Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Xã hội hoá là một nhu cầu tất yếu trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội, trong đó có lĩnh vực truyền hình.
Trong nhiều năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam luôn đạt ở mức cao. Theo báo cáo của Chính phủ về kết quả thực hiện
nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2007, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm
2008 tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khố 12, thì 9 tháng năm 2007, nền kinh tế
nước ta đạt mức tăng trưởng 8,25%. Đây là con số cao nhất trong 10 năm
qua.
Tuy nhiên, Nhà nước hiện vẫn đang phải gồng mình với những
khoản chi cho nền kinh tế. Các ngành dịch vụ công như y tế, giáo dục, văn
hố, thể thao… ln ở trong tình trạng q tải, nhu cầu chia sẻ bớt gánh
nặng của Nhà nước là ln có thực. Nếu chỉ trơng chờ vào nguồn ngân sách
thì kinh phí cho các hoạt động này ln ở trong tình trạng thiếu thốn.
Trong bối cảnh đó, xã hội hoá vừa là hướng đi, là biện pháp để
giảm gánh nặng cho Nhà nước, vừa khuyến khích các thành viên trong xã
hội tham gia vào các hoạt động mang lại lợi ích cho cộng đồng. Và ngược
lại trong xã hội cũng có rất nhiều đơn vị tổ chức cá nhân khơng chun về
lĩnh vực đó có khả năng tham gia vào hoạt động. Trong xu thế đó, Đài
Truyền hình Việt Nam và các Đài PT – TH địa phương cũng đang thực hiện
q trình xã hội hố và theo chiều hướng ngày càng mạnh mẽ.
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu tiếp nhận thông tin của
công chúng ngày càng cao, địi hỏi truyền hình phải khơng ngừng nâng
cao chất lượng nội dung và hình thức; đa dạng, phong phú về cách thức
thể hiện.
Xã hội càng phát triển, nhu cầu giao lưu, trao đổi, cung cấp và tiếp
nhận thông tin càng lớn. Có một thực tế là sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học cơng nghệ góp phần làm cho các hình thức truyền thơng trở nên phong
phú, nhanh nhạy và hiện đại, số lượng người tham gia vào các hoạt động
cung cấp, trao đổi và tiếp nhận thông tin đơng đảo. Trình độ dân trí cao làm
cho số lượng người tham gia vào các hoạt động truyền thông ngày càng
nhiều. Các phương tiện truyền thông hiện đại đã tạo điều kiện cho con người
không chỉ thụ động tiếp nhận thông tin, tiếp nhận một nguồn thông tin mà
cùng một lúc tiếp nhận nhiều nguồn thông tin, tham gia trực tiếp vào các
hoạt động truyền thông, cung cấp thông tin phản hồi, thể hiện quan điểm,
1
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
chính kiến của mình. Khơng chỉ các nhà báo, mà các thành viên trong xã hội
đều tham gia vào các hoạt động truyền thơng. Có thể nói, nhu cầu tham gia
của cộng đồng vào hoạt động truyền thông, đặc biệt trong lĩnh vực truyền
hình đã đến lúc chín muồi.
Các đài truyền hình, đặc biệt là các đài truyền hình địa phương
khơng thể chỉ dựa vào nguồn chi ngân sách để hoạt động sản xuất
chương trình hiệu quả.
Sản xuất chương trình truyền hình là một hoạt động tốn kém. Một
sản phẩm truyền hình là sự đầu tư tốn kém của các thiết bị máy móc cơng
nghệ hiện đại. Chính vì vậy, nguồn chi cho đầu tư kỹ thuật và nhân sự của
truyền hình là không nhỏ. Tuy nhiên, nguồn chi ngân sách cho các đài
truyền hình lại khơng phải là nhiều. Như vậy có nghĩa là nguồn kinh phí đầu
tư cho các đài truyền hình là khơng lớn, điều này cũng nằm trong sự phát
triển tất yếu khách quan, đòi hỏi các đài truyền hình phải khơng ngừng nỗ
lực tự phấn đấu. Việc thu hút các nguồn lực bên ngoài là một trong những
giải pháp giúp giảm bớt gánh nặng cho ngành truyền hình.
Xã hội hố truyền hình đã bước đầu đem lại những hiệu quả
rõ rệt.
Trước hết, các đài truyền hình đã giảm được gánh nặng cả về nhân
lực và cơ sở vật chất trong hoạt động sản xuất chương trình. Nhờ có sự hợp
tác với các đơn vị bên ngồi mà rất nhiều chương trình đã được sản xuất và
phát sóng mà khơng cần phải huy động kinh phí ngân sách của đài. Nhiều
chương trình phối hợp sản xuất với các đơn vị bên ngoài đã nhận được sự
đánh giá cao của dư luận nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Trên thế giới q trình xã hội hố truyền hình đã diễn ra từ trước
chúng ta hàng chục năm. Nhưng thuật ngữ xã hội hố truyền hình được sử
dụng ở nước ta nhiều hơn các nước khác. Do lịch sử hình thành và quan
niệm về quá trình này ở các nước khác với nước ta nên các cơng trình
nghiên cứu và các bài viết chủ yếu tập trung vào vấn đề “tư nhân hố” các
đài truyền hình và “truyền hình thương mại”.
ë Việt Nam đã bước đầu có những tài liệu nghiên cứu về vấn đề
này. Tại các cuộc Liên hoan truyền hình tồn quốc lần thứ 25 (ngày
05/01/2006 tại Nha Trang - Khánh Hoà) và lần thứ 26 (tổ chức ngày
11/01/2007 tại Thành phố Hồ Chí Minh) đã tổ chức các buổi hội thảo với
chủ đề chính là sản xuất chương trình truyền hình sẽ được xã hội hố như
2
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
thế nào, thu hút được rất nhiều các đài truyền hình trong cả nước và các đơn
vị, tổ chức ngoài ngành truyền hình tham gia. Bên cạnh đó cịn có các bài
viết, bài nghiên cứu của các nhà lý luận về báo chí nói riêng và truyền hình
nói chung về vấn đề này. Đó là các nghiên cứu về: Xu hướng phát triển của
truyền hình, nghiên cứu kinh tế báo chí, nghiên cứu về nguồn nhân lực cho
báo chí…
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích:
Đề tài nghiên cứu "Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
hiện nay" nhằm mục đích nghiên cứu những tiền đề, điều kiện hình thành
quá trình xã hội hố truyền hình; nghiên cứu những bước đi ban đầu trong
quá trình thực hiện, những xu hướng phát triển, khẳng định hiệu quả sáng
tạo những tác phẩm truyền hình đối với cơng chúng. Trên cơ sở đó, nâng
cao vai trị của báo chí nói chung và báo truyền hình nói riêng trong tiến
trình đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước.
Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích trên, trong phạm vi luận văn này tập trung
giải quyết một số nhiệm vụ chính sau đây: Nghiên cứu một số khái niệm cơ
bản làm công cụ nghiên cứu. Hệ thống một số tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước liên quan
đến vấn đề phát triển báo chí, sự tham gia của xã hội trong việc phát triển xã
hội hố truyền hình gắn với quá trình đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước. Xác
định các hoạt động sản xuất chương trình theo hướng xã hội hoá và cơ sở để
xã hội hoá truyền hình trong thực tiễn. Khảo sát, phân tích đánh giá những
chương trình truyền hình đã và đang được tạo nên bởi sự hợp tác của các
nguồn lực bên ngoài ngành truyền hình tại Đài PT - TH Hà Tây từ năm 2004
đến năm 2006, từ đó khẳng định những mặt tích cực, ưu điểm, những vướng
mắc cần giải quyết theo quan điểm xã hội hố truyền hình.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là các công trình nghiên cứu lý luận và tổng kết
thực tiễn về báo chí, truyền hình, các sản phẩm truyền hình được tạo nên bởi
việc huy động của nhiều nguồn lực bên ngồi có các yếu tố được xác định là
xã hội hố.
Phạm vi nghiên cứu là các chương trình truyền hình được sản xuất
theo hướng xã hội hoá của Đài PT - TH Hà Tây từ năm 2004 đến năm 2006.
3
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận:
Luận văn này đã vận dụng phương pháp luận Mác xít, với quan
điểm của Lênin. Theo Lªnin, tồ báo hoạt động sôi động khi mỗi nhà báo
chuyên nghiệp thiết lập được một mạng lưới cộng tác viên rộng rãi. Đây
cũng là nền tảng cho xã hội hố báo chí nói chung và xã hội hố truyền hình
nói riêng.
Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Minh, chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước Việt Nam là nền tảng tư tưởng cho việc xã hội hố
báo chí nói chung và xã hội hố truyền hình nói riêng. Trên thực tế, pháp
luật Việt Nam cũng khơng có điều khoản nào qui định chỉ có những người
thuộc biên chế đài truyền hình, các đơn vị trực thuộc đài truyền hình mới
được tham gia sản xuất chương trình truyền hình. Cũng khơng có điều luật
nào qui định những người không thuộc biên chế đài truyền hình, các đơn vị
khơng trực thuộc đài truyền hình khơng được tham gia sản xuất chương
trình truyền hình.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn tổng hợp những thông tin trên các phương tiện thông tin
đại chúng khác như báo in, Internet và những nhận xét, đánh giá trong quá
trình tìm hiểu của cá nhân kết hợp với các phuơng pháp phỏng vấn sâu
(Lãnh đạo Đài PT – TH Hà Tây, người chịu trách nhiệm về nội dung của
chương trình, Người tham gia tổ chức sản xuất chương trình), trong luận
văn này người viết cũng sẽ sử dụng các phương pháp quan sát, thống kê, so
sánh, phân tích, đánh giá, điều tra xã hội học và logic lịch sử.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
Luận văn nhằm hệ thống lại những quan điểm liên quan đến vấn đề
xã hội hố và xã hội hố truyền hình. Qua tổng kết thực tiễn, nêu vai trò, ý
nghĩa của xã hội hố truyền hình trong đời sống xã hội, trên cơ sở đó đưa ra
những nhận xét khoa học về xu hướng dẫn đến xã hội hố truyền hình trong
tương lai. Kết quả nghiên cứu đề tài này có thể nêu bổ sung một số vấn đề
về lý luận báo chí truyền hình. Kết quả nghiên cứu cũng có thể là cơ sở để
các đài truyền hình tham khảo nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của mình trong phát triển xã hội hố truyền hình, đặc biệt là Đài PT TH Hà Tây.
4
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
5
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu
tham khảo, Luận văn được bố cục làm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn việc xã hội hoá truyền hình
Chương 2: Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình hiện
nay
Chương 3: Một số phương hướng và giải phỏp xó hi hoỏ truyn
hỡnh.
CHNG 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn việc
xà hội hoá truyền hình
1.1 Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1. Mt s quan nim v xó hi hoá:
"Xã hội hoá" đã trở thành một từ được sử dụng rộng rãi, phổ biến
và thịnh hành trong xã hội hiện nay.
Vậy xã hội hố là gì?
Hiện nay cịn rất nhiều ý kiến tranh luận về cụm từ "xã hội hoá".
Mỗi người đưa ra quan điểm về xã hội hoá dưới góc nhìn của mình với các
đối tượng xã hội hoá khác nhau. Tuy nhiên, trong luận văn này, thừa nhận
cách hiểu:
Xã hội hoá là huy động nguồn lực của cả xã hội vào một lĩnh vực,
một hoạt động nào đó, mà trước kia chỉ có các đơn vị Nhà nước tham gia.
1.1.2 Xã hội hoá việc sản xuất chương trình truyền hình
Khái niệm “Xã hội hố truyền hình” có nội hàm q rộng và
hồn tồn có thể có những cách hiểu rất sai lệch đối với khái niệm đó. Trong
luận văn này, chỉ xin đề cập đến khái niệm Xã hội hố việc sản xuất các
chương trình truyền hình.
Xã hội hố việc sản xuất các chương trình truyền hình là tạo
những điều kiện tốt nhất để các tổ chức cá nhân có thể hợp tác bình đẳng với
các đài truyền hình để sản xuất chương trình truyền hình. Việc cạnh tranh
giữa các chương trình của các đài truyền hình với các đối tác không nằm
6
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
trong hệ thống truyền hình hiện nay sẽ góp phần tích cực và lành mạnh vào
việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của các chương trình.
1.2 Phát triển truyền hình, xã hội hố truyền hình trước hết
phải dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng lỗi lạc, nhà văn hóa
lớn và là một nhà báo vĩ đại. Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin để soi sáng những vấn đề của cách mạng Việt Nam trên mọi lĩnh vực
chính trị, kinh tế, xã hội, trong đó có hoạt động báo chí.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí thực sự đã trở thành kim chỉ
nam cho những người làm báo Việt Nam. Trong hướng đi chung của báo
chí, xã hội hố truyền hình là một hướng đi tất yếu. Việc vận dụng sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí sẽ là điều kiện tiên quyết để những người
làm truyền hình mạnh dạn và chủ động thực hiện lộ trình xã hội hố, nhằm
từng bước hoàn thiện và khẳng định một chủ truơng đúng đắn, đem lại hiệu
quả và lợi ích thiết thực cho cơng chúng. Ở Việt Nam, trong điều kiện xã hội
hoá truyền hình, các u cầu về tính tư tưởng phải đảm bảo đúng định
hướng tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí.
