1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Vũ Thị Thu Hà
Xã hội hóa sản xuất chương trình
truyền hình hiện nay
Luận văn ThS. Truyền thông đại chúng: 60.32.01
Nghd. : TS. Nguyễn Tuấn Phong
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
Xã hội hoá là một nhu cầu tất yếu trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội, trong đó có lĩnh vực truyền hình.
Trong nhiều năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
luôn đạt ở mức cao. Theo báo cáo của Chính phủ về kết quả thực hiện nhiệm
vụ kinh tế xã hội năm 2007, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2008 tại
kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá 12, thì 9 tháng năm 2007, nền kinh tế nước ta đạt
mức tăng trưởng 8,25%. Đây là con số cao nhất trong 10 năm qua.
Tuy nhiên, Nhà nước hiện vẫn đang phải gồng mình với những khoản
chi cho nền kinh tế. Các ngành dịch vụ công như y tế, giáo dục, văn hoá, thể
thao… luôn ở trong tình trạng quá tải, nhu cầu chia sẻ bớt gánh nặng của Nhà
nước là luôn có thực. Nếu chỉ trông chờ vào nguồn ngân sách thì kinh phí cho
các hoạt động này luôn ở trong tình trạng thiếu thốn.
Trong bối cảnh đó, xã hội hoá vừa là hướng đi, là biện pháp để giảm
gánh nặng cho Nhà nước, vừa khuyến khích các thành viên trong xã hội tham
gia vào các hoạt động mang lại lợi ích cho cộng đồng. Và ngược lại, trong xã
hội cũng có rất nhiều đơn vị tổ chức cá nhân không chuyên về lĩnh vực đó có
khả năng tham gia vào hoạt động. Trong xu thế đó, Đài Truyền hình Việt
Nam và các Đài PT – TH địa phương cũng đang thực hiện quá trình xã hội
hoá và có chiều hướng ngày càng mạnh mẽ.
Đài Truyền hình Việt Nam cũng đang có những bước phát triển mạnh
mẽ về số lượng các kênh, về chất lượng kỹ thuật truyền dẫn, phát sóng và đặc
biệt là sự phát triển nguồn nhân lực và sự đầu tư cho néi dung c¸c ch-¬ng
tr×nh. Đây là điều kiện tốt để các tổ chức cá nhân bên ngoài ngành truyền hình
cùng tham gia sản xuất các chương trình truyền hình. Các đài địa phương,
mặc dù nguồn lực yếu hơn, nhưng cũng đã và đang tiến hành hợp tác, phối
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
2
hợp với các công ty thực hiện nhiều chương trình truyền hình được đông đảo
công chúng chấp nhận. Việc có nhiều đơn vị tham gia sản xuất chương trình
truyền hình sẽ làm cho các chương trình phong phú hơn, hiệu quả xã hội lớn
hơn. Chính vì thế, xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình ngày càng có
điều kiện phát triển và trở thành mét h-íng ®i tÊt yÕu.
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu tiếp nhận thông tin của công
chúng ngày càng cao, đòi hỏi truyền hình phải không ngừng nâng cao chất
lượng nội dung và hình thức; đa dạng, phong phú về cách thức thể hiện.
Xã hội càng phát triển, nhu cầu giao lưu, trao đổi, cung cấp và tiếp
nhận thông tin càng lớn. Truyền hình với những đặc trưng riêng biệt về độ
nhanh nhạy, tức thời, âm thanh hình ảnh sinh động đã trở thành một loại hình
báo chí được ưa chuộng từ nhiều thập niên trở lại đây. Nhưng không vì thế
mà truyền hình cứ “dậm chân tại chỗ” trong khi các loại hình báo chí khác
phát triển đa dạng và khẳng định được chỗ đứng không thể thay thế trong
lòng công chúng.
Có một thực tế là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ góp
phần làm cho các hình thức truyền thông trở nên phong phú, nhanh nhạy và
hiện đại, số lượng người tham gia vào các hoạt động cung cấp, trao đổi và tiếp
nhận thông tin đông đảo. Trình độ dân trí cao làm cho số lượng người tham
gia vào các hoạt động truyền thông ngày càng nhiều. Các phương tiện truyền
thông hiện đại đã tạo điều kiện cho con người không chỉ thụ động tiếp nhận
thông tin, tiếp nhận một nguồn thông tin mà cùng một lúc tiếp nhận nhiều
nguồn thông tin, tham gia trực tiếp vào các hoạt động truyền thông, cung cấp
thông tin phản hồi, thể hiện quan điểm, chính kiến của mình. Không chỉ các
nhà báo, mà các thành viên trong xã hội đều tham gia vào các hoạt động
truyền thông. Có thể nói, nhu cầu tham gia của cộng đồng vào hoạt động
truyền thông, đặc biệt trong lĩnh vực truyền hình đã đến lúc chín muồi.
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
3
Các đài truyền hình, đặc biệt là các đài truyền hình địa phương
không thể chỉ dựa vào nguồn chi ngân sách để hoạt động sản xuất chương
trình hiệu quả.
Sản xuất chương trình truyền hình là một hoạt động tốn kém. Một sản
phẩm truyền hình là sự đầu tư tốn kém của các thiết bị máy móc công nghệ
hiện đại. Một máy quay Camera có thể lên tới hàng tỷ đồng. Tác phẩm truyền
hình còn là sản phẩm của trí tuệ tập thể, đòi hỏi một đội ngũ nhân lực không
phải là nhỏ. Đài Truyền hình Việt Nam hiện nay có đội ngũ gần 2 nghìn
phóng viên, kỹ thuật viên, biên tập viên… 64 đài địa phương và 2 đài khu vực
trung bình cũng có số nhân sự trên dưới một trăm người mỗi đài. Chính vì
vậy, nguồn chi cho đầu tư kỹ thuật và nhân sự của truyền hình là không nhỏ.
Tuy nhiên, nguồn chi ngân sách cho các đài truyền hình lại không phải là
nhiều. Đài Truyền hình Việt Nam đang vận hành theo cơ chế tự hạch toán,
nghĩa là không được sự đầu tư kinh phí của Nhà nước, mọi chi phí sản xuất và
trả lương cho cán bộ công nhân viên đều trông chờ vào nguồn thu quảng cáo.
Các đài địa phương thì hiện đang hoạt động theo cơ chế hành chính sự nghiệp
có thu, nghĩa là hưởng một phần ngân sách Nhà nước, phần còn lại thu từ
doanh thu quảng cáo. Tuy nhiên, phần được nhận chi từ ngân sách Nhà nước
thường không nhiều. Ví dụ như Đài PT – TH Hà Tây, năm 2007 nhận được 6
tỷ đồng từ ngân sách của UBND tỉnh. Con số này chỉ đủ trả lương cho hơn
100 cán bộ nhân viên của Đài, còn lại tất cả các khoản tái đầu tư cho sản xuất
chương trình là trông chờ vào nguồn thu quảng cáo.
