Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Nguy cơ ngã ở người cao tuổi tại bệnh viện lão khoa trung ương năm 2022

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (940.77 KB, 50 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

TRẦN LAN PHƯƠNG

NGUY CƠ NGÃ Ở NGƯỜI CAO TUỔI
TẠI BỆNH VIỆN LÃO KHOA TRUNG ƯƠNG NĂM 2022

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

NAM ĐỊNH – 2022


BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

TRẦN LAN PHƯƠNG

NGUY CƠ NGÃ Ở NGƯỜI CAO TUỔI
TẠI BỆNH VIỆN LÃO KHOA TRUNG ƯƠNG NĂM 2022
Chuyên ngành: Điều dưỡng Nội người lớn

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
Tiến sĩ Trần Văn Long

NAM ĐỊNH – 2022


i



LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới Thầy giáo hướng dẫn
chuyên đề của tôi, Tiến sĩ Trần Văn Long, về sự hướng dẫn chuyên nghiệp,
kiên nhẫn và động viên của Thầy trong suốt quá trình làm chuyên đề. Thầy là
một phần quan trọng trong sự phát triển nghề nghiệp và sự phát triển cá nhân
của tơi.
Tơi muốn bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến Hội đồng chuyên đề của tôi về
những nhận xét và góp ý của các thành viên trong Hội đồng cho chuyên đề của
tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo sau Đại học
và Bộ môn Điều dưỡng Nội người lớn trường Đại học Điều dưỡng Nam
Định đã có đóng góp quý báu cho sự phát triển của tôi trong suốt thời gian học
tập và làm chuyên đề tại Nhà trường.
Tôi cũng gửi lời cảm ơn đến các lãnh đạo và đồng nghiệp nơi tơi thực hiện
chun đề. Tơi khơng thể hồn thành được chương trình học và chun đề này
nếu khơng có sự đóng góp to lớn của Ban Giám đốc cùng các khoa phịng
Bệnh viện Lão khoa Trung ương.
Đặc biệt, tơi xin chân thành cảm ơn gia đình, những người hy sinh thầm
lặng, luôn bên cạnh, ủng hộ và động viên tôi trong suốt chặng đường gian nan,
thử thách.

Tác giả

Trần Lan Phương


ii

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan báo cáo chuyên đề: “Nguy cơ ngã ở người cao tuổi tại
Bệnh viện Lão khoa Trung ương năm 2022” là báo cáo tự bản thân tôi thực
hiện, các số liệu khảo sát của tôi trong báo cáo là hoàn toàn trung thực, chưa
từng được công bố ở bất kỳ báo cáo chuyên đề hay cơng trình nghiên cứu nào
khác.
Tác giả

Trần Lan Phương


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG I ............................................................................................................ 3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .................................................................... 3
1. Cơ sở lý luận ...................................................................................................... 3
1.1. Định nghĩa: ................................................................................................. 3
1.2. Thực trạng ngã ở người cao tuổi................................................................. 3
Ngã là một hiện tượng phổ biến ở người cao tuổi. ............................................... 3
1.3. Các nguyên nhân – yếu tố nguy cơ chính gây nên ngã ............................... 4
1.3.1. Nguyên nhân gây ngã........................................................................... 4
1.3.2. Các yếu tố nguy cơ chính gây nên ngã[19]: .......................................... 5
1.3.2.1. Các yếu tố nguy cơ từ cá nhân ....................................................... 5
1.3.2.2. Các yếu tố nguy cơ bên ngoài ........................................................ 7
1.3.2.3. Các hành vi gây rủi ro .................................................................... 8
1.3.2.4. Các yếu tố xã hội và kinh tế ........................................................... 8
1.4. Hậu quả do ngã gây ra đối với người cao tuổi ............................................ 9
1.4.1. Gây chấn thương ............................................................................... 10
1.4.2. Hậu quả về tinh thần ......................................................................... 10
1.4.3. Kéo dài thời gian nằm viện và tăng chi phí điều trị ............................ 10
1.5. Dự phòng ngã ............................................................................................ 11

2. Các phương pháp đánh giá nguy cơ ngã ở người cao tuổi............................. 12
3. Cơ sở thực tiễn:................................................................................................ 13
3.1. Các nghiên cứu đánh giá nguy cơ ngã trên thế giới ................................. 13
3.2. Việt Nam .................................................................................................... 14
3.3. Các hướng dẫn của Hội nghề nghiệp và Bộ Y tế về phòng chống ngã ở
người cao tuổi tại bệnh viện ............................................................................. 15
CHƯƠNG II. ............................................................ Error! Bookmark not defined.
NGUY CƠ NGÃ Ở NGƯỜI BỆNH CAO TUỔI................................................ 19
TẠI BỆNH VIỆN LÃO KHOA TRUNG ƯƠNG............................................... 22
1. Giới thiệu chung về Bệnh viện Lão khoa Trung ương. .................................. 19