1.3 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về báo chí. Định
hướng phát triển báo chí trong thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất
nước.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với báo chí là: Báo chí Việt Nam
ln là tiếng nói của Đảng, là diễn đàn của nhân dân, hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật. Đảng luôn tạo điều kiện để báo chí phát triển nhanh, mạnh,
vững chắc, đúng định hướng, phát triển đi đôi với quản lý tốt. Tăng cường
tính chân thực khách quan, tính chiến đấu, tư tưởng, giáo dục, tính nhân văn.
Tư tưởng phải đi trước một bước trong việc phản ánh và dự báo những vấn
đề lớn của đất nước và thời đại. Phát triển tư tưởng phải đi đôi với an ninh
thông tin. Đây là những định hướng, là chỗ dựa căn bản để những người làm
truyền hình thực hiện thành cơng mục tiêu xã hội hố. Vì vậy, xã hội hố
truyền hình phải đảm bảo theo các tiêu chí này.
7
Xó hi hoỏ sn xut chng trỡnh truyn hỡnh
CHƯƠNG 2
XÃ hội hoá sản xuất chơng trình
truyền hình hiện nay
2.1 XÃ hội hoá truyền hình trong bi cnh v iu
kin hin nay.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế của công chúng về việc đáp ứng
thông tin cũng như khả năng tham gia vào việc thực hiện tác phẩm truyền
hình, xuất phát từ khả năng có thể tham gia sản xuất chương trình truyền
hình cộng với các yếu tố lợi nhuận của các đơn vị bên ngồi ngành truyền
hình và xuất phát từ nhu cầu hội nhập quốc tế, sự hình thành và phát triển xu
hướng xã hội hố truyền hình ở Việt Nam đã và đang trở thành một tất yếu
khách quan trong sự phát triển chung.
2.2 Đặc điểm xã hội hố truyền hình ở Đài PT – TH Hà Tây.
2.2.1 Sự phát triển của Đài PT – TH Hà Tây.
Được thành lập từ năm 1978, trong suốt gần 30 năm qua, Đài PT –
TH Hà Tây đã không ngừng phát triển, đáp ứng ngày càng cao nhiệm vụ
tuyên truyền các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước và nhu cầu của khán thính giả.
Hồ nhập với xu thế phát triển chung, Đài PT - TH Hà Tây luôn
nỗ lực đổi mới, nâng cao chất lượng các chương trình, đầu tư phát triển
nhiều chương trình phát thanh và truyền hình có chất lượng cao; tăng cường
đầu tư trang thiết bị kỹ thuật theo hướng hiện đại; chú trọng đầu tư đào tạo
và tuyển dụng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; khẩn trương hoàn thiện
và đưa vào khai thác Dự án Truyền hình Cáp, Dự án Trường quay tổng hợp.
Cơng tác xã hội hố truyền hình tiếp tục là hướng đi đúng đắn nhằm đưa sự
nghiệp Phát thanh - Truyền thanh - Truyền hình của tỉnh ngày càng phát
triển, phục vụ tốt hơn nhiệm vụ chính trị mà Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân tỉnh giao phó; làm tốt chức năng là cầu nối giữa Đảng với
nhân dân, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khán, thính giả trong và ngồi
tỉnh.
2.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến xã hội hố truyền hình ở
Đài PT - TH Hà Tây.
Xã hội hố truyền hình là xu hướng phát triển tất yếu trong thời
kỳ bùng nổ thông tin và hội nhập hiện nay. Đài PT – TH Hà Tây hiện nay có
diện phủ sóng lớn với khoảng 10 triệu khán giả, phát liên tục 18 tiếng/ngày.
8
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
Để đáp ứng nhu cầu thông tin của một lượng lớn khán giả và đảm bảo thời
gian phát sóng như vậy, địi hỏi Đài phải tăng cường phối hợp với các đối
tác bên ngồi ngành truyền hình để cùng hợp tác sản xuất các chương trình
phát sóng.
Bên cạnh đó, nguồn kinh phí đầu tư cho sản xuất chương trình ở
Đài có hạn. Chính vì thế, việc huy động các đơn vị cá nhân cùng tham gia
sản xuất chương trình sẽ góp phần làm giảm tải gánh nặng về chi phí sản
xuất cho Đài.
2.2.3 Đối tượng tham gia xã hội hố truyền hình ở Đài PT - TH
Hà Tây.
Đội ngũ cộng tác viên, đặc biệt là đội ngũ phóng viên các đài
truyền thanh huyện, thành phố.
Đội ngũ làm công tác tuyên truyền ở các sở, ban, ngành, đoàn thể
của tỉnh. Đây cũng là lực lượng được đào tạo có chun mơn.
Các cơng ty quảng cáo, công ty truyền thông như công ty quảng
cáo Sơng Xanh, cơng ty quảng cáo Lasta…
2.2.4 Các hình thức xã hội hố truyền hình ở Đài PT – TH Hà
Tây.
Đài truyền hình đặt hàng các chương trình với các đơn vị ngồi Đài.
Đơn vị ngồi Đài truyền hình thực hiện tồn bộ chương trình và phối hợp
với Đài để phát sóng.
Đài phối hợp trao đổi chương trình phát sóng với Đài Truyền hình
Việt Nam và các đài địa phương.
Các đơn vị ngồi Đài truyền hình tham gia vào một trong các khâu
của tổ chức sản xuất chương trình truyền hình, phối hợp với lực lượng nhân
lực, thiết bị kỹ thuật của Đài. Đơn vị bên ngồi có thể tham gia tìm nguồn
tài chính, tìm mẫu kịch bản, phối hợp ở một hay nhiều khâu sản xuất
chương trình.
Các đơn vị tham gia tài trợ cho việc sản xuất các chương trỡnh.
2.3
XÃ hội hoá truyền hình ở Đài PT - TH Hà
Tây.
2.3.1 XÃ hội hóa về nội dung.
Tớnh n thi im tháng 10/2007, Đài PT - TH Hà Tây có 19
chương trình được thực hiện dưới hình thức xã hội hố. Nếu chỉ tính riêng
9
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2006, thì Đài thực hiện khoảng 15 chương
trình, tập trung chủ yếu vào các chương trình sân chơi.
Có thể điểm qua nội dung một số chương trình:
Sân chơi Rồng vàng.
Rồng Vàng được Đài Truyền hình TP.Hồ Chí Minh mua bản
quyền từ trị chơi "Millionaire" của Công ty Katana - Công ty chuyên làm
hậu kỳ, dựng phim và bán quảng cáo truyền hình của Thái Lan. Chương
trình đầu tiên được phát sóng lúc 16h chủ nhật (25/5/2003) trên HTV7.