Như vậy có nghĩa là nguồn kinh phí đầu tư cho các đài truyền hình là
không lớn, đòi hỏi các đài truyền hình phải không ngừng nỗ lực tự phấn đấu.
Việc thu hút các nguồn lực bên ngoài là một trong những giải pháp giúp giảm
bớt gánh nặng cho ngành truyền hình.
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
4
Xã hội hoá truyền hình đã bước đầu đem lại những hiệu quả rõ rệt.
Trước hết, các đài truyền hình đã giảm được gánh nặng cả về nhân lực
và cơ sở vật chất trong hoạt động sản xuất chương trình. Nhờ có sự hợp tác
với các đơn vị bên ngoài mà rất nhiều chương trình đã được sản xuất và phát
sóng mà không cần phải huy động kinh phí ngân sách của đài. Ở Đài Truyền
hình Việt Nam, rất nhiều chương trình mới đã ra đời với sự cộng tác hợp lực
của các công ty bên ngoài ngành, đặc biệt là các chương trình giải trí như: Ai
là triệu phú (Phối hợp với E- media), Khởi nghiệp, Chuyện lạ Việt Nam (Phối
hợp với Power ) Ở Đài PT – TH Hà Tây, nhiều chương trình hấp dẫn cũng
đã được sản xuất với sự hợp tác của các công ty quảng cáo như Sân chơi Vượt
lên chính mình (Phối hợp với Công ty quảng cáo Lasta), Sân chơi Nhịp nối
trái tim, phiên bản mới là Thông điệp tình yêu (Phối hợp với Công ty quảng
cáo Sông Xanh)…Nhiều chương trình phối hợp sản xuất với các đơn vị bên
ngoài đã nhận được sự đánh giá cao của dư luận nói chung.
Tuy nhiên, khái niệm xã hội hoá truyền hình vẫn gây rất nhiều tranh
cãi trong giới chuyên môn, các học giả nói riêng và dư luận nói chung. Xã hội
hoá truyền hình ở nước ta đã có những phương thức và phạm vi xã hội hoá rất
đa dạng. Trong quá trình đó đã phát sinh những mâu thuẫn giữa các đơn vị
tham gia phối hợp với đài truyền hình do sự chi phối về lợi ích. Vấn đề được
đặt ra là: Làm thế nào để tận dụng hết các nguồn lực khác nhau trong xã hội
vào sản xuất truyền hình song lại không bị thao túng bởi các quyền lợi cá
nhân và mục đích kinh doanh thuần tuý? Xã hội hoá theo lộ trình nào, cơ chế
nào? Điều này khiến cho việc phối hợp giữa các đơn vị còn chồng chéo, thậm
chí gây khó khăn cản trở cho quá trình tổ chức sản xuất chương trình. Việc xã
hội hoá ở các đài truyền hình địa phương còn phát sinh nhiều bất cập…
Vì vậy, việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn trên cơ sở khoa học
để đưa ra những dự báo, đề xuất, kiến nghị trong lĩnh vực xã hội hoá truyền
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
5
hình và từng bước đi đến thống nhất các khái niệm liên quan, phương thức
hoạt động của xã hội hoá truyền hình là việc làm cần thiết.
. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Trên thế giới quá trình xã hội hoá truyền hình đã diễn ra từ trước chúng
ta hàng chục năm. Nhưng thuật ngữ xã hội hoá truyền hình được sử dụng ở
nước ta nhiều hơn các nước khác. Do lịch sử hình thành và quan niệm về quá
trình này ở các nước khác với nước ta nên các công trình nghiên cứu và các
bài viết chủ yếu tập trung vào vấn đề “tư nhân hoá” các đài truyền hình và
“truyền hình thương mại”.
ë Việt Nam đã bước đầu có những tài liệu nghiên cứu về vấn đề này.
Tại các cuộc Liên hoan truyền hình toàn quốc lần thứ 25 (ngày 05/01/2006 tại
Nha Trang - Khánh Hoà) và lần thứ 26 (ngày 11/01/2007 tại Thành phố Hồ
Chí Minh) đã tổ chức các buổi hội thảo với chủ đề chính là sản xuất chương
trình truyền hình sẽ được xã hội hoá như thế nào, thu hút được rất nhiều các
đài truyền hình trong cả nước và các đơn vị, tổ chức ngoài ngành truyền hình
tham gia. Bên cạnh đó còn có các bài viết, bài nghiên cứu của các nhà lý luận
về báo chí nói riêng và truyền hình nói chung về vấn đề này. Đó là các nghiên
cứu về xu hướng phát triển của truyền hình, nghiên cứu kinh tế báo chí,
nghiên cứu về nguồn nhân lực cho báo chí…
Về mặt lý luận, chưa có nhiều đề tài đề cập tập trung về vấn đề này. Tuy
nhiên đã có khá nhiều những trang web, những tài liệu, bài phát biểu của các nhà
lãnh đạo Đài Truyền hình Việt Nam, Bộ Văn hoá – Thông tin (nay là Bộ Thông
tin và Truyền thông) đề cập đến phương hướng phát triển của xã hội hoá truyền
hình…
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
6
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích:
Đề tài nghiên cứu "Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình hiện
nay" nhằm mục đích nghiên cứu những tiền đề, điều kiện hình thành quá trình
xa hội hoá truyền hình; nghiên cứu những bước đi ban đầu trong quá trình
thực hiện, những xu hướng phát triển, khẳng định hiệu quả sáng tạo những tác
phẩm truyền hình đối với công chúng. Trên cơ sở đó, nâng cao vai trò của báo
chí nói chung và báo truyền hình nói riêng trong tiến trình đẩy mạnh CNH -
HĐH đất nước.
Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích trên, trong phạm vi luận văn này tập trung giải
quyết một số nhiệm vụ chính sau đây:
Nghiên cứu một số khái niệm cơ bản làm công cụ nghiên cứu.
Hệ thống một số tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước liên quan đến vấn đề phát triển báo
chí, sự tham gia của xã hội trong việc phát triển xã hội hoá truyền hình gắn
với quá trình đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước.
Nghiên cứu bối cảnh chính trị, xã hội và điều kiện của đất nước trong
giai đoạn hiện nay, đây là cơ sở và điều kiện khách quan để phát triển truyền
hình nói chung và xã hội hoá truyền hình nói riêng.
