Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Tìm hiểu các chế tài trong thương mại theo quy định luật thương mại 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.76 KB, 48 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Pháp luật về hợp đồng thương mại ở nước ta có q trình phát triển qua
từng giai đoạn, phù hợp với hồn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội. Trong đó
một trong những mốc lịch sử quan trọng là Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng năm 1986, đại hội đã thành công và thổi một làn gió mới
vào tư duy kinh tế của chúng ta bằng việc đề ra công cuộc đổi mới nền kinh
tế. Đảng chủ trương xóa bỏ cơ chế quản lí kinh tế quan liêu bao cấp cũ, xây
dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường với sự quản lí của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó
hàng loạt các văn bản pháp luật mới được ra đời điều chỉnh lĩnh vực hợp
đồng thương mại.
Hiện nay, khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là
sau khi gia nhập WTO, các quan hệ kinh tế ngày càng pháp triển mạnh mẽ.
Cùng với tiến trình phát triển đó, một nền kinh tế thị trường mới đã được mở
ra dựa trên sự thiết lập nền tảng pháp lí quyền tự do kinh doanh trong quan
hệ thương mại và phương thức hình thành chủ yếu là thơng qua các quan hệ
hợp đồng. Các quan hệ hợp đồng trong thương mại cũng vì lẽ đó mà trở nên
đa dạng và phức tạp hơn. Mặt trái của nó là các vi phạm hợp đồng cũng diễn
ra nhiều và ngày càng phổ biến hơn. Để giúp đảm bảo cam kết giữa các bên
được thực hiện, hoặc đền bù lại những tổn thất đã gây ra cho bên bị thiệt hại
do hành vi của bên vi phạm hợp đồng. Qua đó nhằm giáo dục các bên tham
gia hợp đồng tuân thủ pháp luật và nghĩa vụ phải thực hiện theo thỏa thuận
nhằm đảm bảo hợp tác bình đẳng, pháp luật về chế tài trong thương mại ra
đời và ngày càng hoàn thiện hơn. Với việc ban hành Bộ luật dân sự 2005,
Luật thương mại 2005, hệ thống pháp luật về chế tài trong thương mại tương
đối đầy đủ, thống nhất nhưng vẫn còn những hạn chế gây ảnh hưởng tới việc
1


áp dụng chế tài trong thương mại. Với mong muốn tìm hiểu vấn đề này, em
đã lựa chọn đề tài “Tìm hiểu các chế tài trong thương mại theo quy định


Luật thương mại 2005” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Ngồi lời mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận có kết cấu gồm hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận cơ bản về chế tài trong thương mại.
Chương 2: Các chế tài trong thương mại theo quy định của Luật thương
mại năm 2005 và một số kiến nghị.
Khóa luận tốt nghiệp của em chắc chắn vẫn không thể tránh khỏi
những sơ xuất và thiếu sót trong q trình thực hiện. Kính mong nhận được
những đánh giá và nhận xét của các thầy cơ để giúp em hồn thiện đề tài
được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

2


Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
CHẾ TÀI TRONG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm và đặc điểm của chế tài trong thương mại
1.1.1. Khái niệm chế tài trong thương mại
* Theo nghĩa rộng
Theo nghĩa rộng, chế tài trong thương mại được hiểu là hình thức chế tài
được cơ quan nhà nước hoặc bên có quyền lợi bị vi phạm áp dụng đối với mọi tổ
chức cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật thương mại. Khi có hành vi vi phạm
pháp luật trong thương mại thì cơ quan nhà nước hoặc bên có quyền lợi bị vi
phạm sẽ có quyền áp dụng trách nhiệm pháp lí đối với các chủ thể vi phạm. Phân
tích các đặc điểm của chế tài theo cách hiểu này thì phạm vi của nó là rất rộng.
Các đặc trưng cơ bản của chế tài theo cách hiểu này là:
+ Về phạm vi áp dụng: Theo tinh thần chung của Luật thương mại 2005: mọi
hành vi vi phạm pháp luật thương mại đều bị phát hiện kịp thời và xử lí nghiêm

minh. Tất cả các hành vi vi phạm pháp luật trong thương mại đều thuộc phạm vi
áp dụng chế tài. Các hành vi vi phạm pháp luật thương mại không chỉ bao gồm
những hành vi vi phạm chế độ quản lí nhà nước trong lĩnh vực thương mại, xâm
phạm trật tự quản lí thương mại của nhà nước, mà cịn gồm các hành vi vi phạm
xảy ra trong quá trình thương nhân kí kết và thực hiện hợp đồng.
+ Chủ thể có quyền ra quyết định áp dụng chế tài: Theo từng hành vi vi
phạm mà chủ thể áp dụng chế tài trong thương mại có thể là cơ quan nhà nước có
thẩm quyền (ví dụ Cơ quan quản lí thị trường, Cơng an kinh tế, Tịa án…) hay
chính bên bị vi phạm cam kết trong hợp đồng giữa các chủ thể.

