Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Lợi thế cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới và giải pháp nâng cao lợi thế cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.89 KB, 14 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, vượt qua
đói nghèo và vươn lên thành một nước công nghiệp phát triển, hiện
đại hoá và công nghiệp hoá, trong nhiều năm qua Việt Nam đã và
đang đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hoá nhằm mang lại nhiều ngoại
tệ, làm giàu cho đất nước, thực hiện mục tiêu của mình. Đúc rút kinh
nghiệm từ các nước phát triển có công nghệ cao có lợi thế, tiềm năng
xuất khẩu lớn, từ một nước nông nghiệp nhưng thiếu gạo nay Việt
Nam đã có sản lượng gạo xuất khẩu đứng thứ hai trên thế giới, tôm
cá, cà phê, chè, hạt tiêu, máy tính…Việt nam ngoài lượng tiêu dùng
thích hợp trong nước, không còn cảnh kinh doanh bó hẹp mà đã có
chỗ đứng trang trọng trên thị trường thế giới cạnh tranh ngày một
gay gắt, trên các bang của nước Mỹ, trên sàn giao dịch London, Nhật
Bản, Pa-ri, Rotecdam…
Đứng trước một cơ hội vàng nhưng đầy thách thức như hiện nay, Việt
Nam có khả năng sớm gia nhập Tổ chức WTO, thì việc hàng Việt
Nam càng phải vươn ra xa hơn nữa trên thị trường thế giới, càng
phải có chất lượng cao hơn, càng phải mang tính cạnh tranh nhiều
hơn trong xu thế hội nhập này.
Vì vậy, đâu là lợi thế cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Việt nam trên thế
giới và làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng Việt
nam. Đó là một câu hỏi lớn. Chính vì vậy em đã mạnh dạn chọn đề
tài : “ Lợi thế cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam trên thị
trường thế giới và giải pháp nâng cao lợi thế cạnh tranh”.
Do tầm hiểu biết còn hạn chế nên bài tiểu luận của em sẽ không tránh khỏi
những sai sót, vì thế em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để bài
tiểu luận của em được hoàn chỉnh hơn nữa.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô.
PHẦN NỘI DUNG
I. LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU VIỆT NAM


TRÊN THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI
1. Khái quát chung về việc xuất khẩu hàng hoá của Việt nam trong
những năm gần đây ( 2000-2006 )
1.1. Số lượng và tính đa dạng của hàng xuất khẩu Việt Nam
Trong những năm gần đây, hàng hoá xuất khẩu của Việt nam sang các
nước ngày càng tăng về số lượng, chủng loại và chất lượng, trong đó sản
lượng xuất khẩu hạt tiêu đứng đầu thế giới, sản lượng gạo xuất khẩu luôn tăng
trưởng và giữ vững vị trí thứ hai với mức 5,2 triệu tấn năm 2005. Với lợi thế
ổn định của đất nước, giá thành sản xuất rẻ, giá nhân công thấp, chất lượng
hàng hoá ngày một nâng cao nên gạo xuất khẩu đã thu được 1,4 tỷ USD năm
2005 .

Gạo xuất khẩu Đơn vị 2001 2002 2003 2004 2005
Sản lượng 1.000 tấn 3.729 3.241 3.613 4.060 5.204
Giá xuất khẩu USD/ tấn 168 224 189 234 269
Nguồn: Báo Điện tử - Thời báo Kinh tế Việt nam (23/5/2006)
Ngoài sản lượng gạo xuất khẩu cao, các mặt hàng khác cũng có sản
lượng xuất khẩu đáng kể trên thị trường thế giới trong đó phải kể đến hàng
dệt may, giày dép với vốn đầu tư thấp, sử dụng lực lượng nhân công dồi dào
hay hàng thuỷ sản, cà phê tận dụng được diện tích sông hồ, kênh rạch miền
Nam, sản phẩm phụ của nhà máy xay xát gạo xuất khẩu, đất đỏ bazan của
vùng Tây Nguyên mà không mấy đất nước trên thế giới có được cũng như
nguồn tài nguyên xuất khẩu quý giá khai thác trên biển và từ trong lòng đất
như than đá, dầu thô và đặc biệt sản phẩm công nghiệp như máy tính, hàng
thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ là những mặt hàng chứng tỏ sự phát triển của
công nghiệp Việt nam. Sự khởi sắc của công nghệ cao đồng thời nói lên tính
đa dạng của hàng hoá xuất khẩu, chúng không chỉ bó hẹp trong các mặt hàng
nông thủy sản và khoáng sản truyền thống …
THỐNG KÊ XUẤT KHẨU NĂM 2003
Cộng cả năm 2003 So với năm 2002 ( % )

Lượng
( nghìn tấn )
Trị giá
( triệu USD )
Lượng Trị giá
TỔNG TRỊ GIÁ
19.880 119,0
Dầu thô 17.169 3.777 101,7 115,5
Dệt may 3.630 131,9
Thuỷ sản 2.217 109,6
Giày dép 2.225 119,2
Điện tử, máy tính 686 139,4
Gạo 3.820 719 117,9 99,1
Cà phê 700 473 97,4 146,7
Thủ công, mỹ
nghệ
367 110,8
Cao su 438 383 97,7 143,1
Hạt tiêu 74,4 104,0 97,1 97,0
Than đá 7.049 180 116,5 115,4
Sản phẩm gỗ 563 129,2
Chè 60 59,5 80,1 72,1
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Báo Điện tử - Thời báo Kinh tế Việt nam (13/1/2004)
Điểm lại các thông tin gần đây, ta thấy trong “ Sổ tay” điều hành xuất khẩu
của mình, Bộ Thương mại xếp thuỷ sản và cà phê xuất khẩu có tốc độ tăng
trưởng ổn định, dự kiến năm 2006 sẽ mang về 3,55 tỷ USD kim ngạch xuất
khẩu, trong đó thủy sản đạt 2,8 tỷ USD, tăng 5,66 % và cà phê đạt 750 triệu
USD, tăng 10 % so với năm 2005. Đồng thời, nghề nuôi trồng thuỷ sản,
nhất là hải sản, đã có sự bứt phá ngoạn mục, năm 2005, sản lượng nuôi trồng
thuỷ sản chiếm gần 27% sản lượng (1,437/5,432 triệu tấn); giá trị kim ngạch