Xác định các hoạt động sản xuất chương trình theo hướng xã hội hoá và
cơ sở để xã hội hoá truyền hình trong thực tiễn. Khảo sát, phân tích đánh giá
những chương trình truyền hình đã và đang được tạo nên bởi sự hợp tác của
các nguồn lực bên ngoài ngành truyền hình tại Đài PT - TH Hà Tây từ năm
2004 đến năm 2006, từ đó khẳng định những mặt tích cực, ưu điểm, những
vướng mắc cần giải quyết theo quan điểm xã hội hoá truyền hình.
Rút ra một số vấn đề có tính quy luật và xu hướng phát triển xã hội hoá
truyền hình để làm căn cứ đưa ra các kiến nghị, giải pháp đề xuất nhằm góp phần
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
7
định hướng xã hội hoá truyền hình theo hướng tích cực, vừa phù hợp với quy
luật phát triển, vừa đảm bảo định hướng theo đường lối chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước. Đồng thời dự báo những mặt tích cực và tiêu
cực có thể nảy sinh trong quá trình thực hiện xã hội hoá truyền hình.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là các công trình nghiên cứu lý luận và tổng kết
thực tiễn về báo chí, truyền hình, các sản phẩm truyền hình được tạo nên bởi
việc huy động của nhiều nguồn lực bên ngoài có các yếu tố được xác định là
xã hội hoá.
Phạm vi nghiên cứu là các chương trình truyền hình được sản xuất theo
hướng xã hội hoá của Đài PT - TH Hà Tây từ năm 2004 đến năm 2006.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận:
Luận văn này đã vận dụng phương pháp luận Mácxít, với quan điểm
của Lênin: “Tờ báo không chỉ có một số người viết chuyên nghiệp mà trong
mọi điều kiện cách mạng, cơ quan báo chí sẽ sinh động, đầy sinh lực. khi nào
cứ năm nhà văn lãnh đạo và thường xuyên viết sách thì lại có năm trăm và
năm nghìn nhân viên cộng tác không phải là nhà văn” [47,9]. Theo Lªnin, toà
báo hoạt động sôi động khi mỗi nhà báo chuyên nghiệp thiết lập được một
mạng lưới cộng tác viên rộng rãi. Đây cũng là nền tảng cho xã hội hoá báo chí
nói chung và xã hội hoá truyền hình nói riêng.
Tư tưởng Hồ chí Minh về vấn đề tự do báo chí. Năm 1919 tại Paris, nhà
yêu nước Việt Nam Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị quốc tế ở Vécxay bản
Yêu sách 8 điểm của nhân dân Việt Nam. Một trong những yêu sách và cũng
là khát vọng cháy bỏng của người dân Việt Nam lúc đó là được có tự do báo
chí. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân Việt Nam giành
được chính quyền, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với mục
tiêu “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Nguyễn Ái Quốc lúc này là Chủ tịch Hồ
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
8
Chí Minh, khẳng định chế độ mới bảo đảm tự do báo chí. Nước Việt Nam là
một nước dân chủ. Nền báo chí tự do là một trong những nền tảng của một xã
hội dân chủ.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề tự do báo chí
thông qua Luật báo chí được thông qua ngày 28 tháng 12 năm 1989 đã qui
định tại Chương 1, điều 2 như sau: Bảo đảm quyền tự do báo chí, quyền tự do
ngôn luận trên báo chí. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực
hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí
phát huy đúng vai trò của mình.
Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Minh, chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước Việt Nam là nền tảng tư tưởng cho việc xã hội hoá báo chí
nói chung và xã hội hoá truyền hình nói riêng. Trên thực tế, pháp luật Việt
Nam cũng không có điều khoản nào qui định chỉ có những người thuộc biên
chế đài truyền hình, các đơn vị trực thuộc đài truyền hình mới được tham gia
sản xuất chương trình truyền hình. Cũng không có điều luật nào qui định
những người không thuộc biên chế đài truyền hình, các đơn vị không trực
thuộc đài truyền hình không được tham gia sản xuất chương trình truyền hình.
Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn tổng hợp những thông tin trên các phương tiện thông tin đại
chúng khác như báo in, Internet và những nhận xét, đánh giá trong quá trình
tìm hiểu của cá nhân kết hợp với các phuơng pháp phỏng vấn sâu (Lãnh đạo
Đài PT – TH Hà Tây, người chịu trách nhiệm về nội dung của chương trình,
Người tham gia tổ chức sản xuất chương trình), trong luận văn này người viết
cũng sẽ sử dụng các phương pháp quan sát, thống kê, so sánh, phân tích,
đánh giá, điều tra xã hội học và logic lịch sử.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
Luận văn nhằm hệ thống lại những quan điểm liên quan đến vấn đề xã
hội hoá và xã hội hoá truyền hình. Qua tổng kết thực tiễn, nêu vai trò, ý nghĩa
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
9
của xã hội hoá truyền hình trong đời sống xã hội, trên cơ sở đó đưa ra những
nhận xét khoa học về xu hướng dẫn đến xã hội hoá truyền hình trong tương
lai. Kết quả nghiên cứu đề tài này có thể nêu bổ sung một số vấn đề về lý luận
báo chí truyền hình.
Kết quả nghiên cứu có thể giúp cho các nhà lãnh đạo quản lý tham
khảo trong quá trình hoạch định chiến lược, quy hoạch hệ thống truyền hình
trong cả nước, trên cơ sở có tính khoa học về một số xu hướng phát triển tất
yếu của truyền hình thời kỳ phát triển mới của đất nước.
Kết quả nghiên cứu có thể là cơ sở để các đài truyền hình tham khảo
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của mình trong phát triển xã
hội hoá truyền hình, đặc biệt là Đài PT - TH Hà Tây.
7. KÕt cÊu cña luËn v¨n.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ
lục, Luận văn được bố cục làm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn việc xã hội hoá truyền hình.
Chương 2: Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình hiện nay.
Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp xã hội hoá truyền
hình.
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
10
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VIỆC XÃ HỘI HOÁ TRUYỀN HÌNH
1.1 Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1. Một số quan niệm về xã hội hoá:
"Xã hội hoá" đã trở thành một từ được sử dụng rộng rãi, phổ biến và
thịnh hành trong xã hội hiện nay.
Theo từ điển tiếng Việt, Xã hội hoá nghĩa là: Làm cho trở thành của
chung của xã hội. [29,1140].
Từ lăng kính của xã hội học, xã hội hoá là quá trình mỗi người, từ khi
lọt lòng tới lúc già yếu, thâu nhận những kiến thức, kĩ năng, địa vị, lề thói, qui
tắc, giá trị xã hội và hình thành nhân cách của mình.