3


+ Về đối tượng bị áp dụng chế tài trong thương mại: Đối tượng bị áp dụng
chế tài trong thương mại chủ yếu là thương nhân có hành vi vi phạm pháp luật
trong thương mại. Đó là các chủ thể thường xuyên được thực hiện các hành vi
thương mại, là đối tượng áp dụng của luật thương mại nên phải chịu chế tài trong
thương mại khi có các hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, chế tài cũng áp
dụng đối với một số chủ thể không phải là thương nhân, ví dụ như chủ thể thực
hiện hành vi kinh doanh trái phép.
+ Về hình thức chế tài: Tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi vi
phạm pháp luật trong thương mại mà có thể áp dụng các hình thức chế tài là các
chế tài hành chính, chế tài hình sự và các chế tài mang tính chất dân sự (hay chế
tài hợp đồng).
+ Về mục đích áp dụng chế tài trong thương mại: Căn cứ vào hình thức chế
tài được áp dụng đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật trong thương
mại, việc áp dụng các chế tài đó nhằm đảm bảo các mục đích sau:
(a) Đối với các hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm trật tự quản lí hoạt
động thương mại của nhà nước (ví dụ bn lậu, trốn thuế…) thì cơ quan nhà nước
có thẩm quyền áp dụng chế tài hành chính hoặc chế tài hình sự, nhằm đảm bảo

tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội và của chính
người tiêu dùng;
(b) Đối với các hành vi vi phạm chế độ hợp đồng, chế tài nhằm bảo đảm kỉ
luật hơp đồng, ngăn ngừa mọi vi phạm hợp đồng và trừng phạt bên bị vi phạm.
Tóm lại, theo cách hiểu này chỉ cần chủ thể tham gia pháp luật thương mại
có hành vi vi phạm pháp luật thương mại là đều có căn cứ áp dụng chế tài. Như
vậy rất dễ dàng để truy cứu trách nhiệm đối với cá nhân, tổ chức tham gia pháp
luật thương mại. Nhưng nhược điểm của nó là khi áp dụng chế tài, việc phân tích,
tìm hiểu hành vi vi phạm thì rất khó tìm quy phạm điều chỉnh và áp dụng các
hình thức chế tài cụ thể vì pháp luật quy định rất rộng, rải rác trên nhiều văn bản
4


khác nhau. Để tìm hiểu kĩ hơn về chế tài trong thương mại theo cách hiểu này cần
một cơng trình rất công phu, cần sự tham gia của nhiều người, và nghiên cứu trên
nhiều phương diện .Vì thế trong phạm vi khóa luận này chỉ phân tích nó trên
phạm vi hẹp hơn, đó là phân tích các chế tài áp dụng đối với các hành vi vi phạm
trong quan hệ hợp đồng.
* Theo nghĩa hẹp
Trong quan hệ giữa các thương nhân, pháp luật thương mại ra đời là cần
thiết để duy trì và bảo đảm sự bình đẳng cho các chủ thể tham gia quan hệ hợp
đồng. Khi một hợp đồng thương mại đã được giao kết hợp pháp và phát sinh hiệu
lực pháp luật thì các bên phải thực hiện các nghĩa vụ mà mình đã thỏa thuận trong
hợp đồng. Việc vi phạm các nghĩa vụ trong hợp đồng dẫn đến hậu quả bên vi
phạm phải chịu các hình thức trách nhiệm – chế tài. Đây là khái niệm chế tài hiểu
theo nghĩa hẹp, chế tài chỉ bao gồm các chế tài do vi phạm hợp đồng trong
thương mại mà bên bị vi phạm có quyền được lựa chọn áp dụng hoặc yêu cầu áp
dụng chế tài. Đó là các biện pháp tác động bất lợi về tài sản của bên có quyền lợi
bị vi phạm đối với chủ thể có hành vi vi phạm cam kết hợp đồng trong thương
mại. Nếu một bên có hành vi vi phạm hợp đồng thì phải gánh chịu những hậu quả

pháp lí (bất lợi) nhất định do hành vi vi phạm đó gây ra. Luật thương mại 2005
quy định các loại chế tài tại Điều 292 theo đó có các chế tài sau: (a) Buộc thực
hiện đúng hợp đồng; (b) Phạt vi phạm, (c) Bồi thường thiệt hại; (d) Tạm ngừng
thực hiện hợp đồng; (e) Đình chỉ hợp đồng; (f) Hủy bỏ hợp đồng; (g) Các biện
pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với quy định của pháp luật.
Về bản chất chế tài trong thương mại chính là các chế tài hợp đồng, được
quy định trong các quy phạm pháp luật thương mại bao gồm những hình thức xử
lí và hậu quả pháp lí áp dụng đối với bên có hành vi vi phạm trong q trình kí
kết, thực hiện hợp đồng trong thương mại. Để phù hợp với phạm vi nghiên cứu
5