Không chỉ hấp dẫn khán giả TP.HCM và các tỉnh lân cận, Rồng
vàng cũng đã tiếp cận khán giả phía Bắc khi Đài PT – TH Hà Tây phát lại
chương trình vào lúc 15h30’ chủ nhật hàng tuần, bắt đầu từ năm 2004 đến
nay, phát lại 2 lần, mỗi lần 104 số, mỗi số có thời lượng 40’. Đài PT - TH
Hà Tây đã phối hợp với Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh thực hiện
trao đổi băng phát sóng chương trình này. Bản quyền chương trình thuộc về
Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh.
Sân chơi Nốt nhạc vui.
Nốt nhạc vui (Name That Tune) là một trong những trị chơi về
âm nhạc thành cơng trên thế giới của Sandy Frank Entertament (USA). Nốt
nhạc vui được mua bản quyền từ chương trình Name that tune nổi tiếng từ
năm 1952 của truyền hình Mỹ. Hình thức vẫn được giữ nguyên nhưng nội
dung đã được những người thực hiện chuyển hóa sang phong cách gần gũi
với cơng chúng Việt Nam. Các bài hát được chọn đều là ca khúc Việt Nam
và theo từng thời điểm. Chương trình được cấu tạo, thiết kế hiện đại, đặc
biệt có phần giao lưu trực tiếp với khán giả theo dõi tại trường quay với sự
tham gia của MC Thanh Bạch.
Chương trình được phát sóng lần đầu vào ngày 14/1/2004 và được
phát đều đặn lúc 21h ngày thứ 4 hàng tuần trên kênh HTV7 – Đài Truyền
hình Thành phố Hồ Chí Minh.
Sân chơi này được phát lại tại Đài PT – TH Hà Tây vào lúc 15h30’
các ngày thứ 3 hàng tuần, bắt đầu từ năm 2006, với 52 số, mỗi số có thời
lượng 40’.
Sân chơi Vượt lên chính mình.
Chương trình được mua bản quyền tại Thái Lan, Công ty cổ phần
Lasta, Ban Khoa giáo - Đài truyền hình TP.HCM cùng với Đài PT-TH Hà
Tây, Hải Phịng, Đà Nẵng, Khánh Hịa, Vĩnh Long thực hiện. MC ngồi trời
10
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
chính là nghệ sĩ Quyền Linh. MC trong phim trường khi phát sóng tại
TP.HCM là Phương Thảo. Cịn các chương trình phát sóng tại các địa
phương kể trên sẽ do MC của chính địa phương đó thực hiện.
Sân chơi này được phát ở Đài PT - TH Hà Tây vào lúc 20h20’ thứ
6 hàng tuần, bắt đầu từ năm 2006 với 52 số, mỗi số có thời lượng 30 phút,
trong đó có 10 số được thực hiện tại Hà Tây với người dẫn chương trình
trong trường quay ở phần đấu và phần cuối là Tuyết Mai. Đài PT - TH Hà
Tây trực tiếp thực hiện việc khảo sát, đánh giá, lựa chọn các người chơi nằm
trong diện hộ nghèo cần xoá nợ trên địa bàn tỉnh. Đây là chương trình mà
Đài PT - TH Hà Tây kết hợp với Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh
và một số đài khác thực hiện. Sự tham gia của Đài PT - TH Hà Tây là sự
góp mặt dẫn chương trình của người dẫn ở trong trường quay và việc khảo
sát lựa chọn người chơi. Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh chịu trách
nhiệm về nội dung, hình thức tổ chức sân chơi cũng như người dẫn chương
trình trực tiếp tại sân khấu.
Phim tài liệu Mê Kơng ký sự.
Có thể nói, Mê Kơng ký sự là bộ phim tài liệu dài tập nhất của Việt
Nam với sự đầu tư thực hiện rất công phu, trong quãng thời gian hơn 5 năm.
Bộ phim tài liệu do hãng phim Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh thực
hiện. Tổng đạo diễn là NSND Phạm Khắc, kịch bản - lời bình Trần Đức
Tuấn. Ngay từ những tập đầu tiên bộ phim đã thu hút sự chú ý theo dõi của
đơng đảo cơng chúng trong và ngồi nước.
Trọn bộ Mê Kơng ký sự có 85 tập chia làm 6 phần: Phần mở đầu 1
tập. Phần 2 kể về cuộc hành trình tìm kiếm Mê Kơng trên lãnh thổ Trung
Quốc (22 tập). Phần 3 là cuộc hành trình trên lãnh thổ 3 nước trung lưu Mê
Kông, Myanmar, Lào, Campuchia (21 tập). Phần 4 là cuộc hành trình trên
đất Campuchia (17 tập). Phần 5: trên lãnh thổ Việt Nam (21 tập). Phần kết 3
tập.
Phim phát sóng trên HTV9 lúc 7 giờ 25 liên tục từ ngày 1-8-2004.
Mê kông ký sự được Đài PT - TH Hà Tây mua bản quyền và phát
lại vào lúc 16h30’ các ngày từ thứ 2 đến thứ 7 hàng tuần, mỗi tập dài 20’,
bắt đầu từ năm 2005 đến năm 2006, với 85 tập. Chương trình đã thu hút
được hàng triệu khán giả Hà Tây và các vùng phụ cận.
Sân chơi Pháp luật và cuộc sống.
Sân chơi này được thực hiện dưới hình thức là Quỹ hợp tác với địa
phương của Đại sứ quán Phần Lan tài trợ tiền cho Đài PT - TH Hà Tây thực
11
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
hiện chương trình. Nội dung về kịch bản, sân khấu, hình thức tổ chức cuộc
chơi do Đài Hà Tây quyết định, dựa trên những quy định về phổ biến nội
dung luật do phía nhà tài trợ đưa ra. Hình thức xã hội hố chương trình theo
phương thức này có lợi từ nhiều phía. Trước hết từ phía nhà tài trợ, thơng
qua Đài PT - TH Hà Tây, họ đã thực hiện được mục tiêu hoạt động của tổ
chức, đó là tuyên truyền phổ biến pháp luật tới người dân địa phương, giúp
người dân nâng cao kiến thức luật, từ đó có những hành vi ứng xử đúng
trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, họ cũng được hưởng lợi từ việc quảng
bá lơ gơ của mình và doanh thu quảng cáo của các nhà tài trợ. Về phía Đài
PT - TH Hà Tây có thêm một chương trình phát sóng bổ ích mà không phải
lo nhiều đến vấn đề đầu tư kinh phí để trang trải, lại đảm nhiệm tốt vai trị
tun truyền phổ biến kiến thức luật tới đông đảo khán giả. Đây cũng là cơ
hội để những người tham gia sản xuất chương trình được thử sức mình trong
một sân chơi mới, từ khâu lên ý tưởng, xây dựng nội dung kịch bản đến tổ
chức sản xuất.