2

2. Đối tượng và phương pháp khảo sát............................................................... 22
3. Kết quả ............................................................................................................. 23
3.1 Đặc điểm chung về người bệnh cao tuổi .................................................... 23
3.1.1 Đặc điểm về nhân trắc – xã hội ........................................................... 23
3.1.2 Đặc điểm về bệnh lý ........................................................................... 24
3.2 Tỷ lệ ngã và nguy cơ ngã ở người bệnh cao tuổi tại Bệnh viện Lão khoa
Trung ương ...................................................................................................... 25
3.2.1 Tỷ lệ ngã ............................................................................................ 25
3.2.2 Đánh giá nguy cơ ngã ......................................................................... 25
3.2.3 Vị trí, hồn cảnh, biến chứng do ngã ................................................... 26
CHƯƠNG III. ........................................................... Error! Bookmark not defined.
BÀN LUẬN .......................................................................................................... 28
1. Một số tồn tại trong việc phòng tránh ngã cho người bệnh cao tuổi tại Bệnh
viện Lão khoa Trung ương.................................................................................. 28
2. Nguyên nhân tồn tại ........................................................................................ 29
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 32

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 35
PHỤ LỤC 1 .......................................................................................................... 39
PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN NGƯỜI BỆNH ........................................... 39
PHỤ LỤC 2 .......................................................................................................... 42
BỘ CÂU HỎI ĐÁNH GIÁ NGUY CƠ NGÃ ..................................................... 42


iii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ADL ................. Activities of Daily Living (Hoạt động chức năng hàng ngày)
BMI................. Body Mass Index (Chỉ số khối cơ thể)
GDS – 15 ......... The 15-item geriatric depression scale
(thang điểm 15 câu hỏi đánh giá trầm cảm ở người cao tuổi)
ĐTĐ ................. Đái tháo đường
IADL ................ Instrumental Activities of Daily Living
(Hoạt động chức năng hàng ngày có sử dụng phương tiện)
TUG test........... the Timed Up and Go test (test thời gian đứng lên và đi)
WHO................ World Health Organization (Tổ chức Y tế thế giới)
NB.................... Người bệnh
PTTH ............... Phổ thông trung học


iv

DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Đặc điểm chung về nhân trắc – xã hội
Bảng 3.2. Đặc điểm về tiền sử bệnh đồng mắc
Bảng 3.3. Đánh giá nguy cơ ngã
Bảng 3.4. Vị trí ngã

Bảng 3.5. Hồn cảnh ngã
Bảng 3.6. Biến chứng do ngã trong 1 năm qua

22
23
24
25
25
26

DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Các ngun nhân – yếu tố nguy cơ chính gây nên ngã
Hình 2.1. Cách thực hiện test the Timed Up and Go (TUG test)
Hình 2.2. Cách thực hiện test Functional Reach Test

9
13
13


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngã là một hiện tượng phổ biến ở người cao tuổi. Ngã ở người cao tuổi
là một vấn đề nghiêm trọng để lại hậu quả nặng nề cho các cá nhân, gia đình và
hệ thống y tế. Trên thế giới, ước tính có 646.000 trường hợp bị ngã và tử vong
xảy ra mỗi năm, trở thành nguyên nhân thứ hai gây tử vong do thương tích
khơng chủ ý, sau chấn thương giao thông đường bộ[1]. Các chấn thương do
ngã gây gia tăng các biến chứng, chi phí điều trị, thời gian hồi phục[1] [2].
Những số liệu gần đây của Trung tâm thống kê sức khỏe (National Center for

