Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH VỀ SỨC KHỎE SINH SẢN VÀ SỨC KHỎE TÌNH DỤC CỦA VỊ THÀNH NIÊN VÀ PHỤ NỮ 15-49 TẠI HUYỆN NA RÌ, BẮC KẠN pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.59 KB, 6 trang )

4 Tạp chí Y tế Công cộng, 12.2012, Số 26 (26)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Việt Nam đã đạt được các thành tựu đáng kể về chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ và trẻ em, nhưng có
sự chệnh lệch đáng kể giữa khu vực miền núi so với thành phố và đồng bằng. Nghiên cứu này được
thực hiện tại Na Rì, một huyện nghèo vùng sâu của tỉnh Bắc Kạn, nhằm đánh giá kiến thức, thái độ
và thực hành của phụ nữ và vò thành niên (VTN) về chăm sóc sức khỏe sinh sản (SKSS) và sức khỏe
tình dục (SKTD), từ đó xác đònh các chiến lược can thiệp phù hợp. Đây là nghiên cứu cắt ngang (đònh
tính kết hợp đònh lượng); với các đối tượng: phụ nữ 15-49 tuổi, VTN 12-15 tuổi, cán bộ y tế (CBYT),
giáo viên. Phần mềm Epidata, SPSS 16 và NVIVO 8.0 được sử dụng để quản lý và phân tích số liệu.
Kết quả cho thấy: (1) Chỉ có 8,4% VTN nam và 3,8% VTN nữ trả lời đúng thời điểm dễ có thai trong
chu kỳ kinh nguyệt và có khoảng 63% VTN đã từng nghe nói đến các biện pháp tránh thai (BPTT)
và bệnh lây truyền qua đường tình dục (LTQĐTD). VTN luôn có nhu cầu về thông tin nhưng thiếu sự
trao đổi với cha mẹ, giáo viên, CBYT; (2) Có tới 99,3% phụ nữ không biết quan hệ tình dục (QHTD)
an toàn là "không mắc bệnh LTQĐTD"; 88% phụ nữ đã sử dụng các BPTT. Cần có chương trình can
thiệp ở đòa bàn này và thiết kế đặc thù phù hợp với bối cảnh thực tế.
Từ khóa: Kiến thức, thái độ, thực hành, sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, vò thành niên, phụ nữ.
Knowledge, attitudes and practices
of reproductive and sexual health care among
adolescents and women aged 15-49 in Na Ri
district, Bac Kan province
Nguyen Thi Nga (*), Hua Thanh Thuy (*), Nguyễn Thai Quynh Chi (*),
Dinh Thu Ha (*), Nguyen Thu Ha (*), Nguyen Thanh Huong (*)
Vietnam has obtained remarkable achievements in improving the quality of health care for
women and children; however, substantial disparity is still found among mountainous areas and
Kiến thức, thái độ và thực hành về sức khỏe
sinh sản và sức khỏe tình dục của vò thành niên
và phụ nữ 15-49 tại huyện Na Rì, Bắc Kạn
Nguyễn Thò Nga (*), Hứa Thanh Thủy (*), Nguyễn Thái Quỳnh Chi (*),
Đinh Thu Hà (*), Nguyễn Thu Hà (*), Nguyễn Thanh Hương (*)
Ytcc so 26.qxp 12/4/2012 9:55 PM Page 4
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |


Tạp chí Y tế Công cộng, 12.2012, Số 26 (26) 5
1. Đặt vấn đề
Những năm qua, chăm sóc SKSS và SKTD của
phụ nữ và VTN luôn được coi là vấn đề ưu tiên giải
quyết hàng đầu của Việt Nam và đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên thực tế vẫn
tồn tại khoảng cách lớn về kết quả giữa các vùng:
miền núi-đồng bằng, thành thò-nông thôn. Đặc
biệt, kiến thức và thực hành về SKSS và SKTD
của VTN còn nhiều hạn chế dẫn đến tình trạng
QHTD không an toàn, mang thai ngoài ý muốn và
gia tăng phá thai [1].
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi phía Đông Bắc
Việt Nam, kinh tế còn nghèo và chương trình chăm
sóc SKSS còn nhiều hạn chế: điều kiện về cơ sở vật
chất, thuốc và dòch vụ thiết yếu không đồng bộ [5],
chất lượng chăm sóc sức khỏe rất thấp và truyền
thông y tế không hiệu quả [4]. Huyện Na Rì là
huyện vùng sâu thuộc tỉnh Bắc Kạn, có 15/22 xã
đặc biệt khó khăn [6] và còn tồn tại nhiều thách thức
trong công tác chăm sóc sức khỏe.
Điều tra sơ bộ tại hai xã huyện Na Rì do tổ chức
ChildFund kết hợp với Sở Y tế tỉnh Bắc Kạn và
Trung tâm y tế (TTYT) chỉ ra thực trạng đáng quan
tâm, đó là tỷ lệ tai biến sản khoa là 30%, xu hướng
tỷ lệ ngày càng cao vò thành niên mang thai, kết hôn
sớm và bỏ học [2]. Vì những lý do trên, cần thiết phải
tiến hành đánh giá thực trạng kiến thức, thái độ và
thực hành của phụ nữ, VTN về SKSS và SKTD từ đó
đònh hướng cho can thiệp tiếp theo nhằm thu hẹp

khoảng cách về kết quả chăm sóc SKSS giữa khu
vực đồng bằng, thành thò và miền núi.
2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt
ngang, kết hợp đồng thời đònh tính và đònh lượng.
Thời gian và đòa điểm nghiên cứu: Từ tháng 6-
8/2011, tại 4 xã đặc biệt khó khăn (thuộc chương
trình 135 của Chính phủ) của huyện Na Rì (Hữu
Thác, Dương Sơn, Quang Phong, Xuân Dương).
Đối tượng nghiên cứu: Phụ nữ 15-49 tuổi (chưa
chồng, có chồng), VTN 12-15 tuổi đang đi học,
CBYT (phụ trách chương trình SKSS), giáo viên
urban and plain areas. This research was conducted in Na Ri, a remote and poor district of Bac Kan
province, with the aim to evaluate the knowledge, attitudes and practices related to reproductive
health care and sexual health of women and adolescents, which serves as basis for developing
appropriate intervention strategies. This research used the cross-sectional design, combining
qualitative and quantitative method, and covering the following subjects: women aged 15-49,
adolescents aged 12-15, teachers, and health workers. Epidata, SPSS and NVIVO 8.0 software are
used to manage and analyze the data. Research results show that: (1) Only 8.4% of male adolescents
and 3.8% of female adolescents choose the correct fertile time in a menstrual cycle, and
approximately 63% of adolescents have heard about contraceptives and sexual transmitted diseases
(STDs). Adolescents always want to get more information, but lack of parents-children, teachers-
students and health workers communication; (2) As many as 99.3% of women do not know that safe
sex is "sex without getting the STDs", and 88% of women have used contraceptives. There is a need
of developing an intervention program appropriate to this context.
Keys: knowledge, attitude and practice, reproductive health, sexual health, adolescent, women.
Tác giả:
(*) - CN.Nguyễn Thò Nga - Trường Đại học Y tế công cộng. Đòa chỉ: 138 Giảng Võ, Ba Đình, Hà Nội.
Email: Điện thoại: 079.940.388
- Ths.Hứa Thanh Thủy - Trường Đại học Y tế công cộng.