Thời gian kéo dài của dự án là 16 tháng, bắt đầu từ tháng 6/2006,
mỗi chương trình sẽ được phát sóng hàng tuần và cuộc thi chung kết sẽ được
quay vào cuối năm 2007. Đài PT – TH Hà Tây sẽ sở hữu các sản phẩm của
Dự án như chương trình truyền hình, băng đĩa, tài liệu in ấn và cho phép
Quỹ FLC quyền sao chép và truy cập (không phát hành) các sản phẩm này
nếu khơng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ theo Luật được sử dụng ở thời điểm
đó. Đài PT – TH Hà Tây sẽ quảng bá hình ảnh của Quỹ FLC với lôgô hoặc
tên của nhà tài trợ trong phần cuối của chương trình hoặc lồng ghép vào
trang trí trường quay.
Chương trình Pháp luật với cơng nhân viên chức lao động.
Liên đoàn lao động tỉnh phối hợp với Đài PT – TH Hà Tây tổ chức
chương trình sân chơi Pháp luật với công nhân viên chức lao động. Đây là
sân chơi truyền hình, khơng những nhằm tun truyền, phổ biến giáo dục về
pháp luật mà còn là nơi thu hút đông đảo công nhân viên chức lao động
cùng tham gia các hoạt động văn hố, xã hội, góp phần nâng cao đời sống
sinh hoạt văn hố tình thần cho công nhân viên chức lao động ở cơ sở. Đặc
biệt thơng qua các tình huống pháp luật cụ thể sẽ hỗ trợ các cán bộ, đồn
viên cơng đồn và cơng nhân viên chức lao động xử lý những tình huống
phát sinh trong công việc và trong cuộc sống hàng ngày theo đúng pháp
luật. Chương trình bắt đầu được ghi hình từ tháng 2/2006 và kéo dài 15 số.
Chương trình được phát sóng vào 20h thứ tư hàng tuần trên sóng
Đài PT – TH Hà Tây.
12
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
Chương trình Tiếng Anh ứng dụng.
Đây là chương trình do Đài PT – TH Hà Tây phối hợp với công ty
quảng cáo Sông Xanh và Trung tâm Anh ngữ quốc tế Việt Anh tổ chức.
Chương trình được phát vào lúc 13h các ngày thứ bảy hàng tuần và được
phát lại vào ngày thứ ba tuần kế tiếp, bắt đầu từ tháng 8/2005. Chương trình
Tiếng Anh ứng dụng bao gồm 52 chương trình, mỗi chương trình là một
bài học kéo dài 30 phút, bắt đầu từ trình độ A đến trình độ B, C. Giáo trình
được sử dụng trong chương trình là giáo trình Inside out của Astralia, do các
chun gia nước ngồi và giáo viên của Trung tâm Anh ngữ quốc tế Việt –
Anh giảng dạy. Sau mỗi khoá học, Trung tâm đều có tổ chức thi và cấp
chứng chỉ cho những bạn đạt tiêu chuẩn. Ngoài ra để tiện cho khán giả theo
dõi chương trình, Trung tâm cũng cung cấp giáo trình và băng chương trình
tại Đài PT – TH Hà Tây.
Hình thức phối hợp sản xuất chương trình này là phía đối tác cung
cấp băng phát sóng trọn gói, Đài PT - TH Hà Tây đóng góp ý tưởng chương
trình và chịu trách nhiệm kiểm duyệt lại nội dung lần cuối trước khi phát
sóng. Đây là cách thức xã hội hố chương trình truyền hình giúp nhà đài
thực hiện tiết kiệm chi phí sản xuất, phát huy nguồn nhân lực từ phí đối tác
sản xuất một chương trình khoa giáo đáp ứng nhu cầu thực tế của đông đảo
công chúng trong và ngồi tỉnh.
Nội dung các chương trình được thực hiện dưới hình thức xã hội
hố ở Đài PT - TH Hà Tây rất phong phú. Khán giả được tiếp cận với
những chương trình sân chơi mới, hay, hấp dẫn và có chất lượng chun
mơn khá tốt. Yếu tố hấp dẫn chính bởi nội dung các chương trình sân chơi
đã đề cập đến lượng kiến thức khổng lồ trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội (như trong các sân chơi tổng hợp như Rồng vàng, Vui để học...) hay một
lĩnh vực chuyên sâu (như trong các sân chơi Pháp luật và cuộc sống, Nốt
nhạc vui, Nhịp nối trái tim - Thơng điệp Tình u). Chỉ ngồi trước màn hình
tivi, khán giả cũng có thể khám phá những miền đất kỳ thú gắn với những
con người, những phong tục tập qn của từng vùng miền theo dịng chảy
của con sơng Mê Kông nổi tiếng qua loạt phim Mê Kông ký sự.
Có thể thấy, từ việc thực hiện các chương trình truyền hình dưới
hình thức xã hội hố, chất lượng các chương trình được nâng cao rõ rệt, thể
hiện khơng chỉ qua phần nội dung, mà ngay cả cách thiết kế sân khấu, cách
bố trí ánh sáng, âm thanh, các cảnh quay và cách dựng hình gây ấn tượng,
cuốn hút người xem. Hình ảnh của các chương trình về cơ bản tuân theo các
tiêu chuẩn của hình ảnh truyền hình về cỡ cảnh, ánh sáng, bố cục... Với
13
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
cách dựng hình chú ý tới tiết tấu và sử dụng nhiều kĩ xảo, những hình ảnh
bình thường trở nên sinh động hơn rất nhiều. Và người xem khơng có cảm
giác buồn tẻ, chán ngắt... khi ngồi xem những chương trình dài từ 30 đến 45
phút. Hiệu quả của việc sử dụng hình ảnh thể hiện ở việc đã nhấn mạnh
được các yếu tố quan trọng trong hình. Chủ thể của cảnh là sự vật hay con
người đều có cách xử lý linh hoạt để làm nên sự độc đáo của từng đội chơi.
Có được điều này chắc chắn khơng thể bỏ qua vai trị của yếu tố xã hội hố.
San sẻ bớt sức ép thời lượng cho truyền hình, các đơn vị bên ngồi cịn
đồng thời sử dụng nhân lực và nguồn kinh phí của mình đầu tư cho chương
trình hay hơn, cơng phu hơn.