Trong lịch sử, Mác và Lênin đã đưa ra quan điểm về xã hội hóa, tuy
nhiên các ông chỉ tập trung nghiên cứu về xã hội hoá tư liệu sản xuất trong
chế độ xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm về xã hội hoá của K.Mác:
Từ “xã hội hoá” theo truyền thống có hai nghĩa chính, một nghĩa nhìn
từ phía chủ nghĩa tư bản, một nghĩa nhìn từ phía nhà nước “xã hội chủ nghĩa”.
Xã hội hoá theo Mác là: “sự tiến xa hơn nữa của quá trình xã hội hoá lao
động… thành khai thác xã hội, và do đó, là tư liệu sản xuất chung” và hai
là, “sự tiết kiệm mọi tư liệu sản xuất trong sử dụng như là tư liệu sản xuất của
lao động tập thể. Xã hội hoá cho phép chúng ta hình dung từ “xã hội hoá”
theo nghĩa mặt biểu hiện của lao động tập thể, đã thành đơn vị đo đếm được,
tập hợp được, phân phối được, trả lương hàng loạt được, trên bình diện toàn
xã hội (hay toàn cầu), và vì thế có thể khai thác hay bóc lột được. Tiến trình
xã hội hoá lao động bao gồm sự biến dạng lao động đơn thuần thành lao động
với tư cách tư liệu sản xuất chung, tập thể. Vậy, “xã hội hoá lao động” gồm
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
11
việc biến cá thể độc lập thành chỉ còn một mặt biểu hiện đơn thuần của con
người toàn diện"[7]
Quan điểm về xã hội hoá của Lênin:
Nghĩa thứ hai của khái niệm “xã hội hoá” theo Lênin cũng vẫn đặt trên
cơ sở mặt biểu hiện cấp cao của lao động/tư liệu sản xuất trên bình diện toàn
xã hội trong giai đoạn nhà nước thay mặt xã hội làm chủ, tổ chức lao động,
quản lý sản xuất, “kiểm kê và phân phối hợp lý” tư liệu sản xuất xuyên qua
luật pháp và chính trị, toàn phần hay gần toàn phần. Lênin viết: “Khi chúng ta
vẫn còn trong khuôn khổ sản xuất hàng hoá và tư bản chủ nghĩa, bãi bỏ tư
hữu đất đai là quốc hữu hoá đất đai. Từ „xã hội hoá‟ chỉ biểu lộ khuynh
hướng, ước mơ, một bước sửa soạn tiến tới chủ nghĩa xã hội.” [7]
Đảng cộng sản Việt Nam và vấn đề xã hội hoá:
“Doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ
chức kinh tế phổ biến, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu”
[3,3]. “Xã hội hoá” tiêu biểu bằng loại doanh nghiệp cổ phần. Trong nghĩa
“xã hội hoá sở hữu” doanh nghiệp cổ phần có nhiều người góp vốn làm cổ
phần viên, bầu theo số cổ phiếu.
“Đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, phương pháp giáo dục theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, nâng cao chất lượng dạy và
học”[3,3]. Từ xã hội hoá ở đây được dùng với nghĩa huy động nguồn lực của
toàn dân vào hoạt động của các lĩnh vực này. Như vậy, xã hội hoá là việc đã
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thực hiện trong nhiều lĩnh vực mà trước
hết là trong sản xuất kinh doanh và trong y tế giáo dục. Tuy nhiên hình thức
xã hội hoá đối với mỗi ngành lại có sự khác biệt tuỳ theo đặc trưng của từng
ngành.
Tuy nhiên, thuật ngữ này khiến cho rất nhiều người hiểu lầm. Có người
hiểu xã hội hoá nghĩa là: Xã hội góp tiền vào để làm việc gì đó trong một lĩnh
vực nào đó. Thông thường người ta hiểu “xã hội hoá” một cách phiến diện về
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
12
lý luận, hàm nghĩa là: biến một trách nhiệm nào đó thành trách nhiệm chung
của xã hội. Thực ra đây chỉ là một trong rất nhiều nghĩa của từ này. Một số
người cho rằng, xã hội hóa là tạo điều kiện cho quá trình phát triển tư nhân
mà không chú trọng đến mục tiêu và định hướng xã hội. Một ví dụ tiêu biểu
của sự nhầm lẫn có thể nhắc đến như sau: giáo dục ở Việt Nam vốn là Nhà
nước lo, thì “xã hội hoá giáo dục” nghĩa là mọi người phải tự trả phí.
Vậy xã hội hoá là gì?
Hiện nay còn rất nhiều ý kiến tranh luận về cụm từ "xã hội hoá". Mỗi
người đưa ra quan điểm về xã hội hoá dưới góc nhìn của mình với các đối
tượng xã hội hoá khác nhau. Tuy nhiên, trong luận văn này, thừa nhận cách
hiểu:
Xã hội hoá là huy động nguồn lực của cả xã hội vào một lĩnh vực, một
hoạt động nào đó, mà trước kia chỉ có các đơn vị Nhà nước tham gia.
1.1.2 Xã hội hoá việc sản xuất chƣơng trình truyền hình.
Khái niệm “Xã hội hoá truyền hình” có nội hàm quá rộng và hoàn
toàn có thể có những cách hiểu rất sai lệch. Trong luận văn này, chỉ xin đề cập
đến khái niệm Xã hội hoá việc sản xuất các chương trình truyền hình.
Hiểu theo nghĩa rộng, xã hội hoá việc sản xuất các chương trình
truyền hình là huy động các nguồn lực (nguồn lực sáng tạo và nguồn lực vật
chất) từ các tổ chức, đơn vị, cá nhân ngoài đài truyền hình để sản xuất các
chương trình truyền hình. Cách làm này khác với cách làm chỉ dựa vào nguồn
nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật và ngân sách của bản thân đài truyền hình để
thực hiện sản phẩm truyền hình. Theo nghĩa này thì xã hội hoá việc sản xuất
sản phẩm (chương trình) truyền hình đã diễn ra từ lâu, với các hình thức rất
khác nhau. Nhưng bây giờ việc này tiến hành rộng rãi và có quy mô, hiệu quả
cao hơn.
Từ khía cạnh nguồn lực tài chính, các đài truyền hình đã tự chủ tài
chính như Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình TP Hồ Chí Minh
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
13
dựa vào phương thức này mà trang trải cho toàn bộ hoạt động của mình. Từ
khía cạnh nguồn lực sáng tạo: tỷ lệ các sản phẩm có hàm lượng chất xám của
người ngoài biên chế đài đóng góp là chủ yếu (với sự định hướng, giám sát
của đội ngũ cán bộ thuộc các Đài) ngày càng tăng.
