Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Triệu chứng của viêm cầu thận mạn pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.56 KB, 7 trang )




Triệu chứng của viêm
cầu thận mạn

Triệu chứng viêm cầu thận mạn tính hết sức đa dạng, với những hình
thái khác nhau. Có thể biểu hiện kín đáo chỉ có protein niệu, hồng cầu
niệu không có triệu chứng lâm sàng; hoặc biểu hiện rầm rộ với các triệu
chứng: phù to toàn thận, protein niệu nhiều, giảm protein máu, tăng
lipit máu và không ít trường hợp biểu hiện của suy thận mạn tính giai
đoạn mất bù. Triệu chứng chủ yếu của viêm cầu thận mạn tính là:
1.1. Phù
Phù là một triệu chứng lâm sàng đặc trưng cho bệnh lý cầu thận, các loại
bệnh thận khác không có phù. Chính vì vậy, khi xuất hiện phù không rõ căn
nguyên là phải nghĩ đến phù do bệnh lý cầu thận, cần kiểm tra nước tiểu cẩn
thận để xác định nguyên nhân của phù. Rất nhiều trường hợp, triệu chứng
lâm sàng duy nhất của viêm cầu thận mạn là phù, có thể phù kín đáo không
ảnh hưởng đến sức khoẻ, bệnh nhân lao động làm việc, ăn ngủ sinh hoạt
bình thường, thậm chí bệnh nhân không biết mình bị phù; nhưng có thể phù
rất to: phù dưới da, quanh mắt cá trước xương chày, vùng cùng cụt, phù dưới
da đầu; phù mềm ấn lõm rõ; có thể có cổ trướng, tràn dịch màng phổi, tràn
dịch màng tinh hoàn.
+ Cơ chế bệnh sinh của phù:
- Do tăng tính thấm của thành mạch, tăng tính thấm các hệ thống mao mạch
ngoại vi.
- Ứ nước và muối do giảm mức lọc cầu thận, cường aldosteron thứ phát và
tăng bài tiết
ADH, kích thích ống thận tăng hấp thu muối và nước.
- Giảm áp lực keo của máu do giảm protein máu, giảm albumin máu dẫn đến
rối loạn vận chuyển nước và muối, gây ứ nước và muối ở khoang gian bào.


1.2. Tăng huyết áp (THA)
Tăng huyết áp có thể xuất hiện bất kỳ giai đoạn nào của bệnh.
- Tăng huyết áp xuất hiện ngay từ đầu cùng với các triệu chứng của viêm
cầu thận mạn tính, tăng huyết áp không thường xuyên, tăng từng đợt. Một số
trường hợp tăng huyết áp xuất hiện sau một thời gian tiến triển của bệnh.
Khi suy thận chưa xuất hiện, tăng huyết áp là một triệu chứng báo hiệu bệnh
đang ở thời kỳ tiến triển, báo hiệu một đợt bột phát của bệnh, một quá trình
tăng sinh phù nề xuất tiết ở cầu thận dẫn đến tăng tiết renin, hoạt hoá hệ
thống RAA (renin angiotensin aldosterone).
Tăng huyết áp xuất hiện trong viêm cầu thận mạn tính có ý nghĩa về tiên
lượng, tình trạng suy giảm chức năng và suy thận mất bù diễn ra sớm hơn so
với những trường hợp viêm cầu thận mạn không có tăng huyết áp. Vì vậy,
trong viêm cầu thận mạn tính cần phải theo dõi huyết áp thường xuyên và
phải duy trì huyết áp ở mức bình thường bằng mọi biện pháp. Một số trường
hợp tăng huyết áp là dấu hiệu mở đầu của suy thận mạn tính ở những bệnh
nhân viêm cầu thận mạn tiềm tàng từ trước và ngoài tăng huyết áp còn
thường xuất hiện tình trạng thiếu máu.
- Tăng huyết áp kéo dài gây tổn thương đáy mắt và dày đồng tâm thất trái,
suy tim mạn tính; tăng huyết áp kịch phát gây suy tim cấp tính dẫn đến phù
phổi cấp.
1.3. Thiếu máu
Một bệnh nhân viêm cầu thận có thể có thiếu máu, da xanh, niêm mạc nhợt,
hay chóng mặt, đau đầu, trí lực giảm. Thiếu máu xảy ra trong 2 trường hợp:
- Do bệnh lâu ngày kéo dài hàng tháng, thậm chí hàng năm, kiêng khem một
cách kham khổ, không dám ăn thịt, trứng, cá, dẫn đến thiếu máu do thiếu
đạm, thiếu các yếu tố vi lượng; thiếu máu do thiếu sắt.Thiếu máu do thiếu
dinh dưỡng thường là loại thiếu máu mức độ nhẹ và trung bình, ít khi thiếu
máu nặng.
- Thiếu máu xuất hiện khi có suy thận mạn tính: 100% các trường hợp suy
thận mạn tính đều có thiếu máu, mức độ thiếu máu phụ thuộc vào giai đoạn

của suy thận. Ở bệnh viêm cầu thận mạn tính, vừa có tăng huyết áp vừa có
thiếu máu, đó là những dấu hiệu của suy thận mất bù. Nguyên nhân của
thiếu máu là do thiếu erythropoietin.
1.4. Những biến đổi ở nước tiểu
Triệu chứng lâm sàng của viêm cầu thận mạn tính có khi rất nghèo nàn, đến
nỗi bệnh nhân không biết mình bị bệnh nếu không làm xét nghiệm nước
tiểu. Ngược lại biến đổi ở nước tiểu bao giờ cũng có và hằng định.
- Protein niệu trong 24 giờ gần như thường xuyên dương tính và giao động
trong khoảng 0,5-3g/ngày. Protein niệu (+++) thường gặp ở mẫu nước tiểu
lúc sáng sớm mới ngủ dậy. Những mẫu nước tiểu kế tiếp sau đó có thể âm
tính; protein niệu cách hồi. Vì vậy khi protein niệu (-) thì phải làm protein
niệu 24h.
Số lượng protein niệu ít có giá trị về tiên lượng nhưng có ý nghĩa về chẩn
đoán và là chỉ tiêu đánh giá kết quả điều trị.

