MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................1
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ...........................................................3
BẢNG TỪ NGỮ VIẾT TẮT................................................................................4
LỜI NÓI ĐẦU.......................................................................................................5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ SỰ CẦN THIẾT THỰC HIỆN CAM KẾT
VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ TẠI VIỆT NAM.............................................................1
1.1. Cơ sở lý luận về sở hữu trí tuệ.......................................................................1
1.1.1. Khái niệm về sở hữu trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ...............................1
1.1.2. Các hình thức cơ bản của sở hữu trí tuệ.................................................5
1.1.2.1. Bản quyền.......................................................................................5
1.1.2.2. Bằng sáng chế.................................................................................6
1.1.2.3. Giấy chứng nhận bản quyền............................................................7
1.1.2.4. Bí mật thương mại..........................................................................7
1.1.2.5. Nhãn hiệu.......................................................................................8
1.1.3. Vai trò của việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với việc phát triển
kinh tế - xã hội..................................................................................................9
1.2. Kinh nghiệm quốc tế về việc thực hiện cam kết về sở hữu trí tuệ...............12
1.2.1. Kinh nghiệm thực thi các cam kết về sở hữu trí tuệ của Trung Quốc. .13
1.2.2. Kinh nghiệm trong việc quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ tại Hàn
Quốc................................................................................................................17
1.2.3. Kinh nghiệm xây dựng và thực thi hệ thống bảo hộ quyền SHTT của
Nhật Bản.........................................................................................................19
1.2.4. Kinh nghiệm trong xây dựng pháp luật và thực thi về SHTT của Hoa
Kỳ...................................................................................................................22
1.3. Sự cần thiết thực thi hiệp định về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam....................24
CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CAM KẾT VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ
TẠI VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO............................................................27
2.1. Khái quát về quá trình thực hiện các cam kết về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam
.............................................................................................................................27
2.1.1. Giai đoạn trước khi Việt Nam gia nhập WTO......................................27
2.1.2. Giai đoạn sau khi Việt Nam gia nhập WTO.........................................30
2.2. Các quy định về SHTT của Việt Nam khi gia nhập WTO...........................31
1
2.2.1. Các cam kết quốc tế về SHTT của Việt Nam.......................................33
2.2.2. Các quy định về SHTT của Việt Nam khi gia nhập WTO...................34
2.2.2.1. Về bản quyền tác giả và các quyền liên quan...............................36
2.2.2.2. Về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp...........................................37
2.3. Tình hình thực thi các cam kết về SHTT tại Việt Nam................................41
2.3.1. Hoạt động đăng ký xác lập quyền SHTT..............................................41
2.3.2. Tình hình vi phạm quyền SHTT...........................................................48
2.3.3. Tình hình xử lý vi phạm quyền SHTT..................................................49
2.4. Đánh giá về việc thực hiện các cam kết về SHTT của Việt Nam sau khi gia
nhập WTO...........................................................................................................54
2.4.1. Những thành công trong việc thực hiện các cam kết về SHTT của Việt
Nam sau khi gia nhập WTO...........................................................................54
2.4.2. Những mặt hạn chế trong việc thực hiện các cam kết về SHTT của Việt
Nam sau khi gia nhập WTO...........................................................................55
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện các cam kết về
SHTT của Việt Nam sau khi gia nhập WTO..................................................58
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CÁC CAM KẾT VỀ
SỞ HỮU TRÍ TUỆ TẠI VIỆT NAM..................................................................61
3.1. Xu hướng thực hiện các cam kết về sở hữu trí tuệ trong những năm tới.....61
3.1.1. Sự phát triển của lĩnh vực SHTT..........................................................61
3.1.2. Xu hướng thực hiện các cam kết về sở hữu trí tuệ...............................63
3.2. Những cơ hội và thách thức trong việc thực hiện cam kết về SHTT tại Việt
Nam.....................................................................................................................65
3.2.1. Những cơ hội........................................................................................65
3.2.2. Những thách thức.................................................................................67
3.3. Một số giải pháp tăng cường thực hiện các cam kết về SHTT tại Việt Nam
.............................................................................................................................70
3.3.1. Về phía chính phủ.................................................................................71
3.3.2. Về phía doanh nghiệp...........................................................................76
KẾT LUẬN.........................................................................................................79
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................80
2
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ
- Bảng
Bảng 1: Tóm tắt các quy định về quyền sở hữu trí tuệ qua các giai đoạn..........31
- Hộp
Hộp 1 : Tình huống về xâm phạm nhãn hiệu HWASUNG..............................50
- Hình
Hình 1 : Số bản quyền tác giả được cấp qua các năm.........................................43
Hình 2: So sánh tỷ lệ nộp đơn yêu cầu bảo hộ sáng chế/GPHI, kiểu dáng công
nghiệp, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý, bố trí mạch tích hợp năm 2008..................44
Hình 3: Số lượng đơn yêu cầu bảo hộ sáng chế và giải pháp hữu ích.................45
Hình 4: Tỷ lệ số bằng sáng chế và giải pháp hữu ích đã được cấp.....................46
Hình 5: Tăng trưởng số lượng giấy chứng nhận đăng ký....................................47
Hình 6: Tỷ lệ đơn yêu cầu bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và số bằng độc quyền
kiểu dáng công nghiệp đã được cấp qua các năm 1989 - 2008...........................48
3
BẢNG TỪ NGỮ VIẾT TẮT
AFTA
Khu vực mậu dịch tự do Đơng Nam Á
APEC
Diễn đàn Châu Á – Thái Bình Dương
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
CDB
Công ước về đa dạng sinh học
CNTT
Công nghệ thông tin
GATS
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
GATT
Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch
IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế
SHTT
Sở hữu trí tuệ
TRIPS
Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền
sở hữu trí tuệ
UCC
Cơng ước quyền tác giả tồn cầu
UPOV
Cơng ước quốc tế về bảo vệ các giống cây trồng mới
WB
Ngân hàng thế giới
WIPO
Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
4
LỜI NÓI ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Sau hơn hai thập kỷ kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới và chính sách mở
cửa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành công đáng kể, đặc biệt là
những năm gần đây, Việt Nam đang tích cực và chủ động hội nhập sâu, rộng
vào nền kinh tế quốc tế. Trước hết là việc thiết lập các mối quan hệ tài chính với
các tổ chức tài chính - tiền tệ thế giới như: Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân
hàng Thế giới (W B), thành viên chính thức của hiệp hội các Quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN), tham gia các diễn đàn kinh tế: Diễn đàn Á-Âu, Diễn đàn kinh
tế Châu Á – Thái Bình Dương APEC, tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA)... gần đây nhất là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Theo lộ trình hội nhập như vậy, chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục mở cửa thị
trường ở hầu hết các lĩnh vực. Tuy nhiên, Việt Nam mới phần nào đáp ứng được
yêu cầu hội nhập quốc tế, thể chế pháp luật đang trong quá trình xây dựng và
hồn thiện để phù hợp hơn với thơng lệ quốc tế, đảm bảo mơi trường kinh tế,
chính trị và các chính sách phải được minh bạch, rõ ràng tạo điều kiện cho công
tác quản lý của Nhà nước và hoạt động của doanh nghiệp.