2.3.2 Xã hội hố về phương thức sản xuất chương trình.
Đài PT – TH Hà Tây phối hợp với các cơng ty quảng cáo hoặc Đài
Truyền hình TP Hồ Chí Minh thực hiện mua đứt bán đoạn các chương trình,
các khâu tổ chức sản xuất từ kịch bản, liên hệ khách mời, tổ chức giám
khảo, công tác khán giả, ghi hình, đến khâu hậu kì đều do các đơn vị ngoài
đài thực hiện dưới sự giám sát chặt chẽ của Đài với mục tiêu không đi chệch
hướng tuyên truyền của Đài, của Đảng và Nhà nước. Phía Đài PT – TH Hà
Tây chỉ tiếp nhận phát sóng sau khi thực hiện kiểm duyệt.
Phương thức thứ hai là Đài PT – TH Hà Tây phối hợp với các đơn
vị thực hiện làm hậu kỳ các chương trình. Trên cơ sở các đơn vị thực hiện
phần nội dung, phía nhà đài bố trí phịng dựng để dựng thành sản phẩm,
thực hiện công tác biên tập và lên lịch phát sóng.
2.3.3 Xã hội hố về sử dụng các điều kiện phương tiện kỹ
thuật.
Hiện nay ở Đài PT - TH Hà Tây, các sản phẩm truyền hình được
thực hiện dưới hình thức xã hội hoá vẫn chủ yếu dựa vào các phương tiện kỹ
thuật của phía đối tác. Điều này giúp Đài tận dụng được những lợi thế về
trang thiết bị hiện đại, máy quay DVCam, bàn dựng kỹ thuật số, hệ thống
trường quay với đầy đủ thiết bị âm thanh ánh sáng... của phía các cơng ty
cùng hợp tác. Đài chỉ thực hiện kiểm duyệt lần cuối và phát sóng với máy
phát hình cơng suất 10KW, phát trên 1 kênh analog. Thực tế cho thấy, các
chương trình đều có chất lượng về mặt kỹ thuật hơn hẳn các chương trình
sân chơi do Đài tự sản xuất.
2.3.4 Xã hội hóa và vấn đề lợi ích.
Xã hội hố truyền hình phải đi đến một đích thống nhất, đó là sản
xuất được những chương trình hay, hấp dẫn, bổ ích, và người được hưởng
14
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
lợi đầu tiên kể đến phải là khán giả. Nếu xã hội hố mà đặt q cao quyền
lợi của các cơng ty truyền thông, hay thể hiện sự trốn tránh, yếu kém của các
đài truyền hình thì đó khơng phải là mục tiêu đặt ra của xã hội hố. Dung
hồ các lợi ích, trong đó đề cao lợi ích của khán giả là hướng đi đúng đắn
của việc xã hội hoá sản xuất các chương trình truyền hình. Điều này cũng
hợp lý trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam tiếp tục vận hành theo cơ chế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3.5 Công tác lãnh đạo, quản lý trong quá trình xã hội hố
truyền hình.
Đài PT - TH Hà Tây ln là đầu tầu, là hạt nhân trong q trình xã
hội hố. Trong lúc điều kiện về kinh phí, về nguồn lực cịn khó khăn, hạn
chế, thì việc phối hợp thực hiện xã hội hố sản xuất chương trình truyền
hình dưới nhiều hình thức là hướng đi mà những người làm quản lý ở Đài
lựa chọn. Thực hiện các chương trình dưới hình thức xã hội hố, Đài ln
cầm trịch một cách chủ động, giữ vững định hướng tuyên truyền, am hiểu
cơng chúng, đồng thời khơng ngừng nâng cao trình độ quản lý và chun
mơn. Đó là cách quản lý tốt nhất có thể!
2.3.6 Cơng tác biên tập, chế độ trách nhiệm của các đối
tượng tham gia quá trình xã hội hố truyền hình.
Trong bất cứ một chương trình nào được thực hiện sản xuất, thì
ngay từ khâu ý tưởng, lên kịch bản, tổ chức thực hiện kiểm duyệt lần cuối
đều rất cần các bên tham gia có ý thức và lịng nhiệt tình với cơng việc cao.
Bên cạnh việc khơng ngừng nâng cao trình độ, chun mơn nghiệp vụ để
nội dung các chương trình có nhiều yếu tố hấp dẫn, thì những người chịu
trách nhiệm thực hiện chương trình không thể thiếu được khả năng thẩm
định và hiểu biết về tâm lý công chúng, cũng như những nhu cầu về thông
tin của công chúng hiện nay. Nắm bắt nhanh nhạy kịp thời thị hiếu khản giả,
cộng đồng trách nhiệm để cùng làm nên những chương trình hấp dẫn là
trách nhiệm của những người làm truyền hình nói chung và những người
đang bắt tay thực hiện lộ trình xã hội hố nói riêng.
2.4 Thời cơ và thách thức đặt ra trong q trình xã hội hố
truyền hình.
Nhận định tính đúng đắn của hướng đi này, chủ trương xã hội hóa
truyền hình được Nhà nước ta hồn tồn khuyến khích. Thậm chí, nhằm đẩy
nhanh q trình xã hội hóa, Đài Truyền hình Việt Nam đã được giao nhiệm
vụ là đơn vị chủ chốt thực hiện nhiệm vụ này. Đón đầu xu hướng xã hội
15
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
hố, các công ty truyền thông ra đời ngày càng nhiều. Họ mạnh dạn trong
đầu tư, năng động trong cơ cấu và hoạt động. Các đài địa phương cũng đã
và đang đấy nhanh q trình xã hội hố.
Những thách thức khơng nhỏ đặt ra trong q trình thực hiện xã hội
hố truyền hình ở Việt Nam là: Sóng truyền hình của các tỉnh cài răng lược
vào nhau, cơng suất phát sóng của các kênh PTTH âm thầm tăng lên dành
thị phần khán giả, hiện tượng loạn gameshow, sự lãng phí tiền của do lạm
phát truyền hình mang lại dã và đang diễn ra hàng ngày nhưng khơng có
biện pháp ngăn chặn, trong khi đó, các kênh truyền hình nước ngồi với
những ưu việt nổi trội đang xâm nhập tràn lan và lôi kéo khán giả Việt
Nam… .
2.5 Các vấn đề thời sự liên quan đến xã hội hố truyền hình.
2.5.1 Vấn đề bản quyền truyền hình.
Trong q trình xã hội hố có hai mối quan hệ chủ yếu được đặt ra
với vấn đề bản quyền truyền hình là: Quan hệ về bản quyền giữa các đài
truyền hình và các đơn vị ngồi đài truyền hình ở trong nước. Quan hệ về
bản quyền của truyền hình trong nước và truyền hình quốc tế.