Theo nghĩa hẹp hơn, xã hội hoá việc sản xuất các chương trình, sản
phẩm truyền hình hiểu là: Có các đơn vị, tổ chức, có thể cả cá nhân ngoài đài
cung cấp trọn vẹn sản phẩm theo yêu cầu của đài để phát sóng. Như vậy, sẽ
có nhiều đơn vị thuộc nhiều thành phần kinh tế - xã hội khác nhau thực hiện
trọn gói các sản phẩm truyền hình, nhưng việc phát sóng thì thuộc quyền quản
lý của các đài truyền hình. Mô hình này cho phép xử lý được vấn đề tuân thủ
các quy định về độc quyền Nhà nước về truyền hình trong sở hữu, vận hành,
phát sóng, quản lý nội dung đồng thời huy động được đông đảo các lực lượng
sáng tạo, sản xuất chương trình trong toàn xã hội đóng góp thành quả lao
động của mình vào chương trình phát sóng.
Hiện nay chúng ta đã và đang được nghe nhắc nhiều đến việc mua bản
quyền các chương trình truyền hình, một xu thế chủ yếu thể hiện tính chuyên
nghiệp của ngành truyền hình hiện đại, góp phần đưa truyền hình của ta tiến
kịp và hội nhập với trình độ của thế giới. Đài truyền hình, khi đó không phải
ôm đồm toàn bộ các khâu sản xuất chương trình mà thay vào đó có thể đặt
hàng một số đơn vị bên ngoài (chuyên làm về một lĩnh vực nào đó của truyền
hình) hoặc phối hợp với họ để tổ chức sản xuất chương trình. Điều đó có được
là do ngày nay, chúng ta có ngày càng nhiều các đơn vị bên ngoài, kể cả Nhà
nước và tư nhân có khả năng đảm nhiệm một phần hoặc toàn phần quá trình
tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình. Và đài truyền hình có thể tiếp
nhận các chương trình đủ tiêu chuẩn để phát sóng.
Thực chất, vấn đề kinh tế và chi phí sản xuất là yếu tố chi phối chủ yếu
quá trình xã hội hoá truyền hình ở nước ta. Ở một khía cạnh nào đó, các đơn
vị ngoài đài truyền hình muốn có thể lập công ty, phát triển tổ chức sản xuất
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
14
chương trình truyền hình thì phải đảm bảo vấn đề vốn và kinh phí hoạt động.
Về phía các đài truyền hình, muốn đặt hàng chương trình nào đó để phát sóng
cũng cần phải có sự đảm bảo về kinh phí. Tuy nhiên, cốt lõi của vấn đề xã hội
hoá sản xuất chương trình truyền hình không phải là tiền mà là sự huy động
nguồn lực của các đơn vị, tổ chức, cá nhân không thuộc đài truyền hình tham
gia vào quá trình sản xuất chương trình, nhằm giảm bớt áp lực cho các đài
truyền hình cũng như tạo hiệu quả tốt cho các chương trình truyền hình. Và
tất cả các yếu tố này phải hướng đến một mục tiêu là nâng cao chất lượng các
chương trình, thu hút sự quan tâm và ủng hộ của công chúng.
Xã hội hoá việc sản xuất chương trình truyền hình khác với tư nhân
hoá, thương mại hoá, lại càng không phải là “chia lô sóng truyền hình ra bán”.
Nhiều người đã hết sức lo ngại về hệ quả xu thế xã hội hoá truyền hình. Quan
niệm cho rằng thực chất đây có phải là tư nhân hoá truyền hình, là thương mại
hoá báo chí, là “bán sóng truyền hình” là không chính xác.
Như vậy, xã hội hoá việc sản xuất các chương trình truyền hình là tạo
những điều kiện tốt nhất để các tổ chức cá nhân có thể hợp tác bình đẳng với
các đài truyền hình để sản xuất chương trình truyền hình. Việc cạnh tranh
giữa các chương trình của các đài truyền hình với các đối tác không nằm
trong hệ thống truyền hình hiện nay sẽ góp phần tích cực và lành mạnh vào
việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của các chương trình.
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
15
1.2 Phát triển truyền hình, xã hội hoá truyền hình trƣớc hết phải
dựa trên nền tảng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về báo chí.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng vào quá trình
hoạt động báo chí, truyền hình và xã hội hoá truyền hình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng lỗi lạc, nhà văn hóa lớn và
là một nhà báo vĩ đại. Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để
soi sáng những vấn đề của cách mạng Việt Nam trên mọi lĩnh vực chính trị,
kinh tế, xã hội, trong đó có hoạt động báo chí.
Đánh giá về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp báo chí,
đồng chí Trường Chinh khẳng định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà báo cách
mạng, là người thấy vĩ đại, là người sáng lập và dìu dắt nền báo chí và giới
báo chí cách mạng Việt Nam. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác đều
gắn liền với công tác báo chí. Cho nên, Bác tự nhận mình là một người có
duyên nợ với báo chí và những lời dạy của Bác về công tác báo chí là cả một
kho tàng vô giá về lý luận báo chí cách mạng Việt Nam, thể hiện rõ đường lối
báo chí vô sản của Đảng ta, khắc sâu trong tâm trí những người làm báo
chúng ta” [8,68]
Ngày nay, mỗi người làm báo Việt Nam luôn trân trọng di sản quý giá
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về báo chí, thường xuyên học tập, vận dụng các
quan điểm của Người vào hoạt động lý luận và thực tiễn. Trong hoạt động của
người làm truyền hình cũng không thể thiếu các quan điểm đó. Thực hiện việc
xã hội hoá truyền hình phải biết vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Mnh về
báo chí, phải căn cứ tình hình thực tiễn để đề ra các nhiệm vụ, giải pháp cụ
thể nhằm làm cho truyền hình thực sự trở thành công cụ tuyên truyền đem lại
hiệu quả cao, góp phần nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân,
truyền bá kiến thức chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội sâu rộng.
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
16
Tại Đại hội lần thứ II, Hội Nhà báo Việt Nam, ngày 16-4-1959, Bác
Hồ dặn dò: "Tất cả những người làm báo (người viết, người in, người sửa bài,
người phát hành, v.v.) phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính trị phải
làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được. Cho
nên các báo chí của ta phải có đường lối chính trị đúng Nhiệm vụ của người
làm báo là quan trọng và vẻ vang. Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ ấy thì phải
cố gắng học tập chính trị, nâng cao tư tưởng, đứng vững trên lập trường giai
cấp vô sản; phải nâng cao trình độ văn hóa, phải đi sâu vào nghiệp vụ của
mình” [24,170]. Đây là tư tưởng lớn xuyên suốt toàn bộ đường lối thông tin
đại chúng của Đảng ta trong nhiều thập kỷ, mặc dù cách diễn đạt của từng văn
kiện lúc này, lúc khác không giống nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ
cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”. Để làm tròn nhiệm
vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng,
“Cố gắng trau dồi tư tưởng, nghiệp vụ và văn hóa; chú trọng học tập chính trị
để nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ; đi sâu vào thực
tế, đi sâu vào quần chúng lao động”. Người muốn nhấn mạnh đến tính giai
cấp, tính khuynh hướng chi phối bởi ý thức hệ của các phương tiện thông tin
đại chúng. Bất cứ một phương tiện thông tin đại chúng nào khi lập một
chương trình, xây dựng một chuyên đề, xuất bản một tác phẩm, thể hiện một
đề tài đáp ứng nhu cầu của đối tượng nghe, nhìn đều chịu sự chi phối của
định hướng chính trị.