Health Statistics) cho thấy trong năm 2015, khoảng 55% các ca tử vong do chấn
thương của người cao tuổi tại Anh có nguyên nhân là do ngã. Đối với những
người có độ tuổi từ 75 trở lên thì tỷ lệ này là 78%. Điều này ảnh hưởng rất lớn
đến kinh tế của gia đình, cộng đồng và cả xã hội[3].
Các yếu tố liên quan làm tăng tỷ lệ ngã trên người cao tuổi như: tuổi cao,
tiền sử ngã trước đó, cân nặng, tình trạng yếu cơ, sức mạnh cơ bắp, khả năng
cân bằng kém, trầm cảm, suy giảm thị lực, khối lượng xương thấp, tình trạng
thối hóa xương, khớp, tình trạng dinh dưỡng, khẩu phần dinh dưỡng thiếu
canxi, Vitamin D, sử dụng một số loại thuốc…
Chấn thương do ngã gây gia tăng chi phí điều trị, khởi đầu chỉ từ biến
cố gãy xương do ngã nhưng sau đó dẫn đến hàng loạt biến chứng nghiêm
trọng: viêm phổi bệnh viện, loét tỳ đè, teo cơ...có thể dẫn tới tử vong[4]. Hậu
quả của ngã có thể dẫn tới tàn tật và giảm chất lượng cuộc sống, gây nên tâm
lý lo sợ làm hạn chế vận động. Tần suất bị ngã nhiều lần, mặc dù không kèm
theo biến chứng gãy xương cũng đã làm giảm sự vận động và các hoạt động
sinh hoạt hàng ngày của bệnh nhân[5]. Trong nhóm người cao tuổi, ngã là
nguyên nhân phổ biến làm gia tăng tỷ lệ nhập viện vì chấn thương và chiếm
gần 90% nguyên nhân của gãy xương[6].


2

Như vậy, ngã là một biểu hiện lâm sàng gây nên rất nhiều khó khăn và
nguy hiểm cho bệnh nhân cao tuổi, nhiều yếu tố liên quan tới ngã cũng chưa
được hiểu biết rõ ràng. Ngã có thể ngăn ngừa được nếu phát hiện và dự phòng
các yếu tố nguy cơ. Việc đánh giá và phát hiện và phòng ngừa sớm các yếu tố
nguy cơ ngã trên đối tượng người cao tuổi, sẽ góp phần giảm thiểu những hậu
quả do ngã gây ra, tiết kiệm được về chi phí điều trị chăm sóc và cải thiện chất
lượng cuộc sống của người cao tuổi.
Xuất phát từ những lí do trên, em tiến hành chuyên đề “Nguy cơ ngã ở

người cao tuổi tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương năm 2022” với 2 mục tiêu:
1. Đánh giá nguy cơ ngã cho người bệnh cao tuổi tại Bệnh viện Lão
khoa Trung ương
2. Đề xuất một số giải pháp phòng ngừa nguy cơ ngã cho người bệnh
cao tuổi tại Bệnh viện Lão khoa Trung ương.


3

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Định nghĩa:
Theo Feder G và cộng sự (2000): “Ngã là sự thay đổi đột ngột, khơng có
chủ ý, làm cho cơ thể ngã xuống vị trí thấp hơn như mặt đất hoặc sàn nhà hoặc
trên các đồ vật, do hậu quả của tai nạn, tình trạng liệt hoặc động kinh” [7]
Báo cáo về dự phòng ngã ở người cao tuổi của Tổ chức Y tế Thế Giới do
Kalache A và cộng sự trình bày (2007) thì ngã được hiểu như một sự vơ tình
làm cho cơ thể ngã xuống mặt đất, sàn nhà, hoặc vị trí thấp hơn, ngoại trừ những
trường hợp cố ý để thay đổi vị trí của chủ thể trên các đồ nội thất, trên tường
hoặc những đối tượng khác [8]
1.1.2. Thực trạng ngã ở người cao tuổi
Ngã là một hiện tượng phổ biến ở người cao tuổi.
Theo WHO (2007), khoảng 28 – 35% người cao tuổi ≥ 65 tuổi có ngã
mỗi năm, tỷ lệ này tăng lên đến 32 – 42% đối với những người trên 70 tuổi.
Tần số ngã tăng theo tuổi và thể trạng yếu[9]. Người cao tuổi sống trong viện
dưỡng lão thường xuyên xảy ra ngã hơn những người đang sống trong cộng
đồng. Khoảng 30– 50% số người sống ở các tổ chức chăm sóc dài hạn bị ngã
mỗi năm, và 40 % số đó có tiền sử ngã nhiều lần[9].

Tỷ lệ ngã có vẻ khác nhau giữa các quốc gia. Ví dụ: một nghiên cứu tại
khu vực Đơng Nam Á: tỷ lệ người cao tuổi có ngã mỗi năm ở Trung Quốc là 6
– 31 %, ở Nhật Bản là 20 %. Một nghiên cứu trong khu vực của Châu Mỹ nhận
thấy: tỷ lệ người cao tuổi bị ngã: 21,6 % ở Barbados, 34% ở Chile[9].
Các vị trí hay xảy ra ngã trong nhà là: phòng ngủ, phòng tắm, phòng ăn[10].
Nghiên cứu của Magdalena Sylwia Kamińska (2015) trên 304 bệnh nhân
tuổi từ 65 – 100 tại trường Đại học Y Pomeranian ở Ba lan, kết quả thu được
có 233 bệnh nhân đã từng bị ngã ít nhất 1 lần, 137 có tiền sử ngã 2 lần, 75 có