của đề tài khóa luận, em tập trung nghiên cứu các chế tài trong thương mại theo
nghĩa hẹp, các chế tài theo quy định tại Điều 292 Luật thương mại 2005, làm rõ
quy định pháp luật về nội dung của từng loại chế tài, điều kiện, thủ tục áp dụng để
thấy được tầm quan trọng của chế tài trong quan hệ thương mại.
1.1.2. Đặc điểm của chế tài trong thương mại
Theo Điều 292 Luật thương mại 2005, chế tài trong thương mại được hiểu
theo nghĩa hẹp, đó là các biện pháp tác động bất lợi về tài sản của bên có quyền
lợi bị vi phạm đối với chủ thể có hành vi vi phạm cam kết hợp đồng trong thương
mại. Với cách hiểu này, chế tài trong thương mại có những đặc điểm sau:
+ Chế tài trong thương mại là các chế tài hợp đồng phát sinh khi có hành vi
vi phạm pháp luật về hợp đồng trong thương mại
Trong quan hệ hợp đồng, nếu một bên không thực hiện, thực hiện không
đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ của hợp đồng thì phải gánh chịu những hậu quả
bất lợi mang tính chất tài sản, căn cứ áp dụng là theo sự cam kết giữa các bên
hoặc theo quy định của pháp luật. Luật thương mại quy định 6 hình thức chế tài
áp dụng đối với bên vi phạm hợp đồng cụ thể là: (a) Buộc thực hiện đúng hợp
đồng; (b) Phạt vi phạm, (c) Bồi thường thiệt hại; (d) Tạm ngừng thực hiện hợp
đồng; (e) Đình chỉ hợp đồng; (f) Hủy bỏ hợp đồng.

+ Chế tài trong thương mại là những chế tài mang tính chất tài sản
Khi thương nhân thực hiện hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại, có
thể phải gánh chịu những hậu quả bất lợi mang tính vật chất. Do hợp đồng trong
thương mại được các bên kí kết chủ yếu là những hợp đồng mang tính chất đền
bù ngang giá, phản ánh mối quan hệ mang tính chất hàng hóa tiền tệ, nên việc áp
dụng các chế tài mang tính tài sản là tất yếu, trừ khi chính bản thân người bị vi
phạm trong cùng quan hệ hợp đồng không muốn áp dụng chế tài hợp đồng đối

6


với bên vi phạm. Hậu quả bất lợi mang tính chất tài sản thể hiện ở việc bên có
hành vi vi phạm phải nộp một khoản tiền phạt hợp đồng, nộp tiền bồi thường hợp
đồng hay những chi phí cần thiết để thực hiện đúng hợp đồng… Việc áp dụng chế
tài hủy hợp đồng cũng có thể làm phát sinh nghĩa vụ tài sản đối với các bên, đặc
biệt là bên có hành vi vi phạm.
+ Chủ thể lựa chọn và quyết định các hình thức chế tài chính là bên bị vi
phạm trong quan hệ hợp đồng
Những điều khoản các bên đã cam kết trong hợp đồng là điều khoản bắt
buộc phải được tuân thủ thực hiện, nếu không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng theo các cam kết được thỏa thuận trong hợp đồng thì chủ thể đó bị coi là có
hành vi vi phạm hợp đồng. Lúc này bên bị vi phạm có thể áp dụng một hoặc một
số chế tài theo cam kết trong hợp đồng hay theo quy định của pháp luật. Khi bên
bị vi phạm áp dụng các chế tài trong thương mại, nhưng bên vi phạm không thừa
nhận hành vi vi phạm hay không tuân thủ các biện pháp chế tài đưa ra thì bên bị
vi phạm có thể làm đơn khởi kiện yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Trong khn khổ quy định pháp luật, bên bị vi
phạm được toàn quyền quyết định việc yêu cầu bên vi phạm thực hiện một phần
hay tồn bộ trách nhiệm tài sản đối với mình. Ví dụ trong hợp đồng thỏa thuận sẽ
áp dụng đồng thời hai chế tài là phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, nhưng bên

bị vi phạm có thể chỉ áp dụng biện pháp bồi thường thiệt hại mà không áp dụng
phạt vi phạm. Tòa án và Trọng tài được bên bị vi phạm yêu cầu giải quyết tranh
chấp, phải tôn trong quyền tự định đoạt của bị đơn.
+ Mục đích áp dụng chế tài trong thương mại
Việc quy định các chế tài trong thương mại nhằm bảo vệ quyền lợi của chính
các bên trong quan hệ hợp đồng. Đảm bảo cam kết giữa các bên được thực hiện,
hoặc đền bù lại những tổn thất đã gây ra cho bên bị thiệt hại do hành vi của bên vi
7


