tha
thứ”. Ấy thế nhưng tất cả nhanh chóng bị xóa tan đi hết khi bác phải đánh vợ
vì tội buôn bán trên hè phố làm mất mĩ quan đô thị. Nén lòng, đau đớn để vụt
roi vào vợ nhằm tránh cho vợ bị ông xếp Tây làm lật úp thúng hàng và trừng
trị, từ đó thầy Tư đổi hẳn thái độ. Không còn tử tế được nữa, thầy chua chát
với nghề và nảy sinh ý định phải trừng trị mọi người cho hả nỗi hờn, nỗi nhục

hôm nay. Thế là cái roi ấy cứ vung lên hỏi tội mọi người. Từ cô hàng mía,
bác hàng kẹo, bà cụ hàng bún chả đến đám ăn mày tội nghiệp đều bị cái roi
“hỏi thăm” đầy tàn nhẫn. Cứ thế Chín Tư đánh, đánh tới tấp, đánh liên tục,
đánh cho “thằng què nhăn nhó xoa cánh tay”, đánh cho “con mụ hủi bưng
lấy mũi, cố ngăn hai giải máu đào” và hất tung bữa cơm thừa ngày Tết trên
bàn tay ông lão lòa ăn xin đáng thương. Bao cảnh Tết “quang đãng”, “rộn
rịp tưng bừng”, “hớn hở” giờ biến đi đâu mất chỉ còn cảnh mất mĩ quan hiện
ra trước mắt Chín Tư : “một thằng què chống nạng, một con mẹ mặt mũi xù
xì như mắc bệnh phong, một lão mù tóc bạc phơ, gầy hơn cái ống sậy, với hai
thằng bé hở ngực, hở đít, tuy có quần áo song lại quá cởi truồng. Chúng
quây nhau quanh một cái lá sen. Khố tải, chiếu rách chúng giải la liệt. Thật
là một cái núi trấn lừng lững cả bờ hè. Chung quanh chúng, ruồi với nhặng
vừa bay vo ve loạn xạ hơn cuộc thao diễn về nghề hàng không ở nước Nga
La Tư”. Vậy nên thầy Tư đã đánh. Về đến nhà, thầy chua chát an ủi vợ rồi cả
cười, cái cười sung sướng hả hê vì hả được hờn, rửa được nhục của một ông
cảnh sát phải đánh người thân trong ngày Tết chỉ vì giữ việc làm. Như một
bức tranh có hai mặt, một tươi sáng một xám xịt, tác giả khắc họa diễn tiến
câu chuyện theo hai trạng thái tâm lý của nhân vật Chín Tư với bước ngoặt
vụt roi đánh vợ. Qua đó, ông đã giúp ta hiểu thấu hơn một lẽ : đôi khi lòng tự
ái khiến người ta trở nên độc ác, tàn nhẫn ; vì mình đau nên người khác phải
chịu cùng, chịu hơn thế thì mới hả. Khám phá, cắt nghĩa và rồi tái hiện cụ thể
tâm lý ấy qua diễn biến câu chuyện, Vũ Trọng Phụng khiến ta khó lòng nhẹ
nhõm dù tác phẩm đã kết lại bằng cái cười to sung sướng của nhân vật.
1.2 Cách trần thuật tô đậm phần cuối truyện với những kết thúc bất
ngờ :
Trong quá trình dựng truyện, đoạn kết luôn luôn là một vấn đề được
các nhà văn quan tâm. Sêkhốp từng nhấn mạnh rằng viết truyện ngắn, cốt yếu
nhất là phải tô đậm phần mở đầu và kết luận. Trong dòng văn học hiện thực
phê phán, đi trước và nổi bật hơn Vũ Trọng Phụng trong lĩnh vực truyện
ngắn, Nguyễn Công Hoan là một tác giả rất chú ý đến nghệ thuật dựng truyện

sao cho đến chỗ kết thúc thật bất ngờ, tạo ấn tượng mạnh nơi người đọc.
Trong Đời viết văn của tôi, ông từng nhấn mạnh: “Câu kết của tôi là một cái
lờ. Nó thường làm cho độc giả đột ngột cũng như đến chỗ hẹp nước chảy
mạnh, thì cá bất thình lình bị đẩy tuột vào hom”. Người đọc như bị cuốn hút
vào những lời căn vặn, tra hỏi ráo riết, dữ dội tìm cho ra thủ phạm trong
truyện Mất cái ví nhưng đến cuối truyện mới vỡ lẽ ra là chính người cháu quý
hoá đã dựng chuyện để đuổi khéo người cậu của mình đi. Với truyện Đồng
hào có ma, tác giả tạo được một tình huống truyện độc đáo làm nổi bật một
cách bất ngờ bản chất nhân vật huyện Hinh. Hắn ta đầy uy nghi, oai vệ khiến
con mẹ Nuôi sợ hãi quá, lóng ngóng đánh rơi một đồng hào, tìm mãi không
thấy ở đâu. Nhưng không phải đồng hào có ma mà huyện Hinh khi thấy đồng
hào lăn đến chân đã thản nhiên dậm chân lên. Và rồi khi mụ Nuôi đi khỏi,
hắn mới “đưa mắt xuống chân, dịch chiếc giày ra một tí” và “vẫn tự nhiên
như không”, “cúi xuống, thò tay, nhặt đồng hào đôi sáng loáng, thổi những

×