4

ngã ít nhất 3 lần. Số lần ngã nhiều nhất trong năm của nhóm nghiên cứu ghi
nhận là 12 lần[10].
1.1.3. Các nguyên nhân – yếu tố nguy cơ chính gây nên ngã
1.1.3.1. Nguyên nhân gây ngã
Ngã là kết quả của sự tương tác giữa các yếu tố sinh học, chăm sóc y tế,
hành vi của chủ thể và mơi trường. Ngã là một trong những hội chứng lão khoa
quan trọng không chỉ bởi cơ chế xuất hiện phức tạp mà còn do sự kết hợp của
nhiều yếu tố bệnh tật mắc phải và sự suy giảm sinh lý của nhiều hệ thống trong
cơ thể[11]. Nguyên nhân gây ngã liên quan đến các yếu tố nội tại bên trong cơ
thể và yếu tố bên ngồi mơi trường sống, với sự tham gia trong hoàn cảnh ngã
bởi các yếu tố ngoại lai. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy một số yếu tố liên quan
đến ngã ở người cao tuổi trong cộng đồng. Người cao tuổi có nguy cơ ngã nhiều
hơn do mắc nhiều bệnh lý mạn tính và sự suy giảm chức năng thể chất, nhận
thức liên quan đến tuổi tác[12]. Sự liên quan của nhiều yếu tố đến ngã như: đặc
điểm nhân khẩu học, kinh tế xã hội, giáo dục, nguồn thu nhập, tình trạng hơn
nhân, giới tính, chủng tộc được đề cập đến trong nghiên cứu của Steinman B.A
và cộng sự (2009) [13].
Ngoài ra, các hành vi như hút thuốc lá, các bệnh lý liên quan như tăng

huyết áp (THA), đái tháo đường, bệnh lý tim mạch, viêm khớp, ung thư được
cho là có liên quan đến nguy cơ ngã[14]. Việc thay đổi chế độ dinh dưỡng có
thể là những yếu tố dự đoán được nguy cơ ngã[15]. Sự suy giảm trong hoạt
động hằng ngày (ADL), hoạt động sinh hoạt hằng ngày bằng dụng cụ, phương
tiện (IADL) hay giảm hoạt động thể chất đều liên quan đến ngã[16]. Mối nguy
hiểm về mơi trường (nhà ở, nội thất, cầu thang…) đóng vai trị quan trọng trong
hồn cảnh xảy ra ngã vì một số yếu tố liên quan đến hạn chế chức năng thường
bị chi phối nhiều bởi môi trường sống[17].
Năm 2000, nghiên cứu của Bueno - Cavanillas và cộng sự cho kết quả
ngã có thể do cả nguyên nhân nội tại hoặc bên ngồi mơi trường. Đối với
trường hợp ngã do nguyên nhân bên ngoài, các yếu tố liên quan chẳng hạn


5

như điều trị bằng thuốc giãn phế quản, thuốc an thần kinh. Với nguyên nhân
bên trong như: Tuổi, bệnh lý đái tháo đường, sa sút trí tuệ, tiền sử ngã, rối
loạn dáng đi và thăng bằng…[18]
1.1.3.2. Các yếu tố nguy cơ chính gây nên ngã[19]:
Dự đốn tốt nhất về ngã là một cú ngã trước đó. Tuy nhiên, ngã ở người
cao tuổi hiếm khi có một nguyên nhân hoặc một yếu tố rủi ro [20]. Một cú ngã
thường được gây ra bởi sự tương tác phức tạp giữa các điều sau đây:
- Các yếu tố nguy cơ từ cá nhân
- Các yếu tố bên ngoài
- Các hành vi gây rủi ro
- Các yếu tố xã hội và kinh tế
1.3.2.3. Các yếu tố nguy cơ từ cá nhân
- Tuổi: được coi là một yếu tố nguy cơ cho sự ngã của NB. Do tuổi tác,
các cơ quan trong cơ thể suy giảm chức năng: cơ teo yếu, khớp thối hóa, thị lực
giảm, trí tuệ sa sút, thiếu máu lên não… khiến cho việc đi lại ở người cao tuổi