- Hồng cầu niệu: 60- 80% viêm cầu thận mạn tính có hồng cầu niệu. Theo
nhiều tác giả, hồng cầu niệu là một dấu hiệu chứng tỏ bệnh đang ở giai đoạn
tiến triển. Ơt bệnh nhân viêm cầu thận mạn tính, sau điều trị mà protein niệu
âm tính nhưng hồng cầu niệu vẫn dương tính thì nguy cơ bệnh tái phát vẫn
còn.
- Trụ niệu:
. Trụ trong là những protein khuôn theo lòng ống thận chưa thoái hoá hoàn
toàn, giống như những sợi miến chín.
. Trụ sáp: là những protein niệu đã thoái hoá do môi trường toan của nước
tiểu.
. Trụ hình hạt, trong đó có nhiều hạt nhỏ: trước đây người ta cho rằng trụ
hình hạt là dấu hiệu đặc trưng của viêm cầu thận mạn tính. Một số tác giả
cho rằng thành phần của trụ hình hạt là IgM. Hiện nay, người ta cho rằng các
trụ trong, trụ sáp, trụ hình hạt là biểu hiện của protein niệu.
2. Các thể lâm sàng của viêm cầu thận mạn

2.1. Thể tiềm tàng
Biểu hiện lâm sàng bằng protein niệu và hồng cầu niệu nhưng không có triệu
chứng lâm sàng. Bệnh có thể kéo dài hàng tháng, hàng năm mà không có
dấu hiệu nào khác. Bệnh nhân có thể lao động làm việc bình thường nhưng
không có nghĩa là không nguy hiểm, cần phải thận trọng, phải có chế độ
công tác, chế độ sinh hoạt hợp lý, điều trị protein niệu bằng các thuốc kháng
tiểu cầu, nonsteroid và các thuốc ức chế men chuyển.
2.2. Thể tăng huyết áp (THA)
Triệu chứng tăng huyết áp chiếm ưu thế và hằng định, huyết áp 140/90 -
150/90, nhưng có thể có tăng huyết áp kịch phát. Thường kèm theo với
protein niệu (++), hồng cầu niệu (+). Nếu ở bệnh nhân lớn tuổi (trên 40 tuổi)
dễ nhầm với tổn thương thận do THA, xơ hoá tiểu động mạch thận - thận
lành tính hoặc ác tính.
2.3. Thể suy thận
Không có tiền sử viêm cầu thận. Bệnh nhân vào viện với bệnh cảnh lâm
sàng của suy thận mạn tính: tăng huyết áp, thiếu máu, rối loạn tiêu hoá, buồn
nôn và nôn; urê máu và creatinin máu tăng; trên siêu âm thấy hai thận teo
nhỏ đồng đều. Hầu hết suy thận mạn mất bù do viêm cầu thận mạn tính xuất
hiện ở lứa tuổi từ 20 đến 30 tuổi.
2.4. Thể có hội chứng thận hư (HCTH)
Mở đầu bệnh cảnh lâm sàng là hội chứng thận hư, cũng có thể HCTH xuất
hiện sau protein niệu, HC niệu tiềm tàng không có triệu chứng lâm sàng đã
có trước đó. Biểu hiện của HCTH là: phù to, protein niệu > 3,5g/ngày,
protein máu < 60g/lít, albumin < 30g/lít, cholesterol tăng > 6,5 mmol/lít.
Hội chứng thận hư không đơn thuần mà thường kèm theo hồng cầu niệu,
tăng huyết áp, tăng urê máu, tăng creatinin, protein niệu không chọn lọc
Hội chứng thận hư đơn thuần do viêm cầu thận mạn ít gặp, nhưng không
hiếm gặp trong quá trình tiến triển của bệnh.Viêm cầu thận mạn tính biểu
hiện lâm sàng bằng hội chứng thận hư thường có tiên lượng xấu.
3. Chẩn đoán

Chẩn đoán viêm cầu thận mạn tính phải dựa vào 4 triệu chứng chủ yếu như
sau:
- Phù.
- Protein niệu.
- Hồng cầu niệu.
- Tăng huyết áp.
Có 2 triệu chứng bắt buộc là protein niệu và hồng cầu niệu. Khi chẩn đoán
viêm cầu thận mạn tính phải dựa vào điều kiện sau:
- Gặp ở người trưởng thành (trên, dưới 20 tuổi).
- Không rõ căn nguyên.
- Bệnh kéo dài trên 6 tháng.
- Tăng urê và creatinin.
Viêm cầu thận mạn tính thường có tiên lượng xấu, tiên lượng phụ thuộc vào
thời gian bị bệnh, có hay không có hội chứng thận hư, tình trạng THA, phụ
thuộc nguyên nhân của bệnh và các bệnh kết hợp. Suy thận mạn tính xuất
hiện sau 10-20 năm kể từ lúc bị bệnh.

×