Tuân thủ luật pháp quốc tế trong vấn đề bản quyền truyền hình
được thể hiện ở việc bảo vệ bản quyền các chương trình do Đài nói chung
và do truyền hình trong nước nói riêng sản xuất. Khơng vi phạm bản quyền
các chương trình nước ngồi, của các đơn vị khác, khơng phát sóng các
chương trình khơng có bản quyền.
Việc vi phạm bản quyền ở nước ta hiện nay diễn ra rất phổ biến.
Nhiều đài truyền hình địa phương mua đĩa lậu trơi nổi ngồi thị trường về
phát sóng, thậm chí lấy từ truyền hình cáp của VTV. Tình trạng này rất đáng
báo động, đến khi luật bản quyền được tuân thủ nghiêm ngặt, nhiều đài có
thể bị đóng của vì vi phạm bản quyền.
2.5.2 Truyền hình trả tiền.
Truyền hình trả tiền có ba loại: sử dụng cơng nghệ DTH, truyền
hình cáp và truyền hình kỹ thuật số. Trong đó, truyền hình cáp được số đơng
lựa chọn, vì DTH (dù bắt được nhiều kênh nhất) nhưng giá lắp đặt cao,
truyền hình kỹ thuật số mới tăng lên hai năm gần đây. Ở Việt Nam, truyền
hình trả tiền được chính thức qui đinh trong quyết định số 79/2002/QĐ –
TTg, ngày 18 tháng 6 năm 2002 do Thủ tướng chính phủ ban hành về quản
lý việc thu các chương trình truyền hình nước ngoài. Tại văn bản này lần
đầu tiên, bên cạnh hệ thống truyền hình quảng bá, địa vị pháp lí và cơ chế
16
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
hoạt động của hệ thống truyền hình trả tiền được xác lập một cách cụ thể rõ
ràng. Trong xu thế xã hội hố các chương trình truyền hình, số lượng và
chất lượng các chương trình được nâng cao cũng có tác động to lớn tới phát
triển truyền hình trả tiền. Bởi vì người xem chỉ chịu bỏ tiền mua những
chương trình có chất lượng, phù hợp với thẩm mỹ và nhu cầu thông tin của
họ. Ngược lại, sự phát triển của truyền hình trả tiền cũng góp phần làm nâng
cao chất lượng và lành mạnh hoá xu hướng xã hội hoá truyền hình, yếu tố
lợi nhuận cũng góp phần làm động lực để thu hút đâu tư của xã hội vào
truyền hình.
2.5.3 Trun h×nh trùc tun.
Truyền hình trực tuyến, cịn gọi là Internet TV, Broadband TV hay
WebTV, đang nổi lên như một cuộc cách mạng trong lĩnh vực truyền thơng
đại chúng. Ngồi khả năng tương tác với người dùng, cho phép lựa chọn nội
dung, truyền hình trực tuyến cịn mở ra khả năng truyền phát trên toàn cầu,
tới bất cứ nơi nào có kết nối Internet băng thơng rộng.
Lợi thế lớn nhất của Internet TV là khả năng truyền phát thông tin
trên phạm vi tồn cầu. Truyền hình Internet, với những thế mạnh vốn có của
thể loại báo hình, sẽ là một giải pháp để giúp mọi người dân Việt Nam ở bất
cứ đâu trên thế giới cũng có thể theo dõi, nắm bắt những thông tin mới nhất
trong nước một cách nhanh chóng, chính xác và tin cậy.
2.6 C¸c xu híng xà hội hoá truyền hình.
Xu hng xó hi hoỏ truyn hình hiện nay là: Đã đến lúc các đài
phải làm tốt vai trị của người chủ trì sân chơi. Khơng đơn giản là quyết
định giao cho “công ty A”,“công ty B” sản xuất, nộp băng vào “thứ mấy”
hàng tuần mà các Đài nên đứng ở vị trí trung tâm, kết nối các đầu mối sản
xuất để sản phẩm cuối cùng ra đời từ những đầu vào chất lượng.
Xã hội hóa truyền hình từng khâu sản xuất với hình thức đấu thầu,
sân chơi sẽ trở nên công bằng hơn, nhà Đài lại có đủ điều kiện để vừa tăng
thời lượng, vừa nâng cao chất lượng chương trình. Đó là hướng đi chung
của xã hội hố truyền hình hiện nay.
17
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
XÃ HỘI HỐ TRUYỀN HÌNH
3.1 Đổi mới nhận thức và quan niệm.
3.1.1 Đổi mới nhận thức và quan niệm về vai trị của xã hội
hố truyền hình trong đời sống xã hội.
Trước hết, nhận thức đúng phải từ các cơ quan quản lý Nhà nước
về vấn đề này. Nhà nước đã ban hành qui định pháp luật cụ thể về quyền hạn
và trách nhiệm đối với các đơn vị tham gia thực hiện tác phẩm truyền hình
và cơng tác xã hội hố truyền hình. Nghị định 10 và Nghị định 43 của Chính
phủ đã tạo ra cơ sở pháp lý đầu tiên cho hoạt động xã hội hố truyền hình.
Để kịp thời chấn chỉnh sự “lạm phát truyền hình” như hiện nay, thiết nghĩ,
Quốc hội cũng cần thơng qua Luật Truyền hình để điều chỉnh hoạt động
truyền hình ở nước ta.
Đổi mới nhận thức từ phía những người lãnh đạo ở các đài truyền
hình. Thực tế cho thấy VTV đã chủ động trong việc tiên phong thực hiện xã
hội hố truyền hình. Các đài địa phương, trong đó có Đài PT – TH Hà Tây
cũng đang nỗ lực thực hiện lộ trình xã hội hố truyền hình. Vấn đề đổi mới
ở đây chính là sự cơng tâm khách quan của chính các lãnh đạo đài truyền
hình trong việc lựa chọn, đấu thầu các đối tác cùng tham gia phối hợp sản
xuất chương trình. Đặt vấn đề lợi ích của khán giả và uy tín của các nhà đài
lên trên hết.
Đội ngũ phóng viên, biên tập viên các đài truyền hình cũng chính
là lực lượng cần có những nhận thức đúng đắn để tham gia vào q trình xã
hội hố truyền hình. Nên loại trừ quan điểm xã hội hố truyền hình là để cho
những “người ngồi đài” làm truyền hình, cịn bản thân những người trong
đài thì “ngồi chơi xơi nước” để tiết kiệm chi phí sản xuất chương trình.
Ngược lại, đội ngũ này phải trở thành những lực lượng cốt cán, những người
luôn nắm giữ thế chủ động trong các cuộc chơi để giành quyền thắng. Mà
quyền thắng ở đây chính là uy tín của nhà đài và sự có mặt của cơng chúng
bên cạnh những chương trình họ sản xuất. Nhận thức đúng đắn vấn đề này,
mỗi phóng viên, biên tập viên sẽ ý thức được trách nhiệm trong việc tham
gia ý tưởng, định hướng chương trình, phối hợp sản xuất và biên tập phát
sóng. Có như vậy, xã hội hố truyền hình mới đạt được đúng ý nghĩa đích
thực của nó.