khó khăn và dễ bị ngã. Người lớn tuổi có nguy cơ tử vong cao nhất hoặc thương
tích nghiêm trọng phát sinh từ ngã và nguy cơ gia tăng theo độ tuổi. Ví dụ, ở
Hoa Kỳ, 20–30% người lớn tuổi bị thương nặng đến trung bình như vết bầm
tím, gãy xương hơng hoặc chấn thương đầu. Mức độ rủi ro này có thể là do
những thay đổi về thể chất, cảm giác và nhận thức liên quan đến lão hóa, kết
hợp với các mơi trường khơng thích nghi[21]. Theo một nghiên cứu, khoảng
30-40% người cao tuổi trên 65 ngã ít nhất 1 lần trong một năm và tỉ lệ này tăng
rất cao ở người trên 75 tuổi. Ở Pháp khoảng 1,2 đến 1,5 triệu người trên 65 tuổi
bị ngã trong 1 năm. Ngã tăng lên theo tuổi, đặc biệt ở nhóm trên 85 tuổi, nhất
là nhóm có suy giảm nhận thức. Ngã ở bệnh nhân nội trú gấp 3 lần đối với
người ở trong cộng đồng độ tuổi trên 65[22].
- Giới tính: Trên tất cả các nhóm tuổi và khu vực, cả hai giới tính đều có
nguy cơ bị ngã. Ở một số quốc gia, người ta đã lưu ý rằng nam giới có nhiều


6

khả năng chết vì bị ngã, trong khi đó nữ giới bị ngã nhiều hơn. Phụ nữ lớn tuổi
và trẻ nhỏ đặc biệt dễ bị ngã và tăng mức độ nghiêm trọng của thương tích.
- Tiền sử đã từng bị ngã: cũng là yếu tố nguy cơ đối với NB nội trú.
Trong một nghiên cứu thuần tập cho kết luận tiền sử ngã là yếu tố nguy cơ liên
quan đến ngã trên NB nam và nữ, điều quan trọng là phải có thơng tin này ngay
từ khi NB nhập viện[22].
- Thuốc điều trị: Sử dụng thuốc hướng tâm thần cũng làm tăng nguy cơ
bị ngã ở nam giới trong khi rối loạn chức năng nhận thức và sử dụng thuốc ngủ
làm tăng nguy cơ bị ngã ở phụ nữ. Một phân tích meta cho thấy nguy cơ ngã
gia tăng đáng kể khi sử dụng thuốc điều trị tâm thần, thuốc chống loạn nhịp,
digoxin và thuốc lợi tiểu, điều đó cho thấy rằng can thiệp chăm sóc sức khỏe là
một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với ngã bệnh viện. Một số nhà nghiên cứu
đã cảnh báo rằng đa số thuốc chống trầm cảm là một yếu tố nguy cơ cho

ngã. Người bệnh được điều trị bằng thuốc hướng tâm thần hoặc thơi miên cần
đặc biệt chú ý[23].
- Tình trạng tâm thần: Một nghiên cứu hồi cứu gợi ý rằng một trong
những yếu tố nguy cơ độc lập đối với ngã là tiền sử rối loạn nhận thức và suy
giảm nhận thức đặc biệt ảnh hưởng đến trí nhớ ngắn hạn. Rối loạn chức năng
nhận thức làm tăng nguy cơ ngã ở phụ nữ. Do đó, cần theo dõi cẩn thận các
hành động của bệnh nhân bị rối loạn chức năng nhận thức[23].
- Dáng đi: Dáng đi cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến nguy cơ ngã. Dáng
đi bắt đầu thay đổi từ tuổi ngoài 30. Khi tới tuổi cao, bước đi sẽ ngắn, bàn chân
không nhấc cao lại giữ lâu trên mặt đất, nhịp đi chậm, cánh tay ít đu đưa, vung
vẩy, khớp vai ít nhúc nhích, thân ngả về phía trước để giữ thế thăng bằng. Rối
loạn dáng đi là một trong những nguy cơ khiến người cao tuổi hay bị ngã. Một
số người bệnh có dị tật về dáng đi như bước đi như cua, bước đi như chim cánh
cụt, bước đi như vịt... gây nên sự khó khăn về giữ thăng bằng từ đó làm tăng
nguy cơ ngã ở người bệnh.