phạm hợp đồng. Qua đó nhằm giáo dục các bên tham gia hợp đồng tuân thủ pháp
luật và nghĩa vụ phải thực hiện theo thỏa thuận nhằm đảm bảo hợp tác bình đẳng,
cùng có lợi. Luật thương mại 2005 quy định nhiều loại chế tài khác nhau và nhằm
đạt được các hiệu quả khác nhau nhưng khơng ngồi mục đích nhằm tạo ra mơi
trường pháp lí cơng bằng, thuận lợi để các thương nhân tham gia hoạt động kinh
doanh hiệu quả, thuận lợi vì mục tiêu phát triển xã hội.
1.2. Các loại chế tài trong thương mại
Việc vi phạm các nghĩa vụ trong hợp đồng trong thương mại dẫn đến hậu
quả bên vi phạm phải chịu các hình thức chế tài, các chế tài khi đó gọi là chế tài
hợp đồng. Nói cách khác, đó là chế tài được hiểu theo nghĩa hẹp, bao gồm các
chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại mà bên có quyền bị vi phạm được
lựa chọn áp dụng hoặc yêu cầu áp dụng do pháp luật quy định. Căn cứ pháp lí để
áp dụng chế tài hợp đồng đó là Luật thương mại 2005 (Từ Điều 292 – 316 Luật
thương mại 2005). Khi các chủ thể có hành vi vi phạm cam kết hợp đồng trong
thương mại, người bị vi phạm hoặc khi có yêu cầu của người bị vi phạm cơ quan
nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng các chế tài đối với họ. Theo quy định của
pháp luật hiện hành các chế tài trong thương mại bao gồm:
Buộc thực hiện đúng hợp đồng là hình thức chế tài, theo đó bên bị vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng mua bán phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của
bên bị vi phạm [5, tr.53]. Khoản 1 Điều 297 Luật thương mại 2005 quy định:

“Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực
hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện
và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh”. Mục đích của việc áp dụng chế tài
buộc thực hiện đúng hợp đồng nhằm đảm bảo thực hiện trên thực tế hợp đồng đã
kí kết. Trong nhiều trường hợp, các loại chế tài khác như bồi thường thiệt hại và
phạt vi phạm không thể thay thế lợi ích từ việc thực hiện hợp đồng đã kí kết của

8


các bên. Trừ trường hợp có thoả thuận khác, trong thời gian áp dụng chế tài buộc
thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
và phạt vi phạm nhưng không được áp dụng các chế tài khác. Việc áp dụng các
chế tài khác chỉ được thực hiện sau thời hạn cho phép thực hiện đúng hợp đồng.
Phạt vi phạm hợp đồng là hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng, theo đó
bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm hợp đồng một khoản tiền nhất
định do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận theo quy định hoặc do các
bên thỏa thuận trên cơ sở pháp luật [5, tr.55]. Điều 300 Luật thương mại 2005
quy định: “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một
khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các
trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này”. Mặc dù cũng
là chế tài tiền tệ giống như chế tài bồi thường thiệt hại nhưng phạt vi phạm có
chức năng hồn tồn khác. Nếu như chế tài bồi thường thiệt hại nhằm mục đích
chủ yếu là bù đắp thiệt hại vật chất cho người bị thiệt hại thì phạt vi phạm chủ
yếu nhằm răn đe, trừng phạt. Căn cứ duy nhất để bên bị vi phạm yêu cầu bên vi
phạm trả tiền phạt là do hành vi không thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện không
đúng hợp đồng. Yếu tố lỗi ở đây chỉ có ý nghĩa suy đốn. Tức là, bên vi phạm có
lỗi do việc khơng thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng hợp đồng. Bên vi phạm
chỉ cần chứng minh có sự vi phạm mà không cần phải chứng minh yếu tố lỗi.
Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều

vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng đều không được quá 8% giá trị
phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Tuy nhiên, đối với cùng một vi phạm hợp
đồng thì bên bị vi phạm chỉ được quyền lựa chọn áp dụng một trong hai chế tài là
phạt vi phạm hoặc bồi thường thiệt hại, nếu như các bên không có thỏa thuận
khác. Nói cách khác, việc áp dụng đồng thời hai loại chế tài này đối với một vi
phạm chỉ xảy ra trong trường hợp các bên đã có thỏa thuận trước trong hợp đồng.

9


Bồi thường thiệt hại là hình thức chế tài nhằm khơi phục bù đắp những lợi
ích vật chất bị mất của bên bị vi phạm hợp đồng trong kinh doanh [6, tr.65].
Khoản 1 Điều 302 Luật thương mại 2005 quy định: “Bồi thường thiệt hại là việc
bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho
bên bị vi phạm”. Việc bồi thường thiệt hại chỉ xảy ra khi có đầy đủ 4 yếu tố sau:
(a) có hành vi vi phạm hợp đồng; (b) có thiệt hại thực tế; (c) hành vi vi phạm hợp
đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại; (d) có lỗi của bên vi phạm. Do
chức năng chủ yếu của chế tài này là bồi hoàn, bù đắp, khơi phục lợi ích vật chất,
bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại vật chất cho bên bị vi phạm.
Thiệt hại vật chất ở đây là giá trị tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra và
khoản lợi trực tiếp mà bên vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu khơng có hành vi vi
phạm hợp đồng. Mặc dù vậy, việc tính chính xác giá trị thiệt hại vật chất là việc
rất khó có thể đạt được trong mọi trường hợp do đặc điểm cụ thể của từng loại
hàng hóa dịch vụ. Tuy nhiên, các khoản thiệt hại địi bồi thường khơng thể cao
hơn giá trị tổn thất thực tế và khoản lợi đáng lẽ được hưởng.
Tạm ngừng thực hiện hợp đồng trong kinh doanh là hình thức chế tài, theo
đó một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong kinh doanh [6,
tr.66]. Điều 308 luật thương mại 2005 quy định:”Trừ các trường hợp miễn trách
nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc
một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các

trường hợp sau đây:
1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm
ngừng thực hiện hợp đồng;
2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”.
Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn có hiệu lực. Bên vi
phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với những tổn thất đã xảy ra do
hành vi vi phạm của bên kia.
10