Sở hữu trí tuệ là nội dung quan trọng trong các cam kết quốc tế, hiệp định
song phương và khu vực và là một trong ba lĩnh vực chính cùng với thương mại
hàng hóa, thương mại dịch vụ tạo nên 3 trụ cột chính của WTO (GATT, GATS
và TRIPS). Khi giá trị kinh tế của những tài sản trí tuệ như Bằng sang chế,
Thương hiệu ngày càng tăng, kéo theo tình trạng vi phạm luật sở hữu trí tuệ
dưới các hình thức như sao chép mẫu mã sản phẩm hoặc nhái thương hiệu,
những nhà sản xuất chân chính bị tổn thất nặng về uy tín và kinh tế bởi hàng
nhái, bởi sự thu hẹp thị trường. Vì vậy, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng đặt ra
những yêu cầu ngày càng cao, với những đòi hỏi chặt chẽ, khắt khe hơn nhằm
bảo hộ rộng hơn, có hiệu quả hơn các đối tượng sở hữu trí tuệ.
Trong thời gian đầu của quá trình gia nhập WTO, SHTT được đánh giá là
vấn đề nhạy cảm có ảnh hưởng trực tiếp tới nhiều lĩnh vực khác nhau như
hoạt động đầu tư nước ngoài, hoạt động kinh doanh, thương mại của doanh
nghiệp. Song trên thực tế, đây là một vấn đề mới và chưa nhận thức đầy đủ
đối với Việt Nam đặc biệt từ phía doanh nghiệp. Việc nghiên cứu tìm hiểu
việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong WTO về SHTT nhằm hạn chế
những điểm tồn tại và tối đa hóa lợi ích gia nhập WTO mang lại cho nền kinh
tế.
5
Xuất phát từ nhu cầu trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Tăng cường thực hiện
các cam kết về quyền SHTT khi Việt Nam là thành viên của WTO”
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐÀO TẠO
Trong nước: Đã có nhiều nghiên cứu về sở hữu trí tuệ tuy nhiên hiện vẫn
cịn thiếu những nghiên cứu hệ thống, sát thực và toàn diện về vấn đề thực thi
các cam kết của WTO về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam.
Ngồi nước: Hầu hết các quốc gia lớn trên thế giới và trong khu vực đều đã
có những nghiên cứu phân tích, đánh giá kỹ lưỡng về vấn đề sở hữu trí tuệ trong
khn khổ WTO và những tác động của nó tới nền kinh tế cụ thể của nước đó,
tuy nhiên vẫn chưa có những đánh giá cụ thể đối với Việt Nam.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu: Phân tích tình hình thực hiện cam kết về sơ hữu
trí tuệ tại Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thực hiện các
cam kết về SHTT tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn như sau:
Một là: hệ thống hóa nội dung về SHTT và kinh nghiệm thực hiện các cam
kết về SHTT của một số nước đã là thành viên của WTO.
Hai là: Phân tích tình hình thực hiện các cam kết về sở hữu trí tuệ tại Việt
Nam trong giai đoạn nghiên cứu, từ đó rút ra những ưu điểm và tồn tại và
nguyên nhân làm cơ sở đưa ra các đề xuất khắc phục những tồn tại đó và tăng
cường thực hiện các cam kết về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam.
Ba là: Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thực hiện các cam kết về
sở hữu trí tuệ tại Việt Nam
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Các cam kết về SHTT của Việt Nam trước và
sau khi gia nhập WTO
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về khơng gian: Luận văn tập trung nghiên cứu về tình hình thực hiện cam
kết về SHTT tại Việt Nam.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu về tình hình thực hiện cam kết về SHTT
tại Việt Nam từ năm 1995 cho đến nay. Thời gian nghiên cứu chia thành 2 giai
đoạn: Từ năm 1995 đến thời điểm Việt Nam chính thức là thành viên của WTO
(11/1/2007) và từ 11/1/2007 cho đến nay.
6
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra, luận văn áp dụng
phương pháp hệ thống hố, phân tích và tổng hợp kinh nghiệm quốc tế và trong
nước dựa trên cách tiếp cận liên ngành xã hội học-kinh tế học phục vụ cho việc
phân tích và đánh giá việc thực hiện các cam kết về SHTT tại Việt Nam.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1. Cơ sở lý luận và sự cần thiết thực hiện cam kết về SHTT tại
Việt Nam
- Chương 2. Tình hình thực hiện cam kết về SHTT khi Việt Nam gia nhập
WTO.
- Chương 3. Giải pháp tăng cường thực hiện các cam kết về SHTT khi Việt
Nam gia nhập WTO
7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ SỰ CẦN THIẾT
THỰC HIỆN CAM KẾT VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ TẠI VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận về sở hữu trí tuệ
1.1.1. Khái niệm về sở hữu trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ
Mặc dù có rất nhiều hiệp định và các công ước quốc tế về SHTT, nhưng
không một văn bản nào đề cập đến định nghĩa của cụm từ này, có chăng chỉ là
liệt kê các phạm trù của SHTT một cách khái qt. Vì vậy, có thể hiểu sở hữu trí
tuệ (hay tài sản trí tuệ) là một khái niệm đề cập đến sự sáng tạo của tư duy theo
nghĩa rộng bao gồm các phát minh, cơng trình văn học nghệ thuật, các biểu
tượng, tên, hình ảnh và thiết kế được sử dụng trong thương mại… Sở hữu trí tuệ
liên quan đến các dạng thức của thơng tin và tri thức, có thể được thể hiện trong
những vật thể hữu hình đồng thời được nhân bản thành vơ số bản sao ở bất kỳ
đâu trên thế giới. Tuy nhiên, khái niệm tài sản được đề cập đến ở đây khơng
phải là những bản sao đó mà là lượng thông tin và tri thức chứa đựng trong
chúng. Do vậy, sở hữu trí tuệ là một loại tài sản vơ hình. Do được hiểu theo
nghĩa rộng và mở nên ngay cả Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) cũng
không đưa ra định nghĩa về SHTT mà chỉ đưa ra khái niệm về quyền sở hữu trí
tuệ - quyền đối với các tài sản trí tuệ.1
Theo Điều 2 (viii) của Công ước thành lập WIPO được ký tại Stockholm vào
ngày 14 tháng 7 năm 1967 quy định rằng quyền sở hữu trí tuệ bao gồm các
quyền đối với:
(1) Các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học;
(2) Sự thể hiện của các nghệ sĩ biểu diễn, ghi âm, ghi hình, truyền thanh,
truyền hình;
(3) Các sáng chế thuộc mọi lĩnh vực hoạt động của con người;
(4) Phát minh khoa học; kiểu dáng cơng nghiệp;
(5) Nhãn hiệu hàng hố, nhãn hiệu dịch vụ, tên và chỉ dẫn thương mại;
(6) Bảo vệ chống cạnh tranh không lành mạnh
và
(7) Mọi quyền khác là kết quả của hoạt động trí tuệ trong các lĩnh vực công
nghệ, khoa học, văn học, nghệ thuật.