7

- Chức năng nhận thức: Rối loạn ý thức là thuật ngữ chung được sử
dụng để mô tả các rối loạn chức năng tâm thần khác nhau có thể từ lú lẫn nhẹ
đến hôn mê. Về cơ bản, ý thức là sự kết hợp giữa mức độ thức tỉnh (tức là sự
chú ý) và nhận thức (tức là quá trình tư duy hoặc suy nghĩ) của NB; NB có thể
bị rối loạn một hoặc cả hai. Ngoài ra, rối loạn ý thức khá phổ biến trong NB
khi mới nhập viện. Theo một nghiên cứu ở Mỹ thì có đến 25-30 % người cao
tuổi nhập viện có rối loạn ý thức[24]. Rối loạn ý thức khiến NB khơng kiểm
sốt được hành vi, dễ mất thăng bằng, gia tăng nguy cơ ngã.
- Suy giảm thị giác: Ngày nay, suy giảm thị lực đã trở nên phổ biến trong
xã hội, có thể gặp ở mọi lứa tuổi. Theo báo cáo của tổ chức y tế thế giới, tỉ lệ
người bị suy giảm thị lực nhìn xa chiếm khoảng 3,4% dân số thế giới, trong đó

0,49% người mù và 2,95% người bị suy giảm thị lực vừa và nặng. Hơn 1,1 tỷ
người được ước tính có khả năng bị chứng viễn thị Người bệnh có suy giảm thị
giác sẽ bị cản trở tầm nhìn đặc biệt là ở những nơi có nhiều nguy cơ ngã cao
như khu vực đang vệ sinh lau dọn, khu vực mấp mô dốc… khiến nguy cơ trượt
ngã của họ cao hơn so với những người bệnh khơng có suy giảm thị giác.
- Có một hoặc thêm các bệnh kinh niên hoặc cấp tính: ví dụ: hậu quả
của đột quỵ, bệnh liệt rung (Parkinson’s disease), viêm khớp, bệnh tim, mất khả
năng kiểm soát việc tiêu tiểu hoặc nhiễm trùng cấp tính.
- Dinh dưỡng kém: Khơng có đủ protein, canxi hoặc vitamin D cho nhu
cầu hàng ngày.
- Không vận động hoặc tập thể dục: tập thể dục ít hơn 150 phút mỗi tuần.
1.3.2.4. Các yếu tố nguy cơ bên ngoài
- Thiếu các lối đi thân thiện dành cho người đi bộ và các khu vực có thể
đi bộ được gần nhà, thiếu các dịch vụ và các tiện nghi.
- Vỉa hè và lối đi không bằng phẳng.
- Các bậc cầu thang khơng có tay vịn hoặc có đánh dấu các gờ, mép.
- Thiếu ánh sáng bên ngồi: thắp sáng khơng đủ hoặc bị chói sáng quá nhiều.
- Các đồ vật làm hẹp hoặc cản trở vỉa hè chẳng hạn như giá để xe đạp,


8

thùng đựng rác hoặc các vỉ sắt trơn trợt khi ướt.
- Tuyết, nước đá, nước đọng vũng hoặc lá cây ướt trên cầu thang hoặc
các lối đi.
- Các khúc quanh hoặc các góc đường khơng có đánh dấu cũng như
khơng có đường dốc thoai thoải ở các góc đường để dành cho xe lăn lên xuống
dễ dàng.
- Lối đi dài mà khơng có chỗ dừng chân nghỉ tạm dành cho khách bộ hành.
- Thời gian để người đi bộ băng qua đường q ít khiến người đi bộ khó

khăn về đi qua đường.
- Lối đi qua đường, vỉa hè hoặc đường đi dành cho người đi bộ không
được đủ ánh sáng.
1.3.2.5. Các hành vi gây rủi ro
- Leo thang hoặc dùng ghế thường thay vì dùng một ghế đẩu nhỏ vững
chãi với một thanh vịn an toàn.
- Thiếu ý thức về sự tác động qua lại giữa các loại thuốc.
- Với những người bị bệnh hoặc có hạn chế về đi đứng, không dùng các
dụng cụ hỗ trợ đi lại chẳng hạn như gậy hoặc xe đẩy có tay vịn, hoặc dùng các
dụng cụ không đúng cách.
- Mang giầy dép khơng có quai, giầy có đế dầy, giầy cao gót, hoặc giầy
khơng thích hợp theo các điều kiện thời tiết.
- Nâng hoặc cố gắng mang các túi xách quá nặng hoặc nặng nhẹ không
đều.
1.3.2.6. Các yếu tố xã hội và kinh tế
- Sống một mình.
- Thiếu hoặc có ít sự hỗ trợ hoặc các nối kết với xã hội, nhất là sự hỗ
trợ của gia đình.
- Khơng có đủ tài chính để chọn một cách sống lành mạnh qua việc ăn
uống và hoạt động thân thể.