Tháng 5-1949, trong thư gửi lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng đầu
tiên ở chiến khu Việt Bắc, Người chỉ rõ: “Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên
truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục và tổ chức dân chúng để đưa dân chúng
đến mục đích chung”.
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
17
Nói như nhà nghiên cứu Nguyễn Thành: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là
người Việt Nam đầu tiên nắm vững và sử dụng triệt để báo chí là một thứ vũ
khí hết sức mầu nhiệm trong đấu tranh cách mạng” [40, 343]
Về Hội nhà báo, Người khẳng định: “Nói về Hội nhà báo. Đó là một
tổ chức chính trị và nghiệp vụ. Nhiệm vụ của Hội là phải làm cho hội viên
đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau để nâng cao trình độ chính trị và nghiệp
vụ. Có như thế thì Hội nhà báo mới làm tròn nhiệm vụ của mình và những
người làm báo mới phục vụ tốt nhân dân, phục vụ tốt cách mạng”.
Từ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về người làm báo phải có
lập trường chính trị vững vàng, có thể khẳng định: phẩm chất này có tính
chất quyết định dù trong bất cứ thời điểm lịch sử nào đối với mỗi người làm
báo nói riêng và cả nền báo chí nói chung. Xét về khía cạnh xã hội hoá truyền
hình, những người làm báo phải luôn giữ vững lập trường chính trị. đảm bảo
tính định hướng, mà đỉnh cao là tính Đảng của nền báo chí cách mạng Việt
Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: Nhà báo phải là một con người có
trí thức rất rộng và rất sâu, đặc biệt là có trách nhiệm với công việc của mình,
với sản phẩm của mình, với mọi hiệu quả, hệ quả của sản phẩm đó. Trong thư
Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi lớp viết báo đầu tiên Huỳnh Thúc Kháng, Người
viết: “Muốn viết báo khá thì cần: 1. Gần gũi dân chúng, cứ ngồi trong phòng
giấy mà viết thi không thể viết thiết thực; 2. Ít nhất cũng phải biết một thứ
tiếng nước ngoài để xem báo nước ngoài mà học kinh nghiệm của người; 3.
Khi viết xong một bài, tự mình phải xem lại ba bốn lần, sửa chữa lại cho cẩn
thận. Tốt hơn nữa, là đưa nhờ một vài người ít văn hóa xem và hỏi họ những
câu nào, chữ nào không hiểu thì sửa lại cho dễ hiểu; 4. Luôn luôn gắng học
hỏi, luôn luôn cầu tiến bộ ”
Người có nhiều bài nói về công việc viết báo, chia sẻ kinh nghiệm viết
báo với đồng nghiệp hoặc cán bộ cấp dưới. Trong bài nói chuyện tại Đại hội
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
18
lần thứ III của Hội Nhà báo Việt Nam ngày 8-9-1962, Bác nói: "Kinh nghiệm
của tôi là thế này: Mỗi khi viết một bài báo, thì đặt câu hỏi: Viết cho ai xem?
Viết để làm gì? Viết thế nào cho phổ thông dễ hiểu, ngắn gọn dễ đọc? Khi
viết xong, thì nhờ anh em xem và sửa giùm.
Báo chí là một hình thức đặc biệt của giao tiếp ngôn ngữ. Chủ tịch Hồ
Chí Minh xác định:
1- Viết cái gì? Viết những cái hay, cái tốt của dân ta, của bộ đội ta, của
bạn bè ta. Đồng thời để phê bình khuyết điểm của chúng ta, của cán bộ, nhân
dân, bộ đội.
2- Viết cho ai? Viết cho công - nông - binh, viết cho mọi tầng lớp người
Việt Nam, không phân biệt già trẻ, nam nữ, tôn giáo, đảng phái.
3- Viết để làm gì? Viết để tuyên truyền, để giác ngộ, để đoàn kết, để
thức tỉnh quần chúng
4- Viết thế nào? Viết phải gọn gàng, sáng sủa, mạch lạc, có đầu có
đuôi, có nội dung.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói và viết cho công – nông - binh, tức là cho
đại đa số nhân dân. Vì xác định được đối tượng của báo chí nên Người luôn
tâm niệm "Viết và nói phải có mục đích, có nội dung". Chính vì thế mà Người
nói và viết dù chỉ một câu cũng làm cho người dân bình thường nhất hiểu và
làm theo được. Trả lời câu tự hỏi: "Nói và viết như thế nào?", Người khẳng
định: "Viết thế nào cho phổ thông, dễ hiểu". Bởi vì, với đối tượng là quần
chúng và mục đích là vì nhiệm vụ cách mạng, thì tính phổ thông, dễ hiểu là
cách giao tiếp chủ yếu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh thước đo hiệu quả của báo chí chính
là nhận thức của công chúng. “Nếu các bạn viết báo mà quần chúng hiểu,
quần chúng ham đọc, quần chúng khen hay, thế là các bạn tiến bộ. Trái lại –
là các bạn chưa thành công”[ 24,141].