- Ths.Nguyễn Thái Quỳnh Chi - Trường Đại học Y tế công cộng.
- CN. Đinh Thu Hà - Trường Đại học Y tế công cộng.
- CN. Nguyễn Thu Hà - Trường Đại học Y tế công cộng.
- PGS.TS.Nguyễn Thanh Hương - Trường Đại học Y tế công cộng.
Ytcc so 26.qxp 12/4/2012 9:55 PM Page 5
6 Tạp chí Y tế Công cộng, 12.2012, Số 26 (26)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
(chủ nhiệm, dạy môn Sinh học và Công dân).
Cách chọn mẫu, cỡ mẫu và phương pháp thu
thập (xem Bảng 1):
Nghiên cứu đònh tính: chọn chủ đích, phỏng vấn
sâu CBYT, thảo luận nhóm (TLN) với phụ nữ 15-
49 và VTN 12-15 tuổi.
Nghiên cứu đònh lượng:
- Chọn phụ nữ 15-49 (hai xã Hữu Thác, Dương
Sơn đại diện cho hai nhóm xã có tỷ lệ hộ nghèo
tương ứng dưới 50% và trên 50%): Áp dụng công
thức tính cỡ mẫu 1 tỷ lệ
Vì chọn mẫu cụm (DE=2) nên n
2
=392. Do đây
là quần thể hữu hạn (616 người) nên hệ số hiệu
chỉnh f=n2/N=0,64. Vậy cỡ mẫu hiệu chỉnh:
n
hc
=n
2
/1+f=240 và thực tế phỏng vấn 269 phụ nữ
15-49 tuổi.
- Chọn mẫu phát vấn đònh lượng VTN 12-15

tuổi: toàn bộ học sinh 4 trường: Xuân Dương, Quang
Phong, Hữu Thác, Dương Sơn (208 người).
Phương pháp phân tích số liệu: Thông tin đònh
lượng được quản lý và phân tích bằng phần mềm
Epidata, SPSS 16. Thông tin đònh tính được ghi chép
và phân tích theo chủ đề bằng phầm mềm NVIVO
8.0.
3. Kết quả
3.1. Kiến thức, thái độ, thực hành về
SKSS/SKTD và nhu cầu trao đổi thông tin
của VTN
Thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành của
VTN về SKSS và SKTD
- VTN hầu như không được trang bò các kiến
thức cơ bản và tâm lý để bước vào tuổi dậy thì, do
đó gặp nhiều khó khăn. Kết quả nghiên cứu đònh
lượng cho thấy: khi được hỏi về dầu hiệu tuổi dậy
thì ở nam và nữ thì có tới khoảng 50% VTN trả lời
"Không biết", hoặc hỏi cụ thể về 2 dấu hiệu quan
trọng nhất của tuổi dậy thì là " xuất hiện kinh
nguyệt" ở nữ và "có mộng tinh" ở nam, tỷ lệ còn khá
thấp (tương ứng 53,3% và 22,8%). VTN thiếu sự
trang bò kiến thức từ trường học: "Chưa có truyền
thông trong nhà trường, y tế trường chưa có kiến
thức về SKSS VTN" (PVS CBYT huyện). Ngoài ra,
các TLN đã chỉ ra VTN cũng không được chuẩn bò
đầy đủ về tâm lý cả từ phía gia đình và nhà trường:
"Khi dậy thì thì rất sợ và không biết gì chỉ biết hỏi
mẹ, ở trường học thì cũng chỉ biết qua một chút là vệ
sinh như thế nào" (TLN nữ trường cấp 2 xã Hữu