9

- Thiếu nhà ở tiện nghi, an toàn cho người tàn tật sử dụng hoặc thiếu tài
chính để trả tiền sửa chữa nhà cửa cho thích nghi khi cao tuổi và có các thay
đổi trong việc đi đứng.
- Thiếu sự tiếp cận với các dịch vụ y tế hoặc thông tin y tế do khoảng
cách địa lý, sự cô lập xã hội, các vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa.
- Các ngun nhân và yếu tố nguy cơ chính gây ngã ở người cao tuổi

được tóm tắt qua hình vẽ dưới đây:
Yếu tố cá nhân, bệnh lý:

Yếu tố thói quen:

-Tuổi, giới, chủng tộc

-Uống rượu
-Lười vận động

-Bệnh mạn tính:
Parkinson, viêm khớp...

-Đi giày dép không
quai

-Suy giảm chức năng,
nhận thức...

-Với tay, trèo cao...

- Thuốc, sử dụng nhiều
thuốc..

Ngã
Yếu tố xã hội:

Yếu tố môi trường:

-Trình độ dân trí thấp


-Hạ tầng kém

-Thiếu nguồn lực, sự
hỗ trợ xã hội

-Sàn, cầu thang trơn

-Dịch vụ chăm sóc
kém..

-Vỉa hè ghồ ghề...

-Thiếu ánh sáng

Hình 1.1. Các nguyên nhân – yếu tố nguy cơ chính gây nên ngã
1.4. Hậu quả do ngã gây ra đối với người cao tuổi
Hậu quả của ngã ở người cao tuổi thường nghiêm trọng hơn nhiều so với
người trẻ, thường gây ra các chấn thương lớn cho xương và da, các bệnh kèm
theo nên khó hồi phục. Ở người già thường mắc một số bệnh như loãng xương


10

kèm theo những thay đổi liên quan đến tuổi như phản xạ tự vệ chậm, do vậy khi
ngã, kể cả khi ngã rất bình thường cũng trở lên nguy hiểm. Ngã là một trong
những nguyên nhân chính gây tàn phế ở người cao tuổi[3].
1.4.1. Gây chấn thương
Khoảng 5% ngã gây chấn thương và dẫn đến gãy xương. Các chấn thương
kiểu này thường dẫn đến tàn tật tam thời hoặc vĩnh viễn. Một nửa số người cao

tuổi nhập viện vì gẫy cổ xương đùi và không thể trở lại cuộc sống độc lập tại
nhà. Ngã ở người cao tuổi gây ra các chấn thương nặng (gẫy xương thường là
gẫy cổ xương đùi, tụ máu ngoài da hoặc tụ máu não) chiếm khoảng 5-10%. Tỷ
lệ ngã nam cao hơn ở phụ nữ và tăng theo tuổi. Ngã đứng thứ 3 các nguyên
nhân gây chấn thương ở người trên 65 tuổi ở các trại dưỡng lão và 30% các
trường hợp nhập viện cũng là do ngã[3].
1.4.2. Hậu quả về tinh thần
Ngoài gây ra chấn thương, ngã còn gây nhiều hiệu quả nghiêm trọng khác
với người già. Khoảng một phần ba số người cao tuổi đã từng bị ngã ln có
một nỗi sợ là sẽ bị ngã tiếp. Những trường hợp nặng có thể có biểu hiện trầm
cảm hoặc lo lâu, cảm giác bất lực, cô đơn hoặc hội chứng căng thẳng sau chấn
thương, thậm chí có có mê sảng. Nỗi lo sợ, cộng với hạn chế do vận động, có
thể dần dần khiến cho bệnh nhân mất đi sự tự tin, giảm các hoạt động hàng
ngày, sự phụ thuộc trong các hoạt động hàng ngày sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
chất lượng cuộc sống của bệnh nhân[3].
1.4.3. Kéo dài thời gian nằm viện và tăng chi phí điều trị
Thời gian nằm viện vì ngã thường kéo dài hơn nhiều so với các bệnh lý
khác. Khoảng: 4 – 15 ngày ở Thụy Sĩ, Thụy Điển, Mỹ. Trong trường hợp gãy
xương hông thời gian nằm viện kéo dài đến 20 ngày. Với độ tuổi càng cao, thể
trạng yếu, người cao tuổi có thể có thể vẫn phải nằm viện liên tục trong suốt
cuộc đời họ sau một chấn thương do ngã gây ra[9].
Tại Hoa Kỳ, khoảng ba phần tư số ca tử vong do ngã ở 13% dân số ≥ 65
tuổi, xảy ra chủ yếu ở nhóm có hội chứng lão khoa. Khoảng 40% nhóm tuổi


11

này sống ở nhà một mình bị ngã ít nhất một lần mỗi năm và khoảng 1 trong 40
người trong số họ phải nhập viện. Trong số những người nhập viện sau ngã, chỉ
khoảng một nửa còn sống một năm sau đó. Theo CDC (Centers for Disease