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
19
Ngày nay, xã hội phát triển mạnh mẽ, nếu thiếu kiến thức, người làm
truyền hình không thể làm chủ được quá trình xã hội hoá. Rất nhiều lĩnh vực
đòi hỏi người làm báo phải có kiến thức để dẫn dắt, định hướng cho các đối
tượng, các thành phần tham gia xã hội hoá cả về nội dung chương trình, cả
về những điều kiện kinh tế, xã hội phục vụ cho mỗi chương trình. Và cao hơn
thế, đó chính là dẫn dắt định hướng cho khán giả.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Thông tin báo chi phải chân thực,
chính xác, cẩn thận về nội dung và hình thức. Ngày 8-1-1946, Bác căn dặn
các cán bộ tuyên truyền: "Tuyên truyền, anh em nên chú ý một điều này nữa
là bao giờ ta cũng tôn trọng sự thực. Có nói sự thực thì việc tuyên truyền của
mình mới có nhiều người nghe. Ta đừng bắt chước những nước tuyên truyền
tin chiến tranh quá sai lạc sự thực"
Tính chân thật luôn được xem là đạo đức của người làm báo cách
mạng. Vì thế, báo chí cách mạng Việt Nam là tiếng nói của Đảng và là diễn
đàn của nhân dân. Báo chí đã phản ánh những ý kiến xây dựng của nhân dân,
nói lên tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của dân đối với công cuộc xây dựng
đất nước. Đồng thời báo chí cũng quyết liệt chống nạn tham nhũng, buôn lậu;
chống lại tội ác và các tệ nạn xã hội; chống lại những biểu hiện tha hóa, sa sút
về phẩm chất, đạo đức và lối sống. Với việc làm đó, báo chí đã đem đến cho
công chúng niềm tin ở sự thật, tin ở sự nghiêm minh của pháp luật, đặc biệt
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào truyền thống cách mạng và nhân
văn của nhân dân ta.
Theo Bác nhà báo viết phải “chân thực” - chân thực là sức mạnh vì nó
có lòng tin. Mỗi bài viết của phóng viên phải bắt nguồn từ thực tế cuộc sống
với những con số, những sự kiện đã được xem xét kiểm tra, chọn lọc. Bài viết
phải đem lại cho người đọc lượng thông tin cao và chính xác. Viết phải đúng
sự thật, không được bịa ra, không nên nói ẩu, chưa điều tra, chưa nghiên cứu,
chưa biết rõ, chớ nói, chớ viết.
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
20
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhận định: "Báo chí của ta đã có một địa
vị quan trọng trong dư luận thế giới. Địch rất chú ý, bạn rất quan tâm đến báo
chí ta. Cho nên làm báo phải hết sức cẩn thận về hình thức, về nội dung và
cách viết". Nhận định này của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đến nay vẫn còn
nguyên giá trị, mặc dù các phương tiện thông tin đại chúng đã được phát triển
cả chiều rộng lẫn chiều sâu, cả loại hình lẫn tần số xuất bản. Tư tưởng này
được các Đại hội Đảng trước đây đề cập và đặc biệt là Nghị quyết Trung
ương 5 khóa VIII: "Xây dựng và từng bước thực hiện chiến lược truyền thông
quốc gia phù hợp đặc điểm nước ta và xu thế phát triển thông tin đại chúng
của thế giới. Đẩy mạnh thông tin đối ngoại. Tận dụng thành tựu của mạng
Internet để giới thiệu công cuộc đổi mới và văn hóa Việt Nam với thế giới,
đồng thời có biện pháp hiệu quả ngăn chặn, hạn chế tác dụng tiêu cực qua
mạng Internet cũng như qua các phương tiện thông tin khác".
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: người làm báo phải viết có bố cục
ngắn gọn, ngôn ngữ trong sáng, giản dị, dễ hiểu. Thứ nhất, ngắn gọn không có
nghĩa là cộc lốc mà ngắn gọn là gọn gàng, rõ ràng, có đầu, có đuôi, có nội
dung thiết thực, thấm thía, chắc chắn.
Thứ hai, ngôn ngữ phải “trong sáng - giản dị - dễ hiểu”. Theo
Người, muốn viết được trong sáng, giản dị, dễ hiểu, trước hết nhà báo phải
học cách nói của quần chúng. Phải thực sự học quần chúng để có cách viết
được quần chúng chấp nhận như những gì của chính họ. Sự trong sáng, giản
dị, dễ hiểu là bắt nguồn từ sự hiểu biết thấu đáo, bản chất của sự vật, từ sự gắn
bó với truyền thống dân tộc trong cách cảm, nếp nghĩ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không những am hiểu ngôn từ của nhiều dân
tộc mà còn là bậc thầy về sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt. Người đề cao và
khẳng định: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của
dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
21
càng rộng khắp. Của mình có mà không dùng, lại đi mượn của nước ngoài, đó
chẳng phải là đầu óc quen ỷ lại hay sao?”
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: cần nâng cao hơn nữa chất lượng
của báo chí để nó làm tròn nhiệm vụ cao cả của nó. Nhiệm vụ của báo chí là
phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng.
Chất lượng của báo chí ở đây Bác muốn nói đến nội dung bài viết và
cả cách bố trí, trình bày. "Các báo thường có ảnh và tranh vẽ. Đó là một tiến
bộ nhưng ảnh thì thường lèm nhèm, vẽ thì chưa khéo lắm. Cần phải cố gắng
nhiều hơn nữa". Đó vừa là câu động viên, vừa là lời nhắc nhở bởi vì những
phương tiện thông tin đại chúng những năm 60 còn nhiều yếu kém. Hội nghị
Trung ương 5 (khoá VIII) nhấn mạnh đến vai trò của công nghệ mới trong
lĩnh vực thông tin đại chúng: "Sắp xếp lại và quy hoạch hợp lý hệ thống
truyền hình, phát thanh, thông tấn, báo chí, xuất bản, thông tin mạng nhằm
tăng hiệu quả thông tin, tránh lãng phí ”; "Không ngừng nâng cao trình độ
chính trị và nghề nghiệp, chất lượng tư tưởng, văn hóa của hệ thống thông tin
đại chúng. Khắc phục xu hướng thương mại hóa trong hoạt động báo chí xuất
bản".
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo chí là vũ khí đấu tranh cách mạng.
Người là người thầy của các thế hệ nhà báo. Những lời dạy của Người đối với
các nhà báo luôn là những lời dạy quý báu, được truyền từ thế hệ nhà báo
hôm nay đến thế hệ các nhà báo mai sau.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí thực sự đã trở thành kim chỉ nam
cho những người làm báo Việt Nam. Trong hướng đi chung của báo chí, xã
hội hoá truyền hình là một hướng đi tất yếu. Việc vận dụng sáng tạo tư tưởng
Hồ Chí Minh về báo chí sẽ là điều kiện tiên quyết để những người làm truyền
hình mạnh dạn và chủ động thực hiện lộ trình xã hội hoá, nhằm từng bước
hoàn thiện và khẳng định một chủ truơng đúng đắn, đem lại hiệu quả và lợi
ích thiết thực cho công chúng. Ở Việt Nam, trong điều kiện xã hội hoá truyền
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
22
hình, các yêu cầu về tính tư tưởng phải đảm bảo đúng định hướng tư tưởng
Hồ Chí Minh về báo chí.
1.3 Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về báo chí. Định
hƣớng phát triển báo chí trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nƣớc.