xuất khẩu đã vượt qua khai thác, chiếm gần 60 % tổng kim ngạch xuất khẩu. (
Theo Người lao động - VNECONOMY cập nhật 13/2/2006 & 21/4/2006 )
1.2. Thị trường xuất khẩu rộng lớn, sự vượt trội về xuất khẩu
Ngoài lợi thế về số lượng, chủng loại, hàng hoá Việt nam còn được xuất
khẩu sang nhiều thị trường trên toàn thế giới, chẳng hạn kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may đạt 1,36 tỷ USD trong 3 tháng đầu năm 2006 sang các thị
trường xuất khẩu lớn của Việt Nam với mức tăng trưởng khá như Hoa Kỳ,
EU, Nhật Bản. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp đã bắt đầu khai thác thành
công thị trường mới đầy tiềm năng châu Phi với hơn 800 triệu dân (
VNECONOMY cập nhật 04/04/2006 & 09/05/2006 ).
Gạo Việt Nam giành được các thị trường truyền thống của Thái Lan, vượt
qua 3 đối thủ là Thái Lan, Mỹ và Trung Quốc, giành hợp đồng xuất khẩu
440.000 tấn gạo sang Philippin vốn là thị trường truyền thống của Thái Lan
và dự kiến Việt Nam sẽ xuất khẩu sang Philippin khoảng 782.500 gạo trong
năm 2006.
Kể từ đầu năm đến nay, Việt Nam đã xuất khẩu được 3 triệu tấn gạo sang
các thị trường như Singapo, Malaixia, Inđônêxia và Nhật Bản. Tương lai, gạo
Việt nam có thể với tới những thị trường tiềm năng như Trung Đông, Châu
Phi và Mỹ Latinh .
Hàng xuất khẩu của Việt nam tăng trưởng cao được thể hiện ở nhiều mặt,
đó là qui mô xuất khẩu khá cao, 4 tháng đầu năm 2006 đạt 12.110 triệu USD,
tăng rất cao so với cùng kỳ năm trước, cao gấp trên ba lần tốc độ tăng của
GDP, tăng trưởng ở nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. Dệt may tăng 487
triệu USD, dầu thô tăng 355 triệu USD, giày dép tăng 188 triệu USD, thuỷ
sản tăng 155 triệu USD…
Hàng dệt may tăng 38,7 %, trong đó xuất khẩu sang Mỹ tăng 41,8 %,
sang Anh tăng 97,4 %, sang Nhật Bản tăng 3,7 %… Hàng cao su tăng rất cao,
trong đó xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm tới 70,8 % lượng xuất khẩu và
xuất khẩu năm 2006 hướng đến mục tiêu 38,4 tỷ USD, tăng 18,5% so với mức
thực hiện năm 2005.

Cho nên, theo đánh giá của Hiệp hội Cao su Thế giới, Việt Nam hiện
đứng thứ 6 về sản xuất và đứng thứ 4 về xuất khẩu cao su trên thế giới, sau
Thái Lan, Inđônêxia và Malaixia với tổng diện tích cây cao su 450.000 ha và
tổng sản lượng khai thác chế biến đạt 400.000 tấn/năm, trong đó trên 80% sản
lượng dùng để xuất khẩu, ( VNECONOMY cập nhật 01/03 & 03/05/2006, 21/11/2004 ) và
hàng hoá xuất khẩu của Việt nam vào các nước ASEAN năm 2004 đạt 14,3 %
tổng số lượng hàng hoá xuất khẩu của Việt nam trên thị trường thế giới được
thể hiện ở trị giá hàng xuất khẩu vào mỗi nước trong bảng sau :
2004 xuất sang Triệu USD
Singapor 1.370
Malaixia 601,6
Philippin 498,6
Thailan 491
Inđônêxia 446,6
Cămpuchia 384,6
Lào 68,5
Myan ma 14,1
2. Lợi thế cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam
Thông thường các nước đều phát huy lợi thế cạnh tranh tuỳ thuộc vào
hoàn cảnh địa lý, nhân công, tiềm năng khoáng sản, công nghệ … của mình.
Các nước công nghiệp phát triển, do nguồn tài nguyên hạn chế, tận dụng nền
công nghệ cao nên tăng cường lợi thế xuất khấu máy móc thiết bị như Nhật
Bản, Đức, Anh, Pháp…trong khi các nước có nguồn tài nguyên dồi dào phát
huy lợi thế xuất khẩu dầu mỏ, khoáng sản như các nước Ả rập và châu Mỹ
Latinh hoặc nông sản thực phẩm, gạo, chè, chuối như Bra zin, Ấn Độ, Thái
Lan, Việt Nam…Do vậy, tăng cường xuất khẩu, phát huy lợi thế cạnh tranh
của các mặt hàng nêu trên của Việt nam là hoàn toàn đúng hướng và mang về

×