Thác). "Có đọc qua một số thứ và tự hiểu là chuyện
bình thường, cũng không thấy mẹ hay ai chuẩn bò
tâm lý trước cho" (TLN nữ VTN trường cấp 2 xã
Hữu Thác). Do vậy, VTN gặp phải những khó khăn:
"Khi dậy thì cũng biết rằng có thay đổi tính tình rất
nhiều như nóng tính, xa lánh bạn bè, ngại bạn bè, rồi
đanh đá hơn" (TLN VTN, nữ, xã Hữu Thác), "Hồi
trước em hay mâu thuẫn với bố mẹ nhưng giờ ít hơn
vì mình lớn hơn. Khi mâu thuẫn có khi cả ngày em
không nói chuyện" (TLN VTN, nam, xã Hữu Thác).
- VTN thiếu các kiến thức về QHTD và mang
thai, hiểu biết về các BPTT còn chưa đầy đủ.
Nghiên cứu đònh lượng đã cho thấy: chỉ có 12,9%
nam và 18,9% nữ trả lời đúng là "QHTD an toàn là
không mắc bệnh LTQĐTD và không gây mang thai
ngoài ý muốn". Khi hỏi cụ thể hơn về mang thai, kết
quả cho thấy: hơn một nửa đối tượng (55,2% nam và
50% nữ) cho rằng "Không thể mang thai nếu chỉ
QHTD 1 lần", chỉ có 8,4% học sinh nam và 3,8%
học sinh nữ lựa chọn đúng đáp án "giữa chu kỳ kinh"
là thời điểm dễ có thai nhất trong chu kỳ kinh
nguyệt. Không chỉ kiến thức kém về mang thai,
VTN còn hiểu biết chưa đầy đủ về các BPTT: có
63,4% đối tượng từng nghe nói đến các BPTT trong
đó phổ biến nhất là bao cao su (90%), thuốc uống
tránh thai (78,6%) và vòng tránh thai (59%) (Hình
1). Mặc dù đã có nhiều em biết tới BCS, tuy nhiên
kiến thức về BCS còn hạn chế: chỉ có 50,9% học
sinh trả lời đúng "Tránh thai và bảo vệ tốt nhất trước
HIV và các bệnh LTQĐTD".

Bảng 1. Bảng tổng hợp cách chọn mẫu, cỡ mẫu và
phương pháp thu thập
Ytcc so 26.qxp 12/4/2012 9:55 PM Page 6
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 12.2012, Số 26 (26) 7
- Những điều trên dẫn đến việc QHTD trước
hôn nhân, mang thai và phá thai thực tế đã và đang
diễn ra. Kết quả nghiên cứu đònh lượng chỉ ra: có
4/208 học sinh (khoảng 2%) đã có QHTD. Vì đây
là vấn đề khá tế nhò, do đó con số này có thể còn
thấp hơn nhiều so với thực tế. Qua các cuộc TLN
cũng đã chỉ ra thực trạng mang thai của VTN đã và
đang tồn tại: "Biết nhiều trường hợp bạn gái 17, 18
tuổi có thai, phải nghỉ học và phải lấy chồng sớm"
(TLN VTN, nam, xã Hữu Thác). Giáo viên cũng
cho biết thực trạng phá thai độ tuổi VTN là tồn tại,
thậm chí là không hiếm: "Vấn đề nạo hút thai thì
nhiều lắm nhưng đa số là các em cấp 3 thôi, chứ cấp
2 thì chưa, ít lắm" (TLN giáo viên, xã Hữu Thác).
Tương tự, các CBYT cũng cho biết "Mỗi năm có 1-
2 trường hợp chúng tôi biết mang thai sớm. Vấn đề
này ngày càng nổi cộm, cần được quan tâm" (CBYT
xã Hữu Thác).
- Đa số VTN vẫn giữ quan niệm truyền thống về
QHTD trước hôn nhân, mang thai và phá thai, mặc
dù quan niệm về việc sử dụng BCS đã cởi mở. Có
80,6% VTN trả lời "Không thể chấp nhận được" khi
được hỏi về QHTD trước hôn nhân. Kết quả đònh
tính cũng khẳng đònh rõ cho điều này "Quan hệ tình
dục trước hôn nhân là không thể chấp nhận được vì