Sau này, quyền SHTT còn được mở rộng them bao gồm quyền đối với giống
1
Theo
1
cây trồng, mạch tích hợp bán đẫn, bí mật thương mại và thơng tin bí mật và thể
hiện nghệ thuật truyền thống dân gian. Danh mục này được bổ sung một cách
đầy đủ hơn trong phần II của Hiệp định TRIPS như là đối tượng của Hiệp định.
Sở hữu trí tuệ thường được chia làm hai nhánh, cụ thể là: sở hữu công nghiệp
và quyền tác giả và quyền liên quan tới quyền tác giả (mục 1 và 2). Tầm quan
trọng của việc bảo hộ sở hữu trí tuệ được công nhận lần đầu tiên trong Công ước
Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1883 và Công ước Berne về bảo
hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật năm 1886. Cả hai công ước này hiện nay
đều do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) thực thi. Trong đó, các phạm trù
của sở hữu trí tuệ được định nghĩa như sau:
* Quyền tác giả và quyền liên quan: Đối tượng của bảo hộ quyền tác giả là
các ấn phẩm văn học hoặc nghệ thuật, các bản vẽ kỹ thuật, bản đồ, tranh và cả
các tác phẩm ba chiều như các tác phẩm điêu khắc và kiến trúc, các bức ảnh và
các tác phẩm điện ảnh, gần đây, sự bảo hộ quyền tác giả còn được mở rộng tới
chương trình máy tính và sưu tập dữ liệu, những đối tượng được coi như là các
tác phẩm văn học hoặc các bộ sưu tập các tác phẩm văn học. Theo đó, chủ sở
hữu quyền tác giả có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả có quyền
ngăn cấm (loại trừ) người khác khai thác tác phẩm nếu khơng có sự cho phép.
Ngồi ra, theo Cơng ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ
thuật còn thừa nhận một số “quyền nhân thân”. Những quyền này gồm quyền
được đứng tên tác giả của tác phẩm và quyền chống lại mọi sự xuyên tạc, cắt
xén hoặc sự thay đổi bất kỳ khác, hoặc những hành động khác gây phương hại
đến danh dự và uy tín của tác giả. Các quyền nhân thân này thường gắn liền với
tác giả, kể cả trong trường hợp một số quyền kinh tế nêu trên đã được chuyển
giao. Quyền nhân thân có thể sẽ trở nên phù hợp khi bên nhận nhượng quyền
kinh doanh tiến hành sửa đổi tài liệu được bên nhượng quyền kinh doanh cung
cấp.
Có ba loại quyền liên quan đến quyền tác giả. Đó là, quyền của nghệ sĩ biểu
diễn đối với chương trình biểu diễn, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, và
quyền của các tổ chức phát sóng đối với các chương trình phát thanh và truyền
hình.
Trong trường hợp nhượng quyền kinh doanh, quyền tác giả bảo hộ các tài
liệu hướng dẫn hoạt động kinh doanh, tài liệu quảng cáo và một số tài liệu khác
được bên nhượng quyền cung cấp. Trong các hoạt động nhượng quyền, các vấn
đề về quyền liên quan có thể nảy sinh khi các bản nhạc được sử dụng trong cơ
sở kinh doanh nhượng quyền.
2
* Nhãn hiệu: Giống như quyền tác giả, sáng chế và kiểu dáng công nghiệp,
hầu hết các nước đều ban hành luật về đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu. Nhãn hiệu
là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp này
với các sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp khác. Ban đầu, nhãn hiệu được
bảo hộ đối với việc sử dụng liên quan đến hàng hóa, nhưng trong những năm
gần đây thì nhãn hiệu cũng được sử dụng đối với dịch vụ.
Một số nước cũng quy định đăng ký nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng
nhận. Nhãn hiệu tập thể được sử dụng bởi một nhóm hay một tổ chức để phân
biệt các đặc trưng của sản phẩm được nhóm hay tổ chức đó sử dụng. Nhãn hiệu
chứng nhận có thể có chức năng giống như nhãn hiệu tập thể, nhưng có thêm
một đặc điểm khác là những người sử dụng nhãn hiệu chứng nhận đó phải đáp
ứng tiêu chuẩn quy định cho hàng hóa hoặc dịch vụ.
* Chỉ dẫn địa lý: Là một dạng đặc biệt của nhãn hiệu, được xác định với
danh nghĩa là đối tượng của một hệ thống bảo hộ riêng, là những dấu hiệu xác
định một sản phẩm hoặc dịch vụ có xuất xứ từ một quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc
địa phương cụ thể.
* Thông tin bí mật (bí mật kinh doanh): Để được bảo hộ dưới dạng thơng
tin bí mật, thơng tin đó: (i) nhất thiết phải có tính bí mật (tức là, đó không thể là
thông tin mà công chúng đã biết); (ii) bắt buộc người biết được thơng tin đó
trong những hồn cảnh nhất định phải có nghĩa vụ bảo mật (ví dụ, trường hợp
một người được thông báo rằng thông tin mà họ được truyền đạt là thơng tin bí
mật), hoặc khi mà mối quan hệ của các bên có tính bí mật (ví dụ, quan hệ giữa
khách hàng và luật sư) hoặc (iii) đã được sử dụng để gây thiệt hại cho bên thơng
báo thơng tin đó.
* Sáng chế: thường được định nghĩa là một ý tưởng cho phép giải quyết một
vấn đề trong một lĩnh vực kỹ thuật. Một sáng chế được coi là có ‘trình độ sáng
tạo’ nếu căn cứ vào tình trạng kỹ thuật, sáng chế đó khơng hiển nhiên đối với
một người có kỹ năng trung bình trong lĩnh vực kỹ thuật tương ứng. Nói cách
khác, sáng chế phải là một cải tiến sáng tạo dựa trên những kiến thức đã có. Yêu
cầu sáng chế có “khả năng áp dụng công nghiệp” nhằm loại trừ việc bảo hộ độc
quyền sáng chế đối với các sáng chế mang tính lý thuyết thuần t mà khơng thể
thực hiện được trong thực tiễn. Khái niệm khả năng áp dụng phải mang tính
cơng nghiệp hàm ý quy mơ thương mại của việc áp dụng sáng chế. Cũng nằm
trong khái niệm “công nghiệp” là các hoạt động nông nghiệp, ngư nghiệp và các
hoạt động khai khống.
* Kiểu dáng cơng nghiệp: Kiểu dáng cơng nghiệp là các yếu tố mang tính
3
trang trí và thẩm mỹ của một vật phẩm hữu dụng. Theo Luật mẫu của WIPO về
kiểu dáng công nghiệp dành cho các nước đang phát triển định nghĩa “kiểu
dáng công nghiệp” là sự kết hợp bất kỳ các đường nét hay màu sắc của hình
dạng ba chiều bất kỳ...(mà) tạo ra hình dáng bên ngồi đặc biệt cho một sản
phẩm cơng nghiệp hoặc thủ cơng nghiệp và có thể được sử dụng làm mẫu cho
sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp. Giống như bằng độc quyền sáng
chế, hầu hết các quốc gia yêu cầu tính mới hay tính độc đáo (hoặc tính nguyên
gốc).
Tiêu chuẩn về “tính mới” rất khác nhau, từ “tính mới” thế giới cho đến “tính
mới” trong nước và rất khó khăn trong việc bảo hộ các kiểu dáng là xác định
phạm vi mà một kiểu dáng phải khác biệt với một kiểu dáng có trước để được
coi là có tính mới. Những thay đổi mang tính tiểu tiết thường là khơng đủ. Việc
kiểm tra thỏa đáng thường là xác định kiểu dáng được yêu cầu bảo hộ có mới
theo quan điểm chủ quan với ý nghĩa là kiểu dáng đó khơng phải là một sự mô
phỏng các kiểu dáng mà nhà sáng tạo đã biết. Đặc điểm then chốt của khả năng
áp dụng công nghiệp là kiểu dáng đó có thể được sử dụng hàng loạt ở quy mơ
thương mại hay khơng. Theo đó, các tác phẩm nghệ thuật thủ công không thuộc
phạm vi bảo hộ kiểu dáng công nghiệp và bảo hộ theo luật bản quyền sẽ thích
hợp hơn.
* Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn được in lại hoặc bố trí trong một
vi mạch trong quá trình sản xuất vi mạch đó – được một số nước bảo hộ như
một đối tượng sở hữu trí tuệ riêng biệt. Thiết kế bố trí được bảo hộ để chống lại
các hành vi sao chép hoặc bắt chước trái phép, trừ các thiết kế có được do sử
dụng kỹ thuật phân tích ngược. Các quy định về hình thức bảo hộ này được quy
định trong Hiệp ước về sở hữu trí tuệ liên quan tới mạch tích hợp được thơng
qua tại Washington D.C ngày 26 tháng 5 năm 1989. Mặc dù Hiệp ước
này không được các nước khởi xướng Hiệp ước phê chuẩn nhưng hiện nay việc
bảo hộ thiết kế bố trí đã được quy định trong Hiệp định TRIPS.
* Quyền đối với công nghệ sinh học và giống cây trồng: Sáng chế về công
nghệ sinh học, đặc biệt qua thực tiễn của kỹ thuật di truyền, ngày càng trở nên
quan trọng đối với nông nghiệp và điều trị bệnh tật. Tuy nhiên, sau này được
luật pháp các nước công nhận với điều kiện là kỹ thuật có thể lặp lại được (Đức,
1969) và phải do con người tạo ra (Hoa Kỳ, 1980).
Quyền của người tạo giống cây trồng đã có từ rất lâu. Từ những năm 1920,
một số quốc gia ở châu Âu đã thừa nhận một số quyền của người tạo giống cây
trồng. Năm 1961, Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới (Công ước
4
UPOV) đã được thơng qua tại Paris.
1.1.2. Các hình thức cơ bản của sở hữu trí tuệ
Các quyền SHTT được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau trong đó
hình thức cơ bản là bằng sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu và bí mật thương mại.
Do sở hữu trí tuệ cũng có nhiều đặc tính của sở hữu cá nhân và sở hữu tài sản
thực sự nên những quyền lợi gắn liền với sở hữu trí tuệ cho phép chúng ta có thể
mua, bán, cấp phép hay thậm chí là cho khơng sở hữu trí tuệ như tài sản thơng
thường. Luật về sở hữu trí tuệ cho phép chủ sở hữu, người phát minh và tác giả
bảo vệ tài sản của mình trước việc sử dụng trái phép.
1.1.2.1. Bản quyền
Bản quyền là một thuật ngữ pháp lý mô tả quyền lợi kinh tế của người sáng
tác ra các tác phẩm văn học và nghệ thuật, trong đó bao gồm quyền tái bản, in ấn
và trình diễn hay trưng bày tác phẩm của mình trước cơng chúng. Bản quyền
chủ yếu nhằm bảo vệ âm nhạc, phim ảnh, tiểu thuyết, thơ ca, kiến trúc và các tác
phẩm nghệ thuật có giá trị văn hóa khác. Khi nghệ sĩ và người sáng tác đưa ra
những hình thức thể hiện khác thì những loại hình thể hiện mới này cũng được
bao gồm trong những cơng trình được bảo hộ bản quyền. Các chương trình máy
tính và ghi âm giờ đây cũng được bảo vệ.
Bản quyền được bảo vệ lâu hơn nhiều so với một số hình thức sở hữu trí tuệ
khác. Cơng ước Berne, công ước quốc tế được ký năm 1886, quy định rằng thời
gian bảo hộ bản quyền là 50 năm kể từ khi tác giả qua đời. Theo Cơng ước
Berne thì các tác phẩm văn học, nghệ thuật và các tác phẩm có giá trị khác được
bảo hộ bản quyền ngay từ khi ra đời. Tác giả không cần phải đăng ký chính thức
quyền bảo hộ cho tác phẩm của mình tại những quốc gia là thành viên của Công
ước.
Tuy nhiên, Cơng ước Berne cho phép cấp bản quyền có điều kiện, chẳng hạn
như trường hợp của Hoa Kỳ chỉ bảo hộ bản quyền đối với những tác phẩm được
sáng tác theo những hình thức nhất định. Nhiều nước cũng có các trung tâm bản
quyền quốc gia để quản lý hệ thống bản quyền. Chẳng hạn như ở Hoa Kỳ, Hiến
pháp cho phép Quốc Hội ban hành luật để thiết lập hệ thống bản quyền và hệ
thống này do Phòng Bản quyền thuộc Thư viện Quốc Hội quản lý. Phòng Bản
quyền của Hoa Kỳ là nơi nhận các khiếu nại về bản quyền và là nơi các văn bản
liên quan tới bản quyền được lưu giữ khi đáp ứng được các yêu cầu của Luật
bản quyền Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đối với tất cả các tác phẩm - kể cả tác phẩm nước
ngồi - thì việc đăng ký bản quyền mau lẹ ở Hoa Kỳ sẽ đem lại những thuận lợi
5
với chi phí khơng đáng kể. Chỉ tác giả hay những người được tác giả trao quyền
- chẳng hạn như nhà xuất bản - mới có tồn quyền khiếu nại về bản quyền. Tuy
nhiên cho dù là ai đang sở hữu bản quyền đi chăng nữa thì quyền đó cũng có
giới hạn.
Bản quyền bảo vệ việc xử lý số liệu nhưng không bảo vệ những số liệu mới
được thu thập. Hơn nữa, bản quyền không bảo vệ ý tưởng hay quy trình mới;
nếu ý tưởng hay quy trình được bảo hộ thì sẽ được bảo hộ trong bằng sáng chế.
1.1.2.2. Bằng sáng chế
Có thể nói bằng sáng chế là hợp đồng giữa một bên là toàn thể xã hội và một
bên là cá nhân nhà phát minh. Theo các điều khoản của hợp đồng này, nhà phát
minh được toàn quyền ngăn chặn người khác không được áp dụng, sử dụng và
bán một phát minh đã được cấp bằng sáng chế trong một khoảng thời gian nhất
định. Thời hạn tối thiểu mà Hiệp định TRIPS của WTO yêu cầu là 20 năm kể từ
ngày xin đăng ký, đổi lại, nhà phát minh phải cơng bố chi tiết phát minh của
mình cho công chúng.
Bằng sáng chế về sở hữu kiểu dáng công nghiệp bảo hộ quyền về mẫu mã và
Hoa Kỳ thuật của sản phẩm. Thời gian bảo hộ tối thiểu theo Hiệp định TRIPS là
10 năm. Nếu khơng có sự bảo hộ của bằng sáng chế thì nhiều sản phẩm đã
khơng bao giờ xuất hiện, đặc biệt là những sản phẩm cần vốn đầu tư lớn nhưng
một khi đã bán ra thị trường thì dễ dàng bị các đối thủ cạnh tranh bắt chước làm
theo. Nếu khơng có bằng sáng chế thì sẽ khơng thể có sự phát triển cơng nghệ.
Nếu các nhà sáng chế phải bảo vệ sáng chế của mình bằng cách giữ bí mật về
những sáng chế đó thì những sáng chế khơng được cơng bố này sẽ bị mai một
đi.
Tuy nhiên, việc xin cấp bằng sáng chế không hề đơn giản. Bằng sáng chế
không được cấp cho những ý tưởng mơ hồ mà chỉ được cấp cho những đơn xin
cấp bằng được trình bày một cách cụ thể và cẩn thận. Nhằm tránh việc bảo hộ
cho những công nghệ đã được phổ biến hay công nghệ mà đến thợ thủ cơng bình
thường cũng dễ dàng làm được, những đơn xin cấp bằng sáng chế phải được các
chuyên gia xem xét. Do đơn xin cấp bằng sáng chế khác nhau rất nhiều về giá trị
của công nghệ mà đơn đòi bảo hộ, người xin cấp bằng sáng chế phải nói rõ
phạm vi bảo hộ hợp lý (Phạm vi bảo hộ buộc người nộp đơn xin cấp bằng sáng
chế phải rất thận trọng trong việc đưa ra giới hạn về phát minh của mình và
những gì sẽ được bảo hộ khỏi sự xâm phạm). Việc này thường mất hai năm hoặc
lâu hơn và rất tốn kém.
6
1.1.2.3. Giấy chứng nhận bản quyền
Giấy chứng nhận bản quyền tác giả của các tác phẩm nghệ thuật, âm nhạc và
văn học bảo hộ quyền thể hiện tác phẩm đó trong một thời gian, thường là khi
tác giả còn sống cộng với 50 năm sau khi qua đời (ở Hoa Kỳ và các nước EU là
70 năm sau khi tác giả qua đời). Bản quyền chỉ bao hàm ý nghĩa là cấm bắt
chước thể hiện chứ không hạn chế được khía cạnh ý tưởng. Vì vậy, phạm vi bảo
hộ của bản quyền hạn hẹp hơn sáng chế (patent). Bản quyền cũng được “mở”
khi đồng ý cho phép tái bản, dịch, trình chiếu, biểu diễn, chuyển thể... đối với
các tác phẩm là sách, phim, nhạc và các phần mềm máy tính. Hiệp định TRIPS
yêu cầu các chương trình phần mềm máy tính phải được bảo hộ bản quyền. Các
nước có thể áp dụng mức độ cho phép khác nhau trong việc ứng dụng phần mềm
máy tính theo thuyết “sử dụng cơng bằng” hoặc những hạn chế khác. Vì các
chương trình phần mềm máy tính có thể sử dụng với mục đích thương mại, nên
một số nước công nghiệp cho phép các hãng sản xuất đăng ký xin cấp bằng sáng
chế cho các phần mềm. Chính sách này tạo ra khả năng áp dụng việc bảo hộ
bằng sáng chế sang một lĩnh vực mới bao hàm cả mục đích kinh doanh. Tiếp đó
là xu hướng chấp nhận đăng ký bằng sáng chế cho một số khâu trong lĩnh vực
nghiên cứu sinh học như bảo hộ quyền phát minh giống cây trồng mới. Quyền
này cho phép người phát minh giống cây mới đặc biệt và có gien ổn định khơng
cho người khác sử dụng, mua bán trong một thời gian nhất định. Một lĩnh vực
tương tự là thiết kế các mạch tích hợp cũng được áp dụng như việc phát minh ra
giống cây mới. Những phát minh loại này được bảo hộ “riêng”, hay còn gọi là
bảo hộ “đặc biệt”, bởi việc này tuy có sáng tạo nhưng khơng nhiều nên được cấp
cả bằng sáng chế lẫn bằng bản quyền với thời hạn khoảng 10 năm.
1.1.2.4. Bí mật thương mại
Bất cứ thơng tin nào có thể được sử dụng trong việc điều hành doanh nghiệp
và có giá trị lớn trong việc tạo ra lợi ích kinh tế trong tương lai hay trong thực
tại đều được coi là bí mật thương mại. Ví dụ, bí mật thương mại có thể là cơng
thức sản xuất ra các sản phẩm, chẳng hạn như công thức sản xuất Coca-Cola;
việc thu thập thông tin nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh cho một doanh nghiệp,
chẳng hạn như cơ sở dữ liệu về danh sách khách hàng; bí mật thương mại thậm
chí gồm cả chiến lược quảng cáo và quy trình phân phối.
Khác với bằng sáng chế, bí mật thương mại về lý thuyết được bảo vệ vô thời
hạn và khơng cần thủ tục đăng ký gì. Tuy nhiên, bí mật thương mại thường dễ bị
lộ và việc bảo vệ bí mật thương mại phải trả tiền. Trường hợp tốt nhất là các
công ty phải hạn chế sự ra vào văn phòng và sự tiếp cận với các tài liệu, giáo
7
dục các nhân viên chủ chốt và thanh tra, giám sát chặt chẽ các ấn phẩm và các
buổi thuyết trình về sản phẩm. Cho dù việc giữ bí mật rất tốn kém nhưng các
công ty lớn chủ yếu dựa vào việc giữ bí mật khi khơng xin được bằng sáng chế.
Cơng ty càng lớn thì lại càng cần pháp luật bảo vệ bí mật thương mại. Những
cơng ty khơng thể dựa vào tịa án để bảo vệ những bí mật quan trọng thì phải
dựa vào chính mình. Chẳng hạn như họ có thể hạn chế nghiêm ngặt số lượng
người có thể tiếp cận các thông tin cạnh tranh quan trọng. Tương tự như vậy,
thông tin cần thiết cho những hoạt động quan trọng sẽ chỉ được tiết lộ khi bí mật
thương mại được bảo vệ đầy đủ. Nếu khơng thì chỉ đào tạo trên mức cần thiết
một số rất ít nhân viên để làm những nhiệm vụ lắp ráp không địi hỏi chun
mơn cao.
1.1.2.5. Nhãn hiệu
Ở hầu hết các nước trên thế giới, nhãn hiệu cần phải được đăng ký thì mới có
thể bảo hộ được (thơng thường trong 10 năm) và việc đăng ký cần phải được gia
hạn. Thế nhưng trong khi bản quyền và bằng sáng chế tự hết hạn thì tên của
cơng ty phục vụ khách hàng tốt sẽ ngày càng trở nên có giá. Nếu giả sử nhãn
hiệu cũng bị hết hạn thì khách hàng cũng bị thiệt hại chẳng kém gì người sở hữu
nhãn hiệu. Cũng có thể yêu cầu loại bỏ (đăng ký) nhãn hiệu khi việc sử dụng trở
nên mang tính mơ tả hoặc khi nhãn hiệu trở thành tên gọi chung của hàng hóa
hoặc dịch vụ. Ví dụ, nhãn hiệu ‘Vaseline’ và ‘Gramophone’ là hai ví dụ điển
hình về các trường hợp nhãn hiệu đã trở thành tên gọi chung của loại hàng hóa
sử dụng nhãn hiệu đó. Việc bảo hộ nhãn hiệu cũng được sử dụng rộng rãi trong
các môn thể thao và ước tính chiếm tới 2,5% giá trị thương mại toàn cầu. Chẳng
hạn, hầu hết nguồn tài trợ cho các kỳ Thế vận hội Olympic không phải là từ các
chương trình truyền hình có bản quyền mà là từ việc mua bán các quyền về nhãn
hiệu được bảo hộ.
Luật nhãn hiệu thường quy định phân loại hàng hóa để phục vụ việc đăng ký.
Một số nước quy định mỗi đơn đăng ký chỉ được đăng ký cho một nhóm hàng
hóa, trong khi đó tại một số nước thì chỉ cần một đơn có thể yêu cầu đăng ký
cho nhiều nhóm hàng hóa. Hầu hết các nước phân nhóm hàng hóa và dịch vụ
nhằm phục vụ việc đăng ký dựa theo Thỏa ước NICE về phân loại quốc tế hàng
hóa và dịch vụ để đăng ký nhãn hiệu. Trong trường hợp có sự tương tự giữa các
nhãn hiệu liên quan đến các hàng hoá hoặc dịch vụ trùng hoặc khi hàng hoá
hoặc dịch vụ tương tự liên quan đến các nhãn hiệu trùng được sử dụng, chắc
chắn có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Thông thường, việc đánh
giá khả năng gây nhầm lẫn được tiến hành tương tự như việc đánh giá khả
8
năng gây nhầm lẫn phục vụ mục đích (trong quá trình thẩm định đơn) đăng
ký nhãn hiệu. Về mặt nguyên tắc, hàng hoá được coi là tương tự nếu trong
trường hợp được chào bán dưới một nhãn hiệu trùng, thì người tiêu dùng sẽ có
khả năng tin là hàng hố đó có cùng một nguồn gốc. Tất cả các tình huống phải
được tính đến, bao gồm bản chất của hàng hóa, mục đích sử dụng và các kênh
tiêu thụ hàng hố, đặc biệt là nguồn gốc xuất xứ thơng thường của hàng hố và
địa điểm thường bán hàng hố có liên quan.
Chủ nhãn hiệu đăng ký cũng có độc quyền chuyển giao (chuyển nhượng)
nhãn hiệu và khai thác nhãn hiệu thơng qua hình thức cung cấp hàng hóa và dịch
vụ mang nhãn hiệu và cấp li-xăng hoặc nhượng quyền thương mại cho
người khác sử dụng nhãn hiệu. Hầu hết các luật nhãn hiệu đều quy định hành
vi sử dụng nhãn hiệu mà không được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền là hành vi
xâm phạm độc quyền đối với nhãn hiệu. Nếu bị đơn dựa vào một li-xăng cụ thể
hoặc sự cho phép khác để sử dụng nhãn hiệu thì bị đơn phải chịu trách nhiệm
chứng minh sự đồng ý đó.
Khi chủ nhãn hiệu đã đưa sản phẩm mang nhãn hiệu ra thị trường, họ khơng
có quyền phản đối việc bán tiếp sản phẩm đó trong q trình thương mại. Đây là
bản chất của cái gọi là nguyên tắc về khai thác hết quyền đối với nhãn hiệu. Một
số quốc gia không cho phép phản đối việc nhập khẩu song song các sản phẩm đã
được chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người được chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép
đưa ra thị trường nước ngoài. Các quốc gia khác thì cho phép phản đối nhập
khẩu song song, cụ thể là thông qua việc áp dụng nguyên tắc lãnh thổ của quyền
sở hữu trí tuệ.
1.1.3. Vai trị của việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với việc phát triển
kinh tế - xã hội.
Ngày nay, tri thức đã trở thành một nguồn của cái mới, động lực mới tạo ra
sự thịnh vượng cho xã hội, vì vậy, để nâng cao lợi thế cạnh tranh mỗi nền kinh
tế ngày càng phụ thuộc vào khả năng phát triển và ứng dụng khoa học – công
nghệ trong sản xuất. Xu thế này càng khẳng định hơn nữa vai trò của tài sản trí
tuệ, quyền sở hữu trí tuệ và bảo hộ sở hữu trí tuệ được xem là một nguyên tắc cơ
bản trong sự vận động của nền kinh tế thế giới.
Thông thường các quốc gia đều có luật quy định về bảo hộ sở hữu trí tuệ vì
hai lí do chính:
Thứ nhất, tạo ra cơ sở pháp lý cho các quyền của người sáng tạo đối với sự
sáng tạo của họ về cả khía cạnh kinh tế và đạo đức đồng thời cho quyền tiếp cận
9
của cơng chúng đối với sự sáng tạo đó;
Thứ hai, khuyến khích sự sáng tạo, phổ biến và áp dụng các sáng tạo đó
đồng thời thúc đẩy thương mại lành mạnh để đóng góp cho sự phát triển kinh tế
và xã hội. Cụ thể, vai trò của việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ trên những khía
cạnh sau:
* SHTT là nhân tố đem lại sự tăng trưởng kinh tế cho chủ thể sở hữu và xã
hội
Nhìn vào lịch sử phát triển của các quốc gia, nhất là các nước công nghiệp
phát triển, SHTT được đánh giá là loại tài sản chiếm vị trí quan trọng nhất đối
với sự tăng trưởng của đất nước. Với mỗi phát minh, sáng chế ra đời và được
bảo hộ, chủ thể sở hữu sản phẩm trí tuệ đó khơng những có được tỷ lệ tiền bản
quyền cao hơn và có giá trị thị trường cao hơn nhiều lần so với các tài sản vơ
hình khác, mà chính người mua quyền SHTT đó và người xin cấp giấy phép sử
dụng cũng vui lòng trả nhiều tiền hơn do có sự bảo hộ. Việc bảo hộ này nhằm
giảm rủi ro trong các giao dịch thương mại về quyền SHTT, nhưng đồng thời
cũng tạo nguồn thu cho nhà nước thông qua việc cung cấp các hiệp định bảo hộ
và nhân lên nhiều lần giá trị sử dụng của các tài sản trí tuệ đã được bảo hộ đó
bằng việc thương mại hố chúng, chính việc thương mại hố các tài sản trí tuệ
đã đem lại cho chủ thể sở hữu cũng như những người mua quyền sử dụng tài sản
trí tuệ đó những lợi ích kinh tế. Ví như với việc mỗi năm có đến hàng trăm các
phát minh, sáng chế mới ra đời, NOKIA không chỉ thu được lợi nhuận khổng lồ
từ những sản phẩm trí tuệ mới này được cung cấp bởi chính hãng mà còn thu
được nhiều tỷ USD từ việc bán bản quyền. Theo tài liệu của Tổ chức SHTT thế
giới thì tổng thu nhập từ bản quyền về sáng chế trên toàn thế giới tăng từ 10 tỷ
USD năm 1990 lên 110 tỷ USD năm 2000; riêng hãng máy tính IBM (Hoa Kỳ)
năm 2000 đã thu được 1,7 tỷ USD.
* SHTT là công cụ cạnh tranh hữu hiệu cho doanh nghiệp cũng như nền kinh
tế quốc gia trong hội nhập
Hiện nay, với mỗi quốc gia, doanh nghiệp, năng lực SHTT là một trong
những năng lực nội sinh quan trọng hàng đầu để phát triển bền vững. Quốc gia,
doanh nghiệp nào có được càng nhiều quyền SHTT thì năng lực cạnh tranh của
quốc gia, doanh nghiệp đó càng cao.
Với các nước đang phát triển, năng lực cạnh tranh thường thấp, khả năng
tiếp cận thị trường hạn chế, cho nên để có thể phát triển bền vững và hội nhập
hiệu quả, cần thiết phải đánh giá đúng vị trí quan trọng của SHTT. Cách tốt nhất
10
là phải tiếp cận các chuẩn mực quốc tế về SHTT nhằm xây dựng hệ thống SHTT
có hiệu quả. Điều đó làm cho hoạt động SHTT xét trên phạm vi quốc gia ngày
càng có khuynh hướng tiến gần hơn tới chuẩn mực chung của thế giới.
* SHTT là phương tiện đảm bảo sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia
cũng như từng doanh nghiệp
Bất kỳ tài sản hữu hình nào cũng đều có giới hạn và cùng với thời gian,
không gian khối lượng và giá trị của các tài sản hữu hình này khơng chỉ bị thu
hẹp về quy mơ, số lượng mà cịn có khả năng bị thay thế bởi các sản phẩm mới
do tri thức tạo ra. Do đó, sở hữu các tài sản hữu hình là sở hữu cái có giới hạn,
cịn sở hữu tri thức, trí tuệ của nhân loại là sở hữu cái vơ hạn, vì vậy sẽ là vơ
cùng bền vững nếu chúng ta biết khai thác và sử dụng một cách hiệu quả – có
thể nói SHTT là sở hữu một thứ tài sản đặc biệt, khi sử dụng không những
không mất đi mà cịn có khả năng kiến tạo những sản phẩm trí tuệ cao hơn, là
những tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ và bền vững đối với những chủ thể sở
hữu và xã hội.
Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước quốc tế (song phương và đa phương) về
bảo vệ quyền SHTT. Hiện nay, chúng ta đã là thành viên của các Điều ước quan
trọng như Công ước Paris, Thoả ước Madrid, Nghị định thư Madrid về đăng ký
quốc tế nhãn hiệu hàng hoá, Hiệp ước hợp tác Patent, Công ước Benre về bản
quyền… và đặc biệt là Hiệp định TRIPS. Ngoài ra, các Điều ước quốc tế đa
phương và song phương liên quan đến việc khiếu nại, xét xử, trọng tài, thi hành
bản án, quyết định, tương trợ tư pháp… giữa Việt Nam và các nước là những cơ
sở quan trọng trong công tác thực thi quyền SHTT ở Việt Nam.
Thực tiễn cho thấy, lợi nhuận lớn thường đổ dồn về những doanh nghiệp nào
biết quan tâm đầu tư và khai thác sản phẩm trí tuệ của mình hay những quốc gia
sở hữu nhiều phát minh, sáng chế của nhân loại. Vì lẽ đó mà hàng năm, hãng
sản xuất danh tiếng như Nokia đầu tư hàng tỷ USD và huy động nhiều ngàn lao
động trí tuệ trong nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, mỗi năm hãng này đệ
trình đăng ký bảo hộ sáng kiến và giải pháp mới cho 500 pháp minh các loại.
* Tuân thủ hệ thống quản lý SHTT là cách thức để các nước đang phát triển
tiếp cận bền vững hơn với các hoạt động đầu tư, chuyển giao công nghệ và hội
nhập hiệu quả.
Việc tạo dựng và củng cố giá trị của mọi đối tượng SHTT là một quá trình
đầu tư tốn kém về vật chất và trí tuệ. Do vậy, việc sao chép, mơ phỏng, thậm chí
đánh cắp ngun vẹn các thành quả sáng tạo kỹ thuật – kinh doanh của đối thủ
11
cạnh tranh là biện pháp hấp dẫn nhất để đạt mục tiêu lợi nhuận và chiến thắng.
Nguy cơ chiếm đoạt các sản phẩm trí tuệ là nguy cơ thường xuyên và ngày càng
nghiêm trọng trong các nền kinh tế công nghiệp hoá. Bởi vậy, việc ngăn chặn
nguy cơ này là vấn đề ám ảnh đối với các nhà đầu tư nước ngồi, họ sẽ chỉ chấp
nhận chuyển giao cơng nghệ và thực hiện các biện pháp đầu tư, nếu họ nhận
thấy đủ cơ hội khai thác an toàn, hiệu quả cơng nghệ đó ở quốc gia dự định đầu
tư.
Cho nên, sẽ là thiển cận, nếu cho rằng vì lạc hậu về kỹ thuật và cơng nghệ
mà khơng cần phải có một sự bảo hộ công nghệ nào ở các nước đang phát triển.
Cần thấy rằng, các nhà đầu tư nước ngồi có xu hướng lo sợ rằng bảo hộ SHTT
lỏng lẻo sẽ dẫn đến việc thiếu kiểm soát đối với công nghệ được chuyển giao và
như vậy công nghệ chuyển giao này sẽ dễ trở thành mục tiêu bị vi phạm bản
quyền. Vì lẽ đó, xác lập được một hệ thống bảo hộ SHTT hiệu quả và việc tuân
thủ hệ thống quản lý bảo hộ SHTT một cách nghiêm túc sẽ là một điều kiện tiên
quyết tác động đến quyết định đầu tư và chuyển giao của các công ty nước
ngoài.
* Một hệ thống bảo hộ quyền SHTT hiệu quả là một yếu tố để chống lại nguy
cơ tụt hậu và phát triển đất nước
Kinh nghiệm phát triển của Nhật Bản cho thấy, một quốc gia hồn tồn có
thể phát triển mạnh mẽ mà khơng nhất thiết phải có nguồn lực vật chất dồi dào,
mà vấn đề là nhận thức được giá trị thực sự của tài sản trí tuệ và việc bảo hộ các
tài sản trí tuệ đó. Cựu Thủ tướng Nhật Bản Tanzan Ishibashi đã từng nói: “ Tơi
tin chắc rằng, đây là bí quyết phát triển cơng nghiệp của chúng tôi từ thời Meiji.
Chỉ trong một nước đã nhận ra giá trị thực sự của hệ thống bảo hộ sáng chế và
quyết tâm dùng mọi sức lực của nó để xây dựng hệ thống đó, người ta mới có
thể hy vọng cơng nghiệp phát triển ”.
Một khi cơ sở hạ tầng và khả năng kỹ thuật cho việc cải tiến công nghệ đã
được thiết lập ở một nước, nhất là ở các nước đang phát triển, hệ thống bảo hộ
sáng chế sẽ thành một yếu tố thúc đẩy sự nghiệp cải tiến kỹ thuật. Bởi vậy, câu
hỏi đặt ra cho các nước đang phát triển không phải là có thiết lập hệ thống bảo
hộ SHTT hay khơng, mà phải là thiết lập như thế nào và vào lúc nào trong quá
trình phát triển kinh tế, kỹ thuật của đất nước sẽ là phù hợp cho việc áp dụng
một hệ thống bảo hộ toàn diện và hiệu quả.
1.2. Kinh nghiệm quốc tế về việc thực hiện cam kết về sở hữu trí tuệ khi
là thành viên của WTO.
12
1.2.1. Kinh nghiệm thực thi các cam kết về sở hữu trí tuệ của Trung Quốc
Việc gia nhập WTO đã là động cơ thúc đẩy đáng kể việc thực thi bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ ở Trung Quốc. Trung Quốc đã tiến hành sửa đổi các quy
định và luật lệ về quyền sở hữu trí tuệ, ban hành nhiều quy định mới và bãi bỏ
các quy định cũ nhằm nâng tầm phạm vi và hiệu lực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
lên cho phù hợp với Hiệp định TRIPS. Sau một năm gia nhập WTO, Hội đồng
WTO đã đánh giá cao việc thực thi các nghĩa vụ của Trung Quốc, trong đó có
các điều khoản TRIPS. Tiếp theo vào năm 2003, Trung Quốc đã tiếp tục các nỗ
lực bằng việc áp dụng một số các quy định luật pháp và các biện pháp bảo hộ
hành chính, như các quy định về bảo hộ thuế quan đối với quyền sở hữu trí tuệ,
các biện pháp xử phạt hành chính về xâm phạm bản quyền, quy định về chuyển
nhượng bằng sáng chế và các quy định về quản lý hành chính đối với các cơ
quan sáng chế. Tuy nhiên, vấn đề đáng quan tâm vẫn xoay quanh việc thực thi
bảo hộ quyền SHTT ở Trung Quốc. Đặc biệt, đối với các nhà đầu tư nước ngoài,
vấn đề thực thi là mối quan tâm lớn hơn so với các quy định luật pháp về quyền
SHTT. Các nghiên cứu gần đây cho thấy tác động của việc thi hành luật đối với
các hành vi phạm tội vẫn chưa đủ để hạn chế các hoạt động xâm phạm bản
quyền ở Trung Quốc.
Trước yêu cầu cần đẩy mạnh thực thi pháp luật, các cơ quan có thẩm quyền
của Trung Quốc đã tăng cường các cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ, trong đó
có các yếu tố cưỡng chế hành chính, cưỡng chế dân sự, kết tội hình sự và áp
dụng thuế hải quan. Bên cạnh đó, Hội đồng Nhà nước cịn thành lập Văn phịng
quốc gia về điều chỉnh và chuẩn hóa trật tự kinh tế thị trường nhằm tăng cường
sự điều phối và đẩy mạnh việc thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Có 21 bộ và
cơ quan quốc gia, trong đó có SIPO (Tổ chức Sở hữu trí tuệ Trung Quốc) tham
gia vào công tác điều phối của Văn phòng này. Việc đấu tranh chống lại sản
xuất và kinh doanh hàng giả và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ chính là mục tiêu ưu
tiên hàng đầu trong chương trình nghị sự năm 2004 của nhóm điều phối này.
Văn phòng quốc gia còn tổ chức một chiến dịch kéo dài một tuần lễ trên phạm
vi cả nước vào tháng 4/2004 để nâng cao nhận thức về bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ trong nhân dân, một trở ngại mấu chốt cho việc nâng cao bảo hộ quyền
SHTT ở Trung Quốc. Bên cạnh đó, Trung Quốc đặc biệt quan tâm đến việc hình
thành hệ thống bảo vệ quyền SHTT hải quan nhằm ngăn chặn các hoạt động
xuất nhập khẩu trái phép và bảo vệ nhãn hiệu thương mại, bản quyền và các
quyền có liên quan, bằng sáng chế…; thiết lập những trung tâm khiếu kiện vê
quyền SHTT và hình thành đường dây nóng để người dân có thể liên lạc khi có
13