Trong suốt quá trình lãnh đạo Cách mạng, Đảng ta luôn luôn khẳng
định công tác báo chí là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng trong toàn bộ công
tác tư tưởng của Đảng, nhất là trong những giai đoạn có ý nghĩa bước ngoặt
của Cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng
như Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Trường
Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng đều là những nhà báo
xuất sắc. Báo chí cách mạng của chúng ta thật sự là ''người tuyên truyền tập
thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể'' các phong trào hành động cách mạng của
nhân dân do Đảng ta lãnh đạo. Nhiều nhà báo xứng đáng với danh hiệu cao
quý "Nhà báo - chiến sĩ'', nhiều người đã anh dũng hy sinh, đã cống hiến
xương máu và tuổi thanh xuân đầy nhiệt huyết của mình cho sự nghiệp cách
mạng của Đảng, của dân tộc. Báo chí cách mạng Việt Nam được hun đúc và
trưởng thành trong quá trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của Đảng ta, nhân
dân ta, cống hiến xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đảng lãnh đạo và chỉ đạo hoạt động báo chí là một trong những công
tác lãnh đạo của Đảng. Báo chí hoạt động dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo của
Đảng cũng là một trong những nguyên tắc của hoạt động báo chí. Hai mối
quan hệ này không tách rời nhau, tác động phụ thuộc vào nhau.
Phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương
Đảng (khoá X), Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh khẳng định: "Công tác tư
tưởng, lý luận, báo chí là lĩnh vực quan trọng trong toàn bộ hoạt động của
Đảng. Trước những đòi hỏi, yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong những
năm tới, Đại hội X của Đảng đã đề ra những yêu cầu mới đối với công tác tư
Xó hi hoỏ sn xut chng trỡnh truyn hỡnh
23
tng, lý lun, bỏo chớ, ũi hi ton ng cn tip tc nm vng, phỏt huy vai
trũ to ln ca cỏc lnh vc cụng tỏc ny".
Cụng tỏc bỏo chớ cn khc phc bng c nhng khuyt im kộo
di, bo m bỏo chớ l ting núi ca ng, ca Nh nc, ca t chc chớnh
tr - xó hi v l din n ca nhõn dõn di s lónh o trc tip ca ng,
s qun lý ca Nh nc v hot ng trong khuụn kh ca phỏp lut. Bỏo
chớ phi bo m tớnh t tng, tớnh trung thc, tớnh nhõn dõn, tớnh chin u
v tớnh a dng; cú trỏch nhim ln trong vic hỡnh thnh v hng dn d
lun xó hi tớch cc, lnh mnh, gúp phn tng cng s on kt, nht trớ v
t tng, chớnh tr v tinh thn trong nhõn dõn.
"Cụng tỏc lý lun, t tng, bỏo chớ phi bỏm sỏt thc tin, lng nghe
tõm t, nguyn vng v nhng vng mc trong t tng ca cỏn b, ng
viờn v nhõn dõn gii ỏp sỏt thc, kp thi; u tranh khc phc nhng
biu hin phai nht lý tng, c hi, chy theo li ớch cỏ nhõn; ch ng v
kiờn quyt phờ phỏn nhng quan im sai trỏi, bỏc b nhng lun im phn
ng, gúp phn lm tht bi mi mu toan "din bin ho bỡnh", bo lon, lt
ca cỏc th lc thự ch".
Cụng tỏc t tng, lý lun l b phn cu thnh c bit quan trng
trong ton b hot ng cỏch mng ca éng, phi th hin vai trũ i trc,
m ng trong s nghip xõy dng v bo v T quc. L v khớ sc bộn
trờn mt trn t tng - vn húa, bỏo chớ cú vai trũ ln trong vic hỡnh thnh
v hng dn d lun xó hi lnh mnh, gúp phn tng cng on kt nht
trớ, ng thun v t tng, tinh thn trong nhõn dõn.
Do vai trũ, v trớ quan trng nh- vậy nên Đảng ta luôn xác định tip tc
i mi t duy v tng cng s lónh o ca éng trờn lnh vc t tng, lý
lun, bỏo chớ; thc hnh dõn ch, ci m; chnh n, i mi cụng tỏc o
to, bi dng, phỏt trin i ng cỏn b; nhanh chúng khc phc cỏc khuyt
im, yu kộm trong cụng tỏc lónh o ca éng, qun lý ca Nh nc i
Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình
24
với công tác tư tưởng, lý luận, báo chí để góp phần ngăn chặn, khắc phục tình
trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống.
Trong Diễn văn Bế mạc Hội nghị Ban chÊp hµnh TW 5, đồng chí Tổng
Bí thư Nông Ðức Mạnh đã chỉ đạo: phải "tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về
chính trị, tư tưởng và tổ chức trong các cơ quan báo chí; khắc phục những
biểu hiện lệch lạc trong hoạt động báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, nhất
là xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo thị hiếu thấp kém, vì lợi ích vật chất cá
nhân, cục bộ".
Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội X của Đảng và các quan điểm chỉ
đạo của Đảng, Nhà nước ta về tăng cường công tác quản lý báo chí (thể hiện
qua: Chỉ thị 22/CT-TW của Bộ Chính trị khóa VIII; Thông báo số 162-
TB/TW của Bộ Chính trị khóa IX; Thông báo số 41 TB/TW và Thông báo số
68-TB/TW của Bộ Chính trị khóa X; Quyết định số 388/QĐ-CP và Chỉ thị số
37/2006/TC-TTg của Thủ tướng Chính phủ), để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
đổi mới đất nước, giao lưu, hội nhập với bên ngoài, trong thời gian tới, cơ
quan quản lý nhà nước về báo chí sẽ tiếp tục rà soát và hoàn thiện hệ thống
văn bản pháp luật về báo chí. Có kế hoạch tổng kết, đánh giá việc thực hiện
Luật Báo chí và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để đề xuất việc
sửa đổi, bổ sung phù hợp với yêu cầu thực tiễn công tác quản lý báo chí và
hoạt động báo chí. Có hình thức biểu dương, khen thưởng kịp thời các cơ
quan báo chí và nhà báo hoàn thành tốt nhiệm vụ, thực hiện nghiêm tôn chỉ,
mục đích, thông tin đạt hiệu quả cao, có sáng kiến và thành tích trong việc
định hướng, tạo dư luận, tạo phong trào hành động cách mạng trong đời sống
xã hội. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý kịp thời, kiên quyết,
nghiêm minh các cơ quan báo chí và nhà báo có sai phạm. Đối với trường hợp
vi phạm kéo dài, lặp đi lặp lại phải đình chỉ hoạt động để kiện toàn, củng cố.
§ánh giá tình hình hoạt động của các cơ quan báo chí thường để xảy ra sai
phạm, các cơ quan báo chí có xu hướng thoát ly sự quản lý của các cơ quan