như thế là hư hỏng", "Mọi người đàm tiếu lắm và nếu
bò (mang thai) thì tự tử" (TLN VTN, nữ, xã Dương
Sơn). Tương tự, khi hỏi về mang thai và phá thai: tỷ
lệ trả lời là "Không thể chấp nhận được" khá cao
(tương ứng là 82,8% và 41,2%) (Hình 2). Mặc dù
như vậy, VTN cũng có quan niệm khá cởi mở về
việc sử dụng BCS: có tỷ lệ khá thấp học sinh cho
rằng một người phụ nữ (15%) hoặc đàn ông (19,8%)
mang theo bao cao su là người "không đứng đắn"
hoặc "không đàng hoàng". Người có đònh kiến cho
rằng bao cao su chỉ dành cho người mua bán dâm
hay không chung thủy cũng khá thấp (10,1%).
Nhu cầu trao đổi thông tin về SKSS và SKTD của
VTN
- Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy việc trao
đổi giữa cha mẹ - con cái, giữa giáo viên - học sinh
về SKSS và SKTD còn khá hạn chế (tương ứng chỉ
là 24,7% và 21,2%). Đa số VTN trao đổi chủ đề này
cùng với bạn bè (74%) hoặc anh/chò/em trong gia
đình (28,2%). Kết quả đònh tính cũng cho thấy sự
tương đồng với kết quả đònh lượng: "Không biết bạn
khác giới dậy thì thì như thế nào nhưng cũng cần biết
nhưng bố mẹ và người lớn ít nói" (TLN VTN, nữ, xã
Dương Sơn), "Thầy cô giảng lướt qua, ngại nên ít
nói, chỉ lướt qua chứ không đi hết các nội dung"
(TLN VTN, nam, xã Hữu Thác). Và đặc biệt VTN
hầu như không tiếp cận các thông tin qua cơ quan y
tế và trường học: "Hiện đã thực hiện truyền thông
nhưng chủ yếu là kết hợp với truyền thông cho đối
tượng đã có gia đình" (CBYT huyện).

- Mặc dù VTN ngại ngùng nhưng các em vẫn có
nhu cầu về tìm hiểu các thông tin về SKSS và
SKTD: "VTN còn nhiều hạn chế về kiến thức và rụt
rè khi nói đến SKSS" (CBYT xã Hữu Thác); "Em
muốn tìm hiểu về cả nam cả nữ về dậy thì và về các
vấn đề khác để hiểu thêm" (TLN VTN, nữ, xã Dương
Sơn).
3.2. Kiến thức và thực hành về SKSS của
phụ nữ
- Phụ nữ có hiểu biết về các BPTT do đó tỷ lệ
Hình 1. Kiến thức về các BPTT của VTN
Hình 2. Quan niệm của VTN về một số vấn đề
SKSS/SKTD
Ytcc so 26.qxp 12/4/2012 9:55 PM Page 7
8 Tạp chí Y tế Công cộng, 12.2012, Số 26 (26)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
thực hành sử dụng BPTT khá cao. Trung bình phụ
nữ biết 3,3/10 BPTT. Tỷ lệ sử dụng BPTT trong lần
QHTD gần đây nhất đạt 87,3% và 88,9% ở nhóm
phụ nữ có chồng và chưa chồng đã có QHTD. BPTT
thường xuyên được sử dụng là vòng tránh thai
(73,5%), thuốc uống tránh thai (12,5%) và bao cao
su (11,5%). Đây cũng chính là 3 BPTT được biết
phổ biến nhất (Hình 3).
- Tuy nhiên, phụ nữ hiểu biết chưa đầy đủ về
BPTT, cùng với việc thiếu kiến thức về thời điểm
dễ thụ thai đã dẫn tới thực trạng phá thai ở phụ nữ.
Chỉ có 33,4% phụ nữ trả lời đúng thời điểm dễ thụ
thai trong chu kỳ kinh nguyệt và phần lớn phụ nữ
chỉ tập trung vào việc "tránh thai ngoài ý muốn"

(46,1%). Kết quả này cũng phù hợp với kết quả
TLN: "(Làm gì để có QHTD an toàn?) Dùng các
BPTT: bao cao su hoặc thuốc tránh thai sau khi
QHTD để tránh tối đa có thai ngoài ý muốn" (TLN
nhóm nữ chưa chồng, xã Hữu Thác). Những điều
này đã dẫn đến việc phá thai ở phụ nữ: có 18,9%
(42/222) phụ nữ có QHTD đã từng phá thai. Đáng
chú ý, trong đó có 5/15 phụ nữ chưa kết hôn đã từng
phá thai. Đây là vấn đề khá tế nhò, con số thu thập
được có thể sẽ thấp hơn so với con số thực tế, điều
này cũng được khẳng đònh từ CBYT: "Kết hôn sớm,
nạo phá thai, xấu hổ nên không chia sẻ với ai"
(CBYT huyện).
- Phụ nữ thiếu kiến thức về bệnh LTQĐTD.
Trung bình phụ nữ chỉ nêu được 2 trong tổng số 9
bệnh; có tới 35,9% phụ nữ trả lời "không biết" dấu
hiệu thường gặp khi mắc bệnh. Các bệnh được biết
nhiều nhất là HIV/AIDS (98,3%), giang mai
(43,4%), lậu (36,4%), tỷ lệ phụ nữ biết các bệnh
khác rất thấp (Hình 4). Do kiến thức không đầy đủ,
vì vậy, có tới 99,3% phụ nữ không biết rằng "không
mắc bệnh LTQĐTD" cũng chính là khía cạnh quan
trọng của QHTD an toàn.
- Kiến thức về bệnh LTQĐTD không đầy đủ
dẫn tới việc phòng chống của phụ nữ chưa tốt. Mặc
dù BCS là biện pháp hiệu quả nhất để phòng tránh
bệnh LTQĐTD nhưng tỷ lệ sử dụng BCS trong lần
QHTD gần đây nhất lại khá thấp (11,5%). Trong khi
việc khám phát hiện và điều trò bệnh là rất cần thiết
thì tỷ lệ khám phụ khoa của phụ nữ cũng rất thấp

(khoảng 20%). Nghiên cứu đònh tính cũng đã cho
thấy nhiều đối tượng vẫn chưa sử dụng dòch vụ này:
"Chò em phụ nữ thì vẫn có nhưng ngại vì chưa chồng
nên đi khám vẫn ngại" (26 tuổi, TLN nữ chưa chồng
xã Dương Sơn).
4. Bàn luận
Kết quả nghiên cứu chỉ rõ kiến thức của VTN
tại các xã điều tra còn kém và thấp hơn so với mặt
bằng chung của VTN Việt Nam. Chẳng hạn, liên
quan đến kiến thức về thời điểm dễ có thai nhất của
phụ nữ trong chu kỳ kinh nguyệt, chỉ có 8,4% học
sinh nam và 3,8% học sinh nữ lựa chọn đúng đáp án
"giữa chu kỳ kinh". Tỷ lệ này thấp hơn so với kết
quả điều tra SAVY 2 ở nhóm dân tộc thiểu số và
nhóm học sinh THCS (tương ứng 6% với nam và
12% với nữ) [3]. Tương tự, các tỷ lệ học sinh kể
được 7, 8, 9, 10 BPTT đều thấp hơn ở cùng nhóm
VTN dân tộc thiểu số và nhóm học sinh THCS [3].
VTN 12-15 tuổi gặp khó khăn trong trang bò kiến
thức và tâm lý liên quan SKSS/SKTD. Điều này
cho thấy những hạn chế của việc giáo dục VTN về
vấn đề SKSS/SKTD tại nhà trường, gia đình và của
công tác truyền thông tại các cơ sở y tế huyện Na
Rì; nhu cầu cần triển khai mở rộng gói dòch vụ sức
Hình 3. Kiến thức về các BPTT của phụ nữ
Hình 4. Kiến thức về các bệnh LTQĐTD của phụ nữ
Ytcc so 26.qxp 12/4/2012 9:55 PM Page 8
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 12.2012, Số 26 (26) 9
khỏe thân thiện cho VTN, kết hợp tuyên truyền giáo

dục, tư vấn [5]. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra phụ nữ
có kiến thức kém về QHTD an toàn, các BPTT và
bệnh LTQĐTD. Có thể giải thích là do đặc điểm
của huyện Na Rì - một huyện vùng sâu và xa, phụ
nữ không có điều kiện tiếp xúc với các phương tiện
truyền thông đại chúng.
Các con số liên quan đến tỷ lệ phụ nữ sử dụng
các BPTT (87,3% và 88,9% tương ứng với nhóm có
chồng và chưa chồng nhưng có QHTD) cho thấy
một dấu hiệu đáng mừng về công tác tuyên truyền
về KHHGĐ. Đây cũng chính là thành tựu chung của
toàn ngành y tế Việt Nam: cứ 10 phụ nữ 15-49 tuổi
có chồng thì có 8 người sử dụng một biện pháp tránh
thai nào đó, trong đó chỉ có 1 người dùng biện pháp
truyền thống - mức sử dụng các biện pháp truyền
thống thấp nhất trong 20 năm qua [1].
Nhằm xác đònh các chiến lược can thiệp thu hẹp
khoảng cách về các kết quả về chăm sóc SKSS so
với khu vực thành thò, nông thôn trong khuôn khổ
dự án " Chăm sóc SKSS và SKTD cho phụ nữ và trẻ
em", nghiên cứu được tiến hành trong đó bao gồm
cấu phần mô tả kiến thức, thái độ và thực hành về
SKSS/SKTD của VTN và phụ nữ 15-49 tuổi. Kết
quả nghiên cứu giải thích một phần những thực
trạng cũng như khoảng cách về các kết quả này so
với khu vực thành thò, đồng bằng. Tuy nhiên, các
yếu tố thuộc về bối cảnh như cơ sở vật chất, chất
lượng cán bộ của cơ sở y tế cũng cần thay đổi trong
tổng thể dự án.
Một điểm hạn chế của nghiên cứu là mới chỉ tìm

hiểu được trên nhóm đối tượng VTN 12-15 tuổi
đang đi học, do đó các thông tin chưa phản ánh một
cách đại diện cho VTN nói chung của huyện Na Rì.
Nghiên cứu này đã chỉ ra những thiếu hụt về
kiến thức, thực hành về chăm sóc SKSS của phụ nữ
15-49; cũng như kiến thức, thái độ và thực hành của
VTN 12-15 tuổi còn mơ hồ và không đầy đủ về
SKSS và SKTD. Đồng thời nghiên cứu đã chỉ ra sự
chênh lệch đáng kể về các kết quả này so với các
khu vực thành thò, đồng bằng.
Một số khuyến nghò chính cho can thiệp:
- Truyền thông về SKSS cho phụ nữ cần tập
trung hơn nữa về các BPTT, bệnh LTQĐTD, QHTD
an toàn.
- Truyền thông về SKSS VTN nên chú trọng
vào các chủ đề như đặc điểm tuổi dậy thì, QHTD an
toàn, các bệnh LTQĐTD, mang thai và các BPTT.
- Cần tập trung truyền thông thêm cho nhóm
giáo viên, cha mẹ học sinh để có thể cởi mở trao
đổi, trang bò kiến thức, hỗ trợ tâm lý cho các em.
- Đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bò
của các cơ sở y tế, nâng cao chất lượng CBYT cần
được ưu tiên tiến hành một cách toàn diện.
Lời cảm ơn
Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn tổ
chức ChildFund Việt Nam đã hỗ trợ kinh phí và tạo
điều kiện để có thể triển khai nghiên cứu này tại
huyện Na Rì.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Y tế (2010), Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm

2010. Hệ thống Y tế Việt Nam trước thềm kế hoạch 5 năm
2011 - 2015, Hà Nội.
2. ChildFund và Sở Y tế Bắc Kạn. Đánh giá nhu cầu về sức
khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe trẻ em tại hai xã Na Rì,
tháng 5, 2010.
3. Cục Dân số và KHHGĐ - Bộ Y tế và Tổng cục Thống kê
- Bộ Kế hoạch Đầu tư (2008), Điều tra Quốc gia về Vò thành
niên và Thanh niên Việt Nam, Hà Nội.
4. Sở Y tế tỉnh Bắc Kạn. Báo cáo khảo sát hàng.
5. Thủ tướng Chính phủ. Quyết đònh số: 164/2006/QĐ-TTg
ngày 11 tháng 7 năm 2006.
6. Vụ sức khỏe bà mẹ trẻ em, Bộ Y tế, 2011 (tr45.Báo cáo
kết quả khảo sát thực trạng mạng lưới và năng lực cung cấp
dòch vụ CSSKSS Việt Nam 2010).
Ytcc so 26.qxp 12/4/2012 9:55 PM Page 9

×