Control and Prevention – Trung tâm kiểm sốt và phịng ngừa bệnh tật) năm
2013, hơn 2,000,000 chấn thương không tử vong liên quan tới ngã được điều
trị tại khoa cấp cứu, và hơn 700,000 trong đó buộc phải nhập viện.
Người bệnh bị chấn thương nghiêm trọng liên quan đến ngã phải kéo dài
thời gian nằm viện trung bình 6-12 ngày và chi phí cao hơn NB khơng bị ngã
trong nhóm so sánh trung bình 13.316 đô la Một nghiên cứu cho thấy sự gia
tăng trung bình thời gian nằm viện của NB sau khi ngã được ước tính là 12,3
ngày. Điều này dẫn đến chi phí trung bình tăng 61%
Chi phí điều trị và phục hồi cho ngã rất cao. Trung tâm phòng chống ngã
quốc gia của Mỹ cho biết chi phí hàng năm cho ngã lên tới 27,3 tỉ đơla, chi phí
điều trị cho ngã ở Pháp lên tới hàng triệu euro[3].
1.5. Dự phòng ngã
Các biện pháp dự phòng ngã và tái ngã chủ yếu tập trung vào:
- Sàng lọc yếu tố nguy cơ:
+ Bệnh nhân: giảm thị lực, thính lực, khả năng di chuyển, các thuốc đang
dùng (hướng thần), lỗng xương...
+ Mơi trường: sàn nhà, ánh sáng, cầu thang, nhà tắm, nhà bếp...
- Đánh giá toàn diện:
+ Hạ áp tư thế, viêm khớp, tình trạng yếu cơ, tổn thương biến dạng bàn chân,
kiểm tra về thần kinh, tâm thần, phản xạ gân xương, chức năng thăng bằng,..
+ Đường huyết, công thức máu, điện giải đồ, chức năng thận, đo loãng
xương...
- Các phương pháp phòng ngã:
+ Bệnh nhân: giáo dục bệnh nhân, nhân viên chăm sóc; giảm thuốc
hướng thần; hướng dẫn cách di chuyển và đi bộ an toàn; lớp tập thể dục.


12

+ Mơi trường: đảm bảo mơi trường an tồn, phù hợp: giường thấp, đặt

nệm trên sàn cạnh giường, tay vịn trong nhà vệ sinh...
+ Sử dụng dụng cụ bảo vệ hông
- Điều trị: tập phục hồi chức năng, điều trị thăng bằng, điều chỉnh dáng
đi, tập các kĩ thuật tăng cơ lực chi dưới, giữ thăng bằng.... [3]
2. Các phương pháp đánh giá nguy cơ ngã ở người cao tuổi
♦ Tình trạng ngã: Khai thác tiền sử ngã của bệnh nhân:
- Ngã bất kỳ: trong tiền sử bệnh nhân đã bao giờ bị ngã chưa?
- Ngã trong 12 tháng (1 năm) vừa qua: có/khơng.
- Ngã nhiều lần: khi có ≥ 2 lần ngã trong 1 năm qua.
- Vị trí ngã, hoàn cảnh khi ngã.
- Tần suất: số lần ngã trong 1 năm (12 tháng) vừa qua.
- Phân loại: ngã có chấn thương hay khơng, có chấn thương đầu hoặc gãy
xương do ngã khơng, ngã có để lại di chứng khơng.
♦ Nguy cơ ngã được đánh giá bằng:
- Bộ câu hỏi 21-item Fall Risk Index by Toba, Kikuchi (Phụ lục 2).
+ Gồm 21 câu hỏi, đánh giá trả lời có hoặc khơng.
+ Mỗi câu trả lời có được tính 1 điểm. Tổng điểm tối đa: 21 điểm.
+ Đánh giá: ≥ 10 điểm: nguy cơ ngã cao [25].
- The Timed Up and Go test (TUG test) (đánh giá hoạt động thể chất
và nguy cơ ngã)[26] [27]
+ Dụng cụ: ghế, đồng hồ bấm giờ, mốc: hình chóp nhựa, tường.
+ Thực hiện: Khi nghe hiệu lệnh: “Đi”, bệnh nhân đứng dậy và đi về phía
vật mốc trên một đường thẳng dài 3 mét. Sau đó quay lại ghế và ngồi lại.
Bấm giờ để xem tổng thời gian bệnh nhân hồn thành bài tập, tính từ lúc
có hiệu lệnh: “Đi” cho đến khi BN quay trở lại.



×