Đình chỉ thực hiện hợp đồng là hình thức chế tài, theo đó một bên chấm dứt
thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng trong kinh doanh [6, tr.66]. Điều 310 Luật
thương mại 2005 quy định: “Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại
Điều 294 của Luật này, đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ
hợp đồng;
2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”.
Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt hiệu lực từ thời
điểm một bên nhận được thơng báo đình chỉ. Các bên khơng phải tiếp tục thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên thực hiện nghĩa vụ có quyền u cầu bên kia thanh
tốn hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng.
Huỷ bỏ hợp đồng là hình thức chế tài, theo đó một bên chấm dứt thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng và làm cho hợp đồng khơng có hiệu lực từ thời điểm giao kết
[6, tr.67]. Điều 312 Luật thương mại quy định:
“1. Huỷ bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần
hợp đồng.
2. Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả
các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng.
3. Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ

hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực.
4. Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này,
chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau đây:
a) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ
hợp đồng;
b) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.”

11


Khi một hợp đồng bị hủy bỏ toàn bộ, hợp đồng được coi là khơng có hiệu
lực từ thời điểm giao kết. Các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã
thỏa thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi hủy
bỏ hợp đồng và về giả quyết tranh chấp. Các bên có quyền địi lại các lợi ích do
việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có
nghĩa vụ hồn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp
không thể hồn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hồn trả
bằng tiền.
Ngồi ra cịn có các chế tài khác do các bên thoả thuận không trái với
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế.
1.3. Căn cứ áp dụng chế tài trong thương mại
Căn cứ áp dụng chế tài trong thương mại là các điều kiện cần và đủ để bên
có quyền lợi bị vi phạm áp dụng các biện pháp chế tài theo thỏa thuận hoặc theo
quy định của pháp luật đối với bên vi phạm hợp đồng. Cũng như nhiều loại chế
tài pháp lí khác, việc áp dụng các chế tài trong thương mại với tư cách là một chế
tài hợp đồng cần phải xét tới các yếu tố sau:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại;
- Có thiệt hại vật chất xảy ra trong thực tế;
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại vật chất đã xảy

ra trong thực tế;
- Có lỗi của bên vi phạm hợp đồng.
1.3.1. Có hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại
Trong quan hệ hợp đồng, hành vi vi phạm hợp đồng là hành vi của một bên
trong quan hệ hợp đồng đã làm trái những gì mà pháp luật quy định hoặc trái với
12


nội dung các bên đã thỏa thuận. Đó có thể là hành vi không thực hiện, thực hiện
không đúng hay khơng đầy đủ một phần hoặc tồn bộ những cam kết phát sinh
trong hợp đồng. Trong đó, các bên khơng chỉ phải thực hiện những nghĩa vụ thỏa
thuận trong hợp đồng (ghi vào các điều khoản trong hợp đồng), mà phải thực hiện
các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
Cơ sở pháp lí để đánh giá tính trái pháp luật của hành vi vi phạm, chính là
những thỏa thuận được hình thành trong hợp đồng có hiệu lực ràng buộc đối với
họ và những quy định của pháp luật về hợp hợp đồng. Khi hợp đồng được hình
thành, nghĩa vụ của hợp đồng phải được các bên nghiêm chỉnh thực hiện, trừ
trường hợp các bên thỏa thuận với nhau về việc thay đổi, đình chỉ hoặc hủy bỏ
hợp đồng. Việc các bên trong quan hệ hợp đồng đã cùng nhau thỏa thuận về các
điều khoản chủ yếu của hợp đồng như: đối tượng, số lượng, chất lượng, giá cả,
phương thức thanh toán, địa điểm và thời hạn giao nhận hàng hóa hoặc cơng việc
cũng như nội dung khác trong hợp đồng, được xem là căn cứ đánh giá có hay
không vi phạm trong hợp đồng.
Trong thực tiễn hoạt động thương mại, các loại hành vi vi phạm thường gặp
bao gồm:
+ Hành vi thực hiện không đúng điều khoản về số lượng, thời hạn giao nhận
hàng hóa, dịch vụ (giao hàng thiếu, giao hàng chậm, từ chối không chịu tiếp nhận
sản phẩm hàng hóa từ hợp đồng…);
+ Khơng thực hiện đúng điều khoản về chất lượng hàng hóa, dịch vụ, địa
điểm giao nhận hàng hóa, dịch vụ…;

+ Khơng thực hiện đúng điều khoản về giá cả, thanh tốn…
Tuy nhiên, khơng phải bất cứ hành vi vi phạm nào cũng mang lại hậu quả
bất lợi đối với bên vi phạm. Trong một số trường hợp, hợp đồng không được thực

13


hiện hoặc thực hiện không đúng nhưng chủ thể thực hiện hành vi đó khơng bị áp
dụng các chế tài trong thương mại. Đó là khi nghĩa vụ hợp đơng khơng được thực
hiện hồn tồn do lỗi của bên có quyền hoặc do sự kiện bất khả kháng. Chính vì
vậy, để áp dụng chế tài trong thương mại, đặc biệt là để buộc bên vi phạm phải
thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, còn phải xét đến các yếu tố như lỗi, thiệt
hại thực tế…
1.3.2. Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra
Thiệt hại là sự mất mát hoặc giảm sút về lợi ích vật chất hoặc tinh thần được
pháp luật bảo vệ. Thiệt hại vật chất thực tế được hiểu là sự biến đổi theo chiều
hướng xấu trong tài sản của bên bị vi phạm thể hiện ở những tổn thất thực tế tính
được bằng tiền mà bên đó gánh chịu. Thiệt hại vật chất thực tế do vi phạm hợp
đồng mua bán gây ra là căn cứ bắt buộc phải có khi áp dụng chế tài bồi thường
thiệt hại. Đối với các hình thức chế tài thương mại khác, thiệt hại thực tế có thể
được coi là tình tiết xác định mức độ nặng nhẹ của chế tài được áp dụng.
Trong các quan hệ thương mại thiệt hại vật chất xảy ra có thể là:
+ Giá trị tài sản mất mát, hư hỏng;
+ Chi phí thực tế hợp lí để ngăn chặn và hạn chế tổn thất;
+ Lợi nhuận bị bỏ lỡ thể hiện ở phần chênh lệch giá bán (mua) hàng hóa
dịch vụ trên thực tế so với giá bán (mua) hàng hóa dịch vụ đó theo hợp đồng đã
kí kết…
Việc chậm thanh tốn tiền hàng, phí dịch vụ và các chi phí khác đều làm
phát sinh quyền đòi tiễn lãi chậm trả của bên bị vi phạm, trừ trường hợp các bên
có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.


14


Như vậy, theo quy định của Luật thương mại 2005, những thiệt hại phi vật
chất như tổn hại uy tín của thương nhân, uy tín, nhãn hiệu hàng hóa thương
phẩm… không thuộc nghĩa vụ bồi thường của bên vi phạm.
1.3.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại
thực tế
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế
được xác định khi hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế có mối quan hệ
nội tại, tất yếu. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt
hại. Tuy nhiên, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và
thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Do đó cần phải xem xét,
phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan
và toàn diện. Từ đó mới có thể rút ra được kết luận chính xác về nguyên nhân,
xác định đúng trách nhiệm của người gây thiệt hại. Điều này đòi hỏi bên vi phạm
phải dựa trên những chứng cứ rõ ràng, xác thực và hợp pháp.
1.3.4. Có lỗi của bên vi phạm
Khái niệm lỗi là khái niệm thuộc về yếu tố chủ quan, thể hiện thái độ của
chủ thể đối với hành vi xử sự của mình. Trong khoa học pháp lí, lỗi được hiểu là
trạng thái tâm lí của chủ thể đối với hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra. Như
vậy, việc xác định có lỗi hay khơng có lỗi chỉ được đặt ra khi một chủ thể nào đó
thực hiện hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.
Tuy nhiên, không phải mọi chủ thể thực hiện hành vi vi phạm đều là bị coi là có
lỗi bởi vì vấn đề này cịn phụ thuộc vào những điều kiện, hồn cảnh khách quan
và sự nhận thức của chủ thể hành vi chẳng hạn… Vì vậy, một hành vi được coi là
có lỗi khi người đó lựa chọn và quyết định thực hiện hành vi trong khi có đủ điều
kiện và hồn cảnh khách quan có thể lựa chọn cách xử sự khác theo yêu cầu và
đòi hỏi của pháp luật cũng như của các chủ thể khác.

15


Lỗi trong vi phạm nghĩa vụ dân sự nói chung và trong vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng thương mại là lỗi suy đoán bởi hành vi của bên vi phạm là hành vi trái pháp
luật hoặc trái với cam kết hợp đồng nên người thực hiện hành vi bị suy đốn là có
lỗi và họ sẽ chịu hồn tồn trách nhiệm về hành vi đó. Do vậy, để bên bị vi phạm
áp dụng chế tài với bên vi phạm, nghĩa vụ chứng minh có lỗi hay khơng có lỗi
thuộc về các bên bị vi phạm.
1.4. Vai trò của chế tài trong thương mại
Chế tài trong thương mại là điều kiện cần thiết đảm bảo cho những cam kết
của các bên được thực hiện, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường khi mà các yếu
tố cạnh tranh luôn là động lực cho sự phát triển của chính các thương nhân.
Thương nhân có quyền tự do kinh doanh những gì pháp luật khơng cấm, tự mình
quyết định kinh doanh cái gì, kinh doanh cùng với ai và kinh doanh như thế nào.
Hợp đồng là công cụ để thương nhân tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh
và là cơ sở pháp lí để áp dụng chế tài trong thương mại đối với bên vi phạm.
1.4.1. Nâng cao ý thức kỉ luật trong việc thực hiện hợp đồng trong thương mại
Kỉ luật hợp đồng đòi hỏi các bên nghiêm chỉnh chấp hành đầy đủ các quy
định của pháp luật về hợp đồng cũng như tự nguyện thi hành các cam kết trong
hợp đồng mà các bên đã xây dựng. Hiện nay, trong cơ chế thị trường, việc kí kết
hợp đồng là quyền của các chủ thể, pháp luật tạo ra hành lang pháp lí thơng
thống cho các bên trong q trình tự do kinh doanh, tự do hợp đồng. Khi các chủ
thể tự nguyện kí kết hợp đồng thì các cam kết lại là cơ sở để ràng buộc các bên
với nhau. Mặc dù, có thể một bên biết rằng việc tiếp tục thực hiện hợp đồng là
đem lại hậu quả bất lợi cho mình, nhưng nếu khơng thực hiện nghĩa vụ, bên bị vi
phạm có quyền tự bảo vệ quyền lợi bằng cách áp dụng các chế tài hợp đồng, buộc
bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về tài sản do các hành vi vi
phạm đã gây ra. Điều đó khẳng định, chế tài hợp đồng có vai trị trong việc hình


16


thành và củng cố thái độ tích cực của các bên đối với nghĩa vụ phát sinh từ quan
hệ hợp đồng.
1.4.2. Đảm bảo quyền tự do hợp đồng
Tự do hợp đồng theo pháp luật hiện hành được hiểu rất rộng đó là thương
nhân được tự do lựa chọn đối tác, tự do lựa chọn hình thức hợp đồng, tự nguyện
quyết định việc giao kết hợp đồng, tự do xác định nội dung cụ thể của hợp đồng
trên cơ sở pháp luật quy định, tự do sửa đổi, bổ sung hay chấm dứt hợp đồng.
Song việc sửa đổi, bổ sung hay chấm dứt việc thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ
hợp đồng nếu khơng xuất phát từ ý chí thỏa thuận của các bên, lúc này nghĩa vụ
được hình thành trong hợp đồng là điều kiện ràng buộc các bên trong quan hệ hợp
đồng với nhau. Mọi hành vi không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không
đầy đủ cam kết đều có thể có nguy cơ bị áp dụng các chế tài hợp đồng.
Thực tế, mục đích của hoạt động kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận tối đa.
Thơng qua hoạt đông kinh doanh con người muốn làm tăng thêm giá trị vật chất
cho xã hội, mà trước hết là cho nhà kinh doanh. Nếu khơng có các biện pháp cần
thiết thì quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng ln ln có nguy cơ bị chèn ép
hoặc cạnh tranh khơng lành mạnh. Chính vì thế, việc áp dụng các chế tài hợp
đồng như: (a) Buộc thực hiện đúng hợp đồng; (b) Phạt vi phạm, (c) Bồi thường
thiệt hại; (d) Tạm ngừng thực hiện hợp đồng; (e) Đình chỉ hợp đồng; (f) Hủy bỏ
hợp đồng; (g) Các biện pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với quy định
của pháp luật là những biện pháp hữu hiệu đảm bảo tính khả thi cho quyền tự do
hợp đồng.
1.4.3. Bảo vệ lợi ích của các bên trong quan hệ hợp đồng
Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước, lợi nhuận mà các
thương nhân có được phải là lợi ích kinh tế hợp pháp, được nhận từ việc thực
hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của hợp đồng. Nhưng do mục đích này thương nhân


17


có thể có nhiều hành vi vi phạm khác nhau dẫn đến việc không thực hiện, thực
hiện không đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng làm ảnh hưởng trực tiếp
tới lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm, thậm chí có thể làm phát sinh nghĩa vụ
về tài sản của bên bị vi phạm với bên thứ ba. Hành vi vi phạm hợp đồng luôn
tiềm ẩn nguy cơ xâm hại lợi ích của bên bị vi phạm (làm mất mát, hư hỏng hàng
hóa, giảm sút thu nhập, lợi nhuận…). Để bảo vệ lợi ích của bên bị vi phạm, bên
bị vi phạm có thể tự mình hoặc yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các
hình thức chế tài đối với bên vi phạm (buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi
phạm, bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ hợp đồng,
hủy bỏ hợp đồng). Không chỉ như vậy, chế tài trong thương mại cũng bảo vệ
quyền lợi của bên vi phạm, việc quy định rõ trong luật các trường hợp miễn trách
nhiệm, các căn cứ, thủ tục áp dụng, mức phạt… cũng bảo đảm bên vi phạm chỉ
phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình đúng theo mức độ vi phạm, bảo vệ bên
vi phạm trong các hiện tượng tiêu cực khi xử lí vi phạm, điều đó giúp các bên có
thể thực hiện hợp đồng yên tâm hơn.
1.4.4. Phòng ngừa vi phạm pháp luật hợp đồng
Luật thương mại cho phép áp dụng chế tài hợp đồng đối với tất cả hành vi vi
phạm hợp đồng trong thương mại, kể cả trường hợp các bên không thỏa thuận
nhưng chế tài hợp đồng vẫn có thể được áp dụng theo quy định của pháp luật,
ngoại trừ trường hợp bên bị vi phạm từ chối không áp dụng chế tài hợp đồng đối
với bên bị vi phạm hay rơi vào trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định của
pháp luật. Như vậy, trong trường hợp một bên vi phạm hợp đồng, thì họ đều có
thể bị đe dọa gánh chịu những hậu quả bất lợi về tài sản. Nếu chưa có hành vi vi
phạm hợp đồng, việc quy định các chế tài trong thương mại mang tính “phịng
ngừa” các biểu hiện vi phạm pháp luật hợp đồng, nâng cao ý thức trách nhiệm và
thái độ tích cực hợp tác của các bên trong quan hệ hợp đồng. Trong quá trình thực


18


hiện hợp đồng, nếu phát sinh vi phạm hợp đồng, các chế tài hợp đồng được bên bị
vi phạm áp dụng nhằm bảo vệ lợi ích của mình. Đó có thể là các chế tài buộc thực
hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp
đồng, đình chỉ hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng để trừng phạt và bồi hoàn tổn thất do
hợp đồng bị vi phạm. Quy định về trách nhiệm hợp đồng có tác dụng rất mạnh
mẽ vào ý thức các bên, nâng cao tinh thần trách nhiệm hợp tác, thực hiện các
nghĩa vụ trong hợp đồng, khi nắm được các hành vi đó là vi phạm và phải chịu
chế tài thì sẽ khơng thực hiện, qua đó ngăn ngừa vi phạm xảy ra [5; tr.50].
Như vậy, việc quy định cụ thể các nguyên tắc và căn cứ áp dụng các chế tài
hợp đồng trong thương mại, Luật thườn mại 2005 đã khẳng định vai trị của mình
là rất quan trọng trong việc phòng ngừa mọi biểu hiện vi phạm pháp luật hợp
đồng. Ngồi ra góp phần giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc thực
hiện các điều khoản hợp đồng mà các bên đã thiết lập.
1.5. Tính hiệu quả của chế tài trong thương mại
Chế tài trong thương mại có nội dung chủ yếu là các quy định về căn cứ áp
dụng các trách nhiệm, các hình thức trách nhiệm và các trường hợp miễn trách
nhiệm. Trách nhiệm ở đây là trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mà đặc điểm cơ
bản là: được áp dụng trên cơ sở hành vi vi phạm hợp đồng có hiệu lực pháp luật;
nội dung gắn liền với việc thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc trách nhiệm
về tài sản; do các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền áp dụng hoặc do bên bị vi
phạm áp dụng trên cơ sở pháp luật.
Buộc thực hiện đúng hợp đồng là hình thức chế tài nhằm đảm bảo thực hiệm
hợp đồng đã kí kết giữa các bên, do lúc kí kết hợp đồng các bên đều xuất phát từ
mục đích lợi nhuận, chứ khơng phải lợi ích từ việc nộp phạt hay bồi thường của
bên đối tác. Áp dụng chế tài này giúp tránh việc kéo dài thời gian thực hiện hợp

19



đồng khơng ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế của họ mà khơng làm mất thiện trí hợp
tác giữa các bên trong hợp đồng.
Phạt vi phạm hợp đồng là chế tài tiền tệ, chế tài này nhằm trừng phạt, phòng
ngừa vi phạm hợp đồng giữa các bên, qua đó giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật
hợp đồng, củng cố kỉ luật hợp đồng, bảo đảm sự lành mạnh trong các quan hệ
kinh tế.
Bồi thường thiệt hại là hình thức chế tài dùng để bù đắp những thiệt hại vật
chất thực tế cho bên bị vi phạm. Do vậy, số tiền bồi thường đó phải sẽ đảm bảo
bồi hồn, bù đắp và khơi phục lợi ích vật chất bị thiệt hại cho bên có quyền lợi
khi hợp đồng được thực hiện đúng.
Tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng là chế tài nhằm trừng phạt và thái độ
nghiêm khắc của bên bị vi phạm với bên vi phạm trong quan hệ hợp đồng. Khi áp
dụng các chế tài này, bên bị vi phạm hợp đồng áp dụng chế tài bằng cách không
thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng được xem như là sự “tự vệ” của bên bị vi phạm
trước hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia. Khi áp dụng các chế tài này, sự bất
lợi mà bên vi phạm phải gánh chịu cơ bản thể hiện ở chỗ, bên vi phạm không
được đáp ứng các quyền theo thỏa thuận trong hợp đồng, do bên bị vi phạm
không phải thực hiện các nghĩa vụ tưng xứng. Mặt khác, bên bị vi phạm áp dụng
chế tài này vẫn có quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại theo quy định
của pháp luật.

20



×