18
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
Các đối tác tham gia thực hiện q trình xã hội hố truyền hình là
một trong những khâu trọng yếu trong việc đổi mới nhận thức về xã hội hố
truyền hình. Thực tế thì đây chính là lực lượng hùng hậu mạnh mẽ sẵn sàng
hợp tác với các đài truyền hình thực hiện mục tiên xã hội hố, vì chính lợi
ích của họ. Đổi mới nhận thức ở đây chính là họ biết đặt lợi ích của mình
cùng với lợi ích của khán giả. Thiết nghĩ, đối với các công ty truyền thông,
muốn cạnh tranh lành mạnh và lâu dài, việc đầu tiên mà họ nghĩ đến nên là
sức hấp dẫn của chương trình đối với cơng chúng, hơn là những lợi nhuận từ
việc thu quảng cáo trước mắt. Nâng cao chất lượng chương trình là yếu tố
sống cịn để những cơng ty truyền thơng đảm nhận tốt vai trị của mình trong
việc thực hiện xã hội hố truyền hình hiện nay.
Khán giả là đối tượng đầu tiên được hưởng lợi từ việc xã hội hố
truyền hình, và do vậy, họ chính là tâm điểm của mỗi chương trình. Khơng
ai khác, chính khán giả sẽ là người quyết định việc xã hội hố thành cơng
hay thất bại. Cả phía nhà đài, cả phía những cơng ty truyền thơng đều phải
nhận thức cho được điều mà họ đang cố gắng làm là vì khán giả. Trong nhịp
sống xã hội phát triển như ngày nay, những vị khán giả sẽ ngày càng khó
tính, điều này đồng nghĩa với việc những người tham gia xã hội hố truyền
hình phải đồng lịng chung sức làm nên những sản phẩm truyền hình hợp
với thị hiếu của họ.
3.1.2 Đổi mới nhận thức và quan niệm về phơng thức sở hữu, bố trí hệ thống đài truyền hình
và phơng thức sản xuất các chơng trình trong điều
kiện mới.
Gii phỏp cho vấn đề này, trước khi Quốc hội thông qua Luật Truyền
hình, thiết nghĩ, có thể là bản thân các đài nên thực hiện việc “xã hội hoá”
với nhau, tức là cùng nhau liên kết sản xuất, cùng huy động nguồn lực chất
xám thực hiện các chương trình, tránh thất thoát một tài sản được Nhà nước
đầu tư quá lớn như hiện nay. Thực tế xã hội hoá theo phương thức này ở Đài
PT – TH Hà Tây đã chứng minh hiệu quả rõ rệt. Những chương trình mua
bản quyền, trao đổi băng phát sóng với Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí
Minh vừa tiết kiệm nguồn nhân lực, chi phí của nhà đài, vừa thu hút đơng
đảo cơng chúng.
Đối với các kênh truyền hình thiết nghĩ cũng nên xã hội hóa. Nhà
nước chỉ nắm giữ một vài kênh thời sự chính trị, những kênh giải trí, thể
thao, phim ảnh nên xã hội hóa, hay tư nhân hóa. Nhà nước chỉ duyệt nội
dung trước khi phát sóng. Điều này thực tế đã diễn ra bấy lâu nay một cách
19
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình
khơng chính thức. Nhiều công ty quảng cáo sản xuất những chương trình
truyền hình rồi đem bán cho nhà Đài (dĩ nhiên sau khi đã được Đài duyệt và
thông qua nội dung). Cần loại bỏ một quan niệm cho rằng chỉ có nắm độc
quyền Nhà nước mới có thể quản lý được tốt nội dung. Quản lý của Nhà
nước là quản lý theo luật pháp. Luật pháp sẽ quản lý đời sống chứ không
phải một cơ quan độc quyền nào làm việc đó thay cho pháp luật.
Bên cạnh đó, việc đổi mới về phương thức sản xuất chương trình
trong điều kiện mới cũng đang trở thành vấn đề đặt ra cấp thiết.
Biện pháp đưa ra là khuyến khích kiểu “nhà báo cơng dân”. Hiện
nay, mọi người dân đều có thể làm truyền hình nhờ những phương tiện kỹ
thuật hiện đại như máy quay kỹ thuật số nhỏ gọn, điện thoại di động… Thực
tế trên thế giới cũng như ở Việt Nam có khơng ít những vấn đề thời sự nóng
hổi được ghi lại bởi những “tay máy nghiệp dư” này.
Các đài truyền hình cũng nên có phương án chuyển đổi phương
thức sản xuất chương trình theo hình thức gọn nhẹ, tiết kiệm chi phí, tránh
lãng phí, cồng kềnh về bộ máy và thiết bị; mỗi phóng viên kiêm ln vai trị
đạo diễn, quay phim và chịu trách nhiệm nội dung. Tính chuyên nghiệp tác
chiến của mỗi phóng viên được phát huy, tạo cơ chế năng động ứng phó với
mọi tình huống. Họ sẽ trở thành lực lượng nòng cốt trong việc thực hiện xã
hội hố truyền hình, thậm chí ngay bản thân nguồn nhân lực trong đài truyền
hình sẽ cùng hợp tác với các đơn vị bên ngoài cùng thực hiện các chương
trình truyền hình ngay từ khâu ý tưởng đến việc tổ chức sản xuất.
3.2 Më réng søc c¹nh tranh, huy động các
nguồn lực vật chất, trí tuệ tham gia vào quá trình xÃ
hội hoá truyền hình i PT TH Hà Tây.
Huy động các nguồn lực cùng tham gia sản xuất chương trình,
phương thức lựa chọn tối ưu hiện nay là các đài truyền hình nên chọn hình
thức đấu thầu. Đội quân cung ứng đầu vào ngày càng đông đảo, nhà đài
hồn tồn có thể lựa chọn đối tác cho mình bằng phương thức đấu thầu. Cần
giảm tải ở khâu nào, nhà đài phát động đấu thầu ở khâu đó. Một hội đồng
giám khảo được lập ra để thẩm định và lựa chọn đơn vị xuất sắc nhất từ các
đơn vị, các tác phẩm dự thi. Cách làm này sẽ tạo một môi trường cạnh tranh
lành mạnh. Những đơn vị nào khả năng và uy tín tốt nhất sẽ phối hợp với
đài thực hiện các chương trình, tất nhiên, đầu ra của sản phẩm sẽ là những
chương trình tốt nhất.
20