Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Tăng cường thực hiện pháp lệnh dân chủ ở xã, thị trấn trên địa bàn huyện can lộc, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (931.67 KB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
___________________________________________________________

NGUYỄN QUANG TUẤN

TĂNG CƢỜNG THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ Ở
XÃ, THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CAN LỘC,
TỈNH HÀ TĨNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

NGHỆ AN - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
___________________________________________________________

NGUYỄN QUANG TUẤN

TĂNG CƢỜNG THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ Ở
XÃ, THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CAN LỘC,
TỈNH HÀ TĨNH

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 8.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học:


TS. NGUYỄN THỊ LAN

NGHỆ AN - 2018


2

LỜI CẢM ƠN
***
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, Phòng đào tạo sau
Đại học, Khoa giáo dục Chính trị cùng tồn thể các thầy cơ giáo của trường Đại
học Vinh đã tận tình giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến thức quý báu, hướng dẫn
nhiệt tình cho tơi trong q trình học tập và nghiên cứu.
Tơi xin chân thành cảm ơn TS Nguyễn Thị Lan đã tận tình hướng dẫn cho
tơi hồn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các bạn lớp Cao học Chính trị khóa 24,
gia đình, bạn bè và các bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ, giúp đỡ tôi trong suốt thời
gian qua.
Xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo Huyện ủy, Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân huyện Can Lộc và các ban, ngành của huyện đã hỗ trợ,
giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong thời gian tham gia học tập, nghiên cứu khoa
học và hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Tĩnh, tháng 8 năm 2018
TÁC GIẢ

Nguyễn Quang Tuấn



3

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.....................................................................................................................1
B. NỘI DUNG.................................................................................................................8
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ
Ở XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN.......................................................................................8
1.1. Khái quát quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
chủ, dân chủ cơ sở............................................................................................................8
1.2. Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn................................................20
1.3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn....32
1.4. Sự cần thiết của việc tăng cường thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị
trấn..................................................................................................................................33
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ Ở XÃ, THỊ
TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CAN LỘC, TỈNH HÀ TĨNH..............................38
2.1. Đặc điểm tự nhiên, tình hình kinh tế-xã hội huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh............38
2.2. Quá trình triển khai tổ chức thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, thị trấn trên địa bàn
huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.........................................................................................44
2.3. Những thành tựu, hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở
xã, thị trấn trên địa bàn huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh...................................................53
2.4. Bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, thị trấn trên địa
bàn huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh..................................................................................65
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG THỰC HIỆN
PHÁP LỆNH DÂN CHỦ Ở XÃ, THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CAN
LỘC, TỈNH HÀ TĨNH.................................................................................................68
3.1. Một số quan điểm nhằm tăng cường thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, thị trấn trên
địa bàn huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.............................................................................68
3.2. Những giải pháp cơ bản nhằm tăng cường thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, thị
trấn trên địa bàn huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh..............................................................74
3.3. Kiến nghị …………………………………………………………………………90

C. KẾT LUẬN...............................................................................................................92


4
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................95

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH

Công nghiệp hóa

GS

Giáo sư

HĐH

Hiện đại hóa

HĐND

Hội đồng nhân dân

KHCN & MT

Khoa học công nghệ và Môi trường

MTTQ


Mặt trận Tổ quốc

NTM

Nông thôn mới

QH

Quốc hội

QCDC

Quy chế dân chủ

TTCN

Tiểu thủ cơng nghiệp

TTHC

Thủ tục hành chính

UBND

Ủy ban nhân dân


5



1
A. MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển
của đời sống con người. Dân chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội, và cũng là
bản chất của Nhà nước Việt Nam. Hay nói cách khác, “Nhà nước Cộng hồ xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền
tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí
thức”. [43, tr. 1]
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng, nhà mác xít sáng tạo lớn của cách
mạng Việt Nam, khơng chỉ để lại những kiến giải sâu sắc về dân chủ và thực
hành dân chủ mà Người còn trực tiếp nêu gương về lối ứng xử dân chủ đối với
con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống. Lúc sinh thời, Người đã
từng nhấn mạnh “Dân chủ là của q báu nhất của nhân dân, là chìa khóa vạn
năng để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội”. [13, tr. 8]
Xác định đúng đắn tầm quan trọng và vai trò to lớn của dân chủ, trong bất
kỳ giai đoạn nào, Đảng và Nhà nước ta đều nhận thức việc thực hành dân chủ
rộng rãi sẽ tạo nên sức mạnh to lớn, đảm bảo sự thành công của cách mạng Việt
Nam. Đặc biệt, đối với cơ sở việc thực hành dân chủ rộng rãi có ý nghĩa hết sức
quan trọng, thể hiện rõ nhất bản chất dân chủ của Nhà nước ta. Nhằm phát huy
đầy đủ, hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước. Ngày 18/2/1998 Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về việc xây dựng và
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Sau khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 30CT/TW, để cụ thể hố các chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành các
Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 (sau được sửa đổi bằng Nghị định
số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003) kèm theo Quy chế thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn quy định các nội dung, phương thức và trách nhiệm của chính
quyền cấp xã trong việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Và sự kiện quan



2
trọng nhất nhất, kh ng định vai trò và tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn đối với hệ thống chính trị - xã hội nước ta, đó là Ủy Ban
Thường vụ Quốc hội khóa 11 (2007), đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PLUBTVQH11 ngày 20/4/2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Trên
đây là những văn bản pháp lý quan trọng, đánh dấu những bước quan trọng việc
thể chế hoá phương châm ''dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra'' của Đảng
nhằm phát huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân ngay từ cơ sở.
Can Lộc từ xưa đến nay nổi tiếng là mảnh đất “địa linh – nhân kiệt”.
Những di tích lịch sử văn hóa như “Hoan châu đệ nhất danh lam”- chùa Hương
tích, ngã ba Đồng Lộc với bản hùng ca cách mạng của thế hệ thanh niên xung
phong Hà Tĩnh và cả nước, Ngã ba Nghèn quật khởi tinh thần Xô viết – Nghệ
Tĩnh…cùng những danh nhân văn hóa nổi tiếng như Đặng Tất, Đặng Dung,
Nguyễn Huy Oánh, Hà Tông Mục, Ngô Đức Kế, Võ Liêm Sơn… Cùng với di
sản văn hóa cha ơng để lại, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ,
nhân dân Can Lộc cũng kh ng định truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh
bất khuất, kiên trung, anh dũng. Đến nay, các khu di tích cách mạng trên đất Can
Lộc còn lưu giữ vẹn nguyên tinh thần ấy. Khu di tích lịch sử Xơ Viết – Nghệ
Tĩnh (Ngã ba Nghèn) là nơi ghi lại những chứng tích lịch sử Cách mạng năm
1930 – 1931. Từ tháng 5/1930 đến năm 1931 đã có hơn 40 cuộc biểu tình ở cả
huyện và tổng với hàng ngàn người tham gia, trong đó tiêu biểu nhất là cuộc đấu
tranh ngày 01/8/1930 của hơn một ngàn người ở cả hai vùng Thượng và Hạ Can
Lộc kéo về huyện đường địi lại cơng điền, cơng thơ, địi quyền tự do, dân chủ.
Bên cạnh những thành tựu đạt được trên đây, việc thực hiện dân chủ ở cấp
xã trên địa bàn huyện Can Lộc còn bộc lộ một số yếu kém trong quá trình tổ
chức thực hiện: Việc tuyên truyền, triển khai, tổ chức thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở một số địa phương, đơn vị chưa thường xuyên, chưa sâu rộng, chưa tạo
ra được sự chuyển biến mạnh mẽ trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân; một số nơi việc tổ chức thực hiện chưa kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện

các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, cải cách thủ tục
hành chính, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở; việc thực hiện thông báo công


3
khai, tổ chức cho nhân dân bàn còn hạn chế, hình thức, nhất là những vấn đề có
liên quan trực tiếp đến dân, đã dẫn đến tình trạng khiếu kiện đông người, vượt
cấp.
Là một cán bộ đang công tác trong bộ máy công quyền của nhà nước, tác
giả nhận thấy rõ ràng và trực tiếp vị trí và tầm quan trọng của việc thực hiện dân
chủ ở cơ sở, đặc biệt là thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; nơi gần dân
nhất, nơi trực tiếp lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của những người làm
chủ đất nước, những người như Nguyễn Trãi đã nói “Chèo thuyền cũng là dân,
lật thuyền cũng là dân”. Từ việc xác định vị trí và tầm quan trọng đó, tác giả tìm
hiểu và phát hiện ra những bất cập trong việc triển khai tổ chức, thực hiện.
Những bất cập liên quan đến sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của bộ máy chính
quyền; những bất cập liên quan đến trình độ, đạo đức của đội ngũ cán bộ, công
chức; những bất cập liên quan đến sự nhận thức của người dân…
Vậy, để phát huy những mặt tích cực, khắc phục những tồn tại, yếu kém
trong quá trình tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở đặc biệt là dân chủ ở xã,
phường, thị trấn trong cả nước nói chung và trên địa bàn huyện Can Lộc, tỉnh Hà
Tĩnh nói riêng, góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước vì mục tiêu “Dân giầu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, tác giả chọn đề tài “Tăng
cường thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, thị trấn trên địa bàn huyện Can
Lộc, tỉnh Hà Tĩnh” với mong muốn, đề tài sẽ đề xuất một số giải pháp, kiến
nghị có tính khả thi trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã, đồng thời giúp người
dân thực hiện tốt hơn quyền làm chủ của mình.
Trong mấy năm gần đây, có một số ít đề tài tập trung nghiên cứu riêng ở
địa bàn cấp tỉnh, huyện về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
và Nhà nước đối với thực hiện dân chủ ở cơ sở, đồng thời đưa ra một số giải

pháp trong quá trình triển khai, thực hiện. Những cơng trình khoa học tiêu biểu
liên quan đến vấn đề này đã được các tác giả công bố như Lê Minh Châu (1999),
“Dân chủ ở cơ sở là điểm mấu chốt để thực hiện quyền dân chủ”, Tạp chí Quản
lý nhà nước, số 1. Nguyễn Thị Tâm (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay, Luận văn


4
Thạc sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Hồng Chí Bảo
(2001), Củng cố và tăng cường hệ thống chính trị cơ sở nơng thơn nước ta hiện
nay: Vấn đề và giải pháp; Trần Bạch Đằng (2003), "Dân chủ ở cơ sở một sức
mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, số 35. Lê Xn
Đình (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và vấn đề thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở", Tạp chí Cộng sản, số 20.
Vũ Bình Minh (2015), Thực hiện quy chế dân chủ trong rà soát, giám sát
thực hiện các chứng kiến xã hội, Mặt trận, số 142. Nguyễn Chí Mỳ (2015), “Dân
chủ cơ sở - sự sáng tạo của Đảng ta”, Tạp chí Cộng sản, số 95. Phạm Văn Đức
(2016), Phát huy dân chủ, Giám sát và phản biện xã hội, đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, Một số vấn đề tiếp tục nghiên cứu triết học, số 10. Trần
Thành (2016), Nhân dân làm chủ trong quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân làm chủ”, Lý luận chính trị, số 1. Vũ Văn Viên (2016), Vấn
đề dân chủ hóa ở nước ta và những điểm mới qua văn kiện Đại hội XII của
Đảng, Triết học, số 10. Đinh Ngọc Hạnh, Nguyễn Thị Thanh Thủy (2016), Dân
chủ hóa và việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong điều kiện hiện nay,
Triết học, số 10. Trần Thị Bích Thủy (2017), Tiếp tục tạo chuyển biến tích cực,
phát huy sức sáng tạo của nhân dân trong xây dựng và thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở. Nguyễn Văn Thành, Phạm Hoàng Anh (2017), Một số vấn đề về
thực hành dân chủ ở nước ta hiện nay, Tạp chí Dân vận, số 2. Nguyễn Đức Hịa
(2017), Bình Thuận: Chính quyền các cấp nâng cao chất lượng xây dựng và thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Dân vận, số 2. Lưu Ngọc, Tố Tâm (2017),

Một số giải pháp phát huy dân chủ ở cơ sở, Lý luận chính trị, số 3…
Đặc biệt tác giả Nguyễn Thị Lan đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên
cứu về vấn đề này như: Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở xã tại Nghệ An (2000), Luận văn thạc sỹ
Chính trị học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Nguyễn Thị Lan “Về
vai trị của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong quá trình thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở”(2002), Lịch sử Đảng, (10). Tạp chí Lịch sử Đảng,
(10). Nguyễn Thị Lan (2002), “Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các


5
đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”, Sinh hoạt lý
luận, (4), “Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nghệ An tham gia thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân” (2005), Mặt trận, (26)
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xây dựng sự đồng thuận xã hội trong công cuộc đổi
mới đất nước”(2012), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.; Phát huy vai trò
của Ban Thanh tra nhân dân trong giám sát thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã,
phường, thị trấn (2012), Tạp chí Mặt trận số 115; “Mặt trận Tổ quốc các cấp
tỉnh Nghệ An tham gia giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo góp phần xây dựng
sự đồng thuận xã hội” (2007), Mặt trận, (45).
Nhưng các cơng trình nghiên cứu nói trên chưa thật sự chú trọng vào việc
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; hoặc đã đề cập đến việc thực hiện dân
chủ ở cơ sở nhưng trên một địa phương ngoài tỉnh Hà Tĩnh. Các tác giả cũng
chưa phân tích cụ thể việc tổ chức thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị
trấn; chưa nêu bật được vai trò và tầm quan trọng của việc tổ chức thực hiện một
cách hiệu quả dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Đây chính là lý do để tác giả tiếp
tục đi sâu, nghiên cứu việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn
trong bối cảnh hiện nay để đưa ra giải pháp thiết thực nhằm thực hiện tốt hơn
quyền dân chủ của nhân dân. Những cơng trình khoa học đó là tài liệu tham khảo
quý báu cho tác giả khi thực hiện luận văn này.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, thị trấn thên địa bàn
huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, từ đó đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm thực hiện
tốt hơn quyền dân chủ của nhân dân.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, thị trấn.
- Đánh giá thực trạng thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, thị trấn trên địa
bàn huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường thực hiện Pháp
lệnh dân chủ ở xã, thị trấn trên địa bàn huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.


6
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu việc tổ chức thực hiện Pháp dân chủ ở xã, thị trấn trên địa
bàn huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Về nội dung: Nghiên cứu việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã,
phường, thị trấn.
- Về không gian: Nghiên cứu việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, thị
trấn trên địa bàn huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
- Về thời gian: Nghiên cứu việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, thị trấn
trên địa bàn huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn từ 2013 - 2017.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được tiến hành nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với việc sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu khoa học hành chính cơ bản như: Phân tích, tổng hợp; lô gic – lịch
sử; thống kê, so sánh; thống kê, ph ng vấn, để khái quát và tổng kết kinh nghiệm
làm tư liệu phục vụ nghiên cứu và hồn thành luận văn.

6. Đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ được cơ sở lý luận của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở đồng thời,
đánh giá thực trạng việc thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn trên địa bàn một địa
phương cụ thể.
- Đề xuất được một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ ở xã, thị
trấn trên một địa bàn huyện.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy
chính trị học .
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được trình bày với 3 chương, 11 tiết


7
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc thực hiện Pháp lệnh dân chủ dân chủ ở
xã, phường, thị trấn
Chương 2: Thực trạng thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, thị trấn trên địa
bàn huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nhằm tăng cường thực hiện Pháp lệnh
dân chủ ở xã, thị trấn trên địa bàn huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.


8

B. NỘI DUNG
Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ Ở
XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY


1.1. Khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin; tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về dân chủ, dân chủ cơ sở
1.1.1. Một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm dân chủ
Theo tiếng Hy Lạp từ thời cổ đại, Dân chủ là sự kết hợp của hai từ demos
+ Kratos có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân có quyền làm chủ
những vấn đề có liên quan đến cuộc sống của mình.
Xét về mặt giá trị xã hội, dân chủ là một trong những thứ quý báu nhất
của con người, là một giá trị vĩnh hằng mà từ khi có con người, từ khi chưa có
chữ viết và chưa có khái niệm dân chủ, con người lúc đó đã có một đời sống
“hồn tồn” dân chủ. Con người lúc đó đã cùng nhau làm chủ, bình đ ng về
quyền lợi và nghĩa vụ, cùng lao động, cùng chiếm hữu tư liệu sản xuất và sản
phẩm làm ra. Tuy nhiên, từ khi có nhà nước tới nay, xã hội dân chủ sơ khai đã
biến mất và “một đi chưa đến ngày trở lại”. Khi giai cấp và nhà nước ra đời, dân
chủ đã trở thành một chế độ chính trị với những nội dung và hình thức khác nhau
tuỳ thuộc vào sự phát triển trong mỗi kiểu nhà nước ở mỗi quốc gia, dân tộc.
Dân chủ từ đó gắn liền với lợi ích giai cấp, với quyền làm chủ của giai cấp này
và mất (hoặc hạn chế) quyền làm chủ của giai cấp khác.
Dân chủ là khát vọng sâu xa của con người. Cuộc đấu tranh diễn ra suốt
lịch sử nhân loại chính là cuộc đấu tranh giành dân chủ của những người bị áp
bức, bóc lột. Cũng như nhiều giá trị khác của xã hội loài người, dân chủ cũng có
những tính chất như: tất yếu, giai cấp, lịch sử cụ thể, chủ thể... và bị quy định bởi
bản sắc văn hóa, đặc trưng sắc tộc, chế độ chính trị, tơn giáo và tín ngưỡng...


9

Trong hiện thực, dân chủ bao giờ cũng được biểu hiện hết sức phong phú, đa
dạng với những cấp độ, trình độ rất khác nhau. Trong xã hội, nền dân chủ của
các xã hội tuy có những nét tương đồng nhưng cũng có những nét khác biệt.

Chính nét tương đồng, đặc điểm chung làm nên giá trị nhân loại phổ biến của
dân chủ. Chủ nghĩa Mác – Lê nin cho rằng không thể mang nền dân chủ của xã
hội này làm khuôn mẫu, thước đo áp đặt cho một nền dân chủ của xã hội khác.
Trong quá trình phát triển lịch sử của nhân loại đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu, nhiều học giả trên khắp thế giới đề cập đến khái niệm “dân chủ”,
trong đó Democritus, một triết gia Hy Lạp cổ đại, cho rằng: Không cần sống một
cuộc đời hạnh phúc trong một đất nước độc tài mà thà sống nghèo trong một
nước dân chủ còn hơn. [46, tr.5]
Các nhà chính trị học ngày nay định nghĩa “Dân chủ” là hình thức tổ chức
chính trị của xã hội dựa trên sự công nhận nhân dân “dân như là nguồn gốc của
quyền lực, dựa trên quyền của nhân dân” trong việc tham gia giải quyết những
vấn đề của quốc gia và trao cho các “công dân một loạt quyền và quyền tự do
thực sự” [46, tr.5 . Tại Mỹ, đất nước tiêu biểu cho một nền dân chủ tư sản, cựu
Tổng thống Mỹ, R. Reagan cũng cho rằng “Dân chủ là biện pháp cai trị và giới
hạn quyền lực của Chính phủ để tăng cường sự phát triển những giá trị quan
trọng nhất mà con người nhận được từ gia đình và nhà trường”. [36, tr.2]
1.1.1.2. Khái niệm dân chủ cơ sở
Để tìm ra cơ chế và phương châm thực hiện dân chủ, trong suốt quá trình
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta đã dựa trên cơ sở
lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kết hợp với thực
tiễn của đất nước. Đó là cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ. Phương châm thực hiện dân chủ trên cơ sở: dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng đề ra mục tiêu là phải xây dựng bộ máy
nhà nước xứng đáng là nhà nước của dân, do dân, vì dân và dân chủ được coi là
mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Vì vậy, quá trình tổ chức và thực
hiện dân chủ ở nước ta đã thu được nhiều kết quả khả quan.


10


Sự nghiệp dân chủ hóa là cả một q trình. Q trình đó phải được thực
hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong tất cả các cấp của Đảng,
của bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, đến từng ngõ ngách của
thôn, làng, ấp, bản nhưng trong thời gian trước mắt, Đảng ta chủ trương phải
phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở.
Dân chủ là một phạm trù được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Khi nói
“dân chủ là quyền lục thuộc về nhân dân” thì dân chủ sẽ quá chung và xa vời đối
với mọi người. Phải làm sao để nhân dân hiểu dân chủ một cách thiết thực, để
nhân dân cảm nhận dân chủ gần gũi, gắn bó với cuộc sống hàng ngày của họ,
trực tiếp tham gia quyết định những vấn đề tại nơi sinh sống của mình.
Nếu dân chủ là “quyền lực thuộc về nhân dân” là một khái niệm mang
tính khái qt thì dân chủ cơ sở là một khái niệm mang tính cụ thể; nó cụ thể hóa
khái niệm dân chủ. Qua thực tiễn và lý luận có thể hiểu “dân chủ cơ sở là
phương thức nhân dân trực tiếp quyết định những vấn đề liên quan đến cuộc
sống của mình ở cấp thấp nhất và đó là gián tiếp quyết định những vấn đề ấy ở
cấp cao hơn cho đến phạm vi quốc gia”. [32, tr.27]
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ, dân chủ cơ sở
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ là một hiện tượng
lịch sử, ra đời trong một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Đó là khi xã
hội đã phân chia giai cấp. Qua các giai đoạn phát triển của xã hội, dân chủ được
biến đổi dưới nhiều hình thức khác nhau.
Dân chủ là một chế độ xã hội, một hình thái nhà nước trong đó thừa nhận
về mặt pháp luật những quyền: quyền bình đ ng của nhân dân, quyền tự do,
quyền dân chủ (tự do ngơn luận, tự do báo chí, tự do bầu cử…). “Dân chủ được
quy định thành trách nhiệm của nhà nước với công dân và quyền, nghĩa vụ của
công dân với nhà nước ”. [3, tr.3
Lê-nin quan niệm dân chủ là một chế độ nhà nước nên dân chủ mang tính
giai cấp. Dân chủ tồn tại dưới nhiều hình thức cụ thể, biến đổi và phát triển cùng
với sự thay đổi của kết cấu giai cấp xã hội và phương thức sản xuất. Vì vậy,



11

trong lịch sử xã hội lồi người, Dân chủ ln mang tính giai cấp, nó tồn tại dưới
những hình thức cụ thể, biến đổi cùng với sự thay đổi của phương thức sản xuất
và kết cấu của giai cấp xã hội.
Nhưng cho đến khi xã hội tư bản chủ nghĩa ra đời và nhà nước của giai
cấp tư sản được tổ chức theo hình thức chính thể cộng hịa thì lịch sử của nền
dân chủ mới có bước tiến đáng ghi nhận. Trong quá trình phát triển, nền dân chủ
tư sản đã để lại những tư tưởng tiến bộ về dân chủ. Đó là tư tưởng về xã hội cơng
dân, về nhà nước pháp quyền, là sự phát triển của quyền con người và quyền
công dân, là những tư tưởng và thể chế đảm bảo dân chủ. Nhưng nền dân chủ tư
sản bị hạn chế bởi tính giai cấp của nó. Đó là nền dân chủ cho người giàu, cho
giai cấp tư sản, vì giai cấp tư sản. Quyền lực nhà nước vẫn nằm trong tay giai
cấp tư sản. Thế giới ngày càng phát triển và nền dân chủ tư sản ngày càng bộc lộ
những hạn chế của nó buộc nhà nước tư sản phải tìm mọi cách thích nghi nhằm
duy trì chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng nó vẫn khơng thốt kh i sự khủng hoảng
và những mâu thuẫn trong lịng nó. Điều kiện khách quan đó cùng với sự nỗ lực
chủ quan của giai cấp công nhân và các Đảng mácxít – Lêninnit dẫn tới tất yếu
của cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm xác lập một nền dân chủ mới “dân chủ
gấp triệu lần dân chủ tư sản”. Đó là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cho những người lao động,
cho đa số mọi người. Nó tạo điều kiện đảm bảo cho con người phát triển tồn
diện và giải phóng con người, đem lại cho họ quyền làm chủ cuộc sống, quyền
sáng tạo ra của cải, vật chất cho xã hội. Nền dân chủ đó ra đời, như Mác nói, đã
thay thế xã hội cũ với những giai cấp và đối kháng giai cấp bởi một liên hợp tự
nguyện trong đó sự phát triển tự do của mọi người là điều kiện cho sự phát triển
tự do của mỗi người...
Dân chủ là một phạm trù chính trị, gắn với bản chất giai cấp thống trị xã
hội và bảo vệ cho lợi ích của giai cấp thống trị (trong lịch sử phát triển đã có

hình thức dân chủ vơ sản hay cịn gọi là dân chủ XHCN và dân chủ chủ nô, dân
chủ tư sản). Theo nghĩa này, sẽ khơng có dân chủ thuần túy, phi giai cấp, đồng
thời dân chủ sẽ dần mất đi khi nào trong xã hội khơng cịn giai cấp.


12

Khi gắn với chế độ Nhà nước thì dân chủ là một phạm trù lịch sử. Dân
chủ còn là thành quả đấu tranh của nhân dân lao động chống bóc lột, áp bức, đòi
quyền tự do, quyền làm chủ của mình. Quyền lực thuộc về nhân dân là giá trị cao
nhất của dân chủ và theo nghĩa này thì dân chủ sẽ tồn tại lâu dài khi xã hội còn
giai cấp và Nhà nước. Dân chủ chi phối tính dân tộc, phản ánh tính chất của chế
độ chính trị, văn hoá xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc cụ thể.
Dân chủ đồng nghĩa với quyền lực thuộc về nhân dân, dân chủ là một nhu
cầu khách quan và tất yếu của nhân dân lao động. Hiểu theo cách khác, dân chủ
cịn có nghĩa là một ngun tắc sinh hoạt của các cộng đồng dân cư, tổ chức
chính trị - xã hội theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số vì lợi ích của tập thể.
Ngày nay, thế giới tồn tại hai hình thức của nền dân chủ: Dân chủ đại diện
và dân chủ trực tiếp. Cả hai hình thức này đều là hình thức của chính phủ.
* Dân chủ trực tiếp là một hình thức của Chính phủ, trong đó quyền được
đưa ra các quyết định chính trị được thực hiện một cách trực tiếp dưới các thủ
tục của quy tắc đa số. Hình thức này chỉ khả thi đối với các thực thể nh . Do đó,
khơng có hệ thống dân chủ hiện đại nào là nền dân chủ hoàn toàn trực tiếp, mặc
dù hầu hết trong đó đều có các yếu tố dân chủ trực tiếp. Các cơ quan dân chủ
trực tiếp là các tổ chức Quốc hội, các sáng kiến lập pháp phổ biến, các cuộc triệu
tập, các cuộc trưng cầu dân ý, v.v...
* Dân chủ đại diện là một hình thức của Chính phủ trong đó người dân
thực hiện quyền giống nhau nhưng khơng phải là theo từng cá nhân mà thông
qua các đại diện do họ chọn ra và chịu trách nhiệm với họ.
Lê-nin tiếp thu và phát triển tư tưởng dân chủ của Mác trong điều kiện

lịch sử mới và Người kh ng định rằng giai cấp vô sản cần phải xây dựng một chế
độ dân chủ thì mới có thể hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Trong quá trình
lãnh đạo và xây dựng chính quyền Xơ Viết, Người đặc biệt nhấn mạnh quyền
quản lý nhà nước là của người lao động, coi sự tham gia của người lao động vào
chính quyền như là mục đích của chính quyền Xơ Viết. Theo Lê nin, một trong
những ưu thế quyết định của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là việc thu hút được


13

mọi người lao động tham gia quản lý. Chính quyền Xơ Viết khơng phải là một
cái gì xa vời mà đó là bộ máy gần gũi với nhân dân, bất kỳ ở cương vị nào và
ngành nghề gì cũng có thể tham gia quản lý bộ máy đó. Lê-nin coi trọng sự cơng
khai của chính quyền trong thực hiện cơng việc quản lý. Người cho rằng: Điều
khác nhau căn bản của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và các nhà nước khác là ở chỗ
chính quyền cơng khai với mọi người, làm mọi việc trước mặt quần chúng, quần
chúng dễ dàng gần gũi nó, nó trực tiếp phát sinh ra từ quần chúng, là cơ quan
trực tiếp đại biểu cho quần chúng nhân dân và ý chí của họ.
Như vậy, Lê-nin đã từng đề cập đến vấn đề dân chủ ở cơ sở. “Tuy khơng
chỉ rõ đó là dân chủ ở cơ sở, nhưng qua từng luận điểm của Người chúng ta hiểu
rõ sự cần thiết của việc quần chúng nhân dân tham gia quản lý đất nước, sự cần
thiết phải cơng khai những việc làm của chính quyền trước nhân dân” [32, tr.23].
Quần chúng nhân dân được tổ chức thành những hợp tác xã, các xí nghiệp sản
xuất kinh doanh, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân…Đó chính là cơ
sở mà chúng ta nói đến. Từ đó, chúng ta thấy rằng việc Đảng ta đề ra và coi
trọng phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở là có căn cứ lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin và phải đẩy mạnh thực hiện dân chủ ở cơ sở là điều rất cần
thết.
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, dân chủ cơ sở
Trong tồn bộ di sản văn hố và tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư

tưởng dân chủ là một phần giá trị to lớn. Người là nhà văn hố, nhà u nước,
nhà cách mạng giải phóng dân tộc ở thế kỷ XX. Một trong những giá trị văn hoá
đáng tự hào, đáng trân trọng là tư tưởng dân chủ của Người, Người đã góp phần
to lớn đưa dân tộc này từ kiếp nô lệ trở thành người tự do, đưa nhân dân lên địa
vị làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.
Có thể khái quát tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành sáu
nội dung cơ bản sau đây:


14

Thứ nhất: Dân chủ là quý báu nhất của nhân dân
Dân chủ là của báu vì đó là lý tưởng, là ước vọng của toàn thể nhân dân ta
về một xã hội tốt đẹp trong tương lai, một xã hội dân chủ theo đúng nghĩa của nó
“dân làm chủ, dân là chủ”; vì “nó” đem lại quyền làm chủ vận mệnh của mình
cho nhân dân, tạo ra những điều kiện, những tiền đề để toàn xã hội, cũng như
mỗi cá nhân trong xã hội phát triển và hoàn thiện. Con người nhờ có dân chủ và
thơng qua dân chủ mới có hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã kh ng định rõ điều này "Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần
chúng đề ra sáng kiến". [18, tr. 2]
Dân chủ không chỉ là của quý của nhân dân mà đối với sự nghiệp cách
mạng, dân chủ cũng là của quý bởi phát huy dân chủ sẽ động viên được lực
lượng của toàn dân hồn hành những nhiệm vụ cách mạng, "Có phát huy dân
chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách
mạng tiến lên".[18, tr. 2]
Nước ta là một nước vừa thoát kh i chế độ thực dân phong kiến, với sự
tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều tầng lớp, giai cấp trong xã hội thì dân chủ
là giải pháp hữu hiệu để tạo nên sự nhất trí căn bản về lợi ích của các thành phần
kinh tế và các giai tầng trong xã hội. Sự nhất trí đó tổng hợp thành sức mạnh của
dân tộc, tạo nên nội lực mạnh mẽ đưa đất nước vượt qua khó khăn, thử thách.

Qua các vấn đề trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy dân chủ - một sản
phẩm của nền văn minh, là sản phẩm của chính nhân dân giành được trong q
trình tranh đấu để giải phóng con người trong quan hệ với xã hội, tự nhiên và
giữa con người với con người.
Thứ hai: Dân là chủ có nghĩa địa vị cao nhất là nhân dân
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên
tất cả các lĩnh vực: từ những chuyện nh có liên quan đến lợi ích của mỗi cá
nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu nhà
nước, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội…Người dân có quyền làm chủ bản
thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự do đi lại, tự do hành


15

nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập… trong khn khổ quy định của pháp luật.
Người dân có quyền làm chủ tập thể, địa phương, cơ quan, nơi mình sống và làm
việc. Người dân có quyền làm chủ các đồn thể, tổ chức chính trị xã hội thơng
qua bầu cử và bãi miễn.
Vì quan niệm dân là trên hết, nên Người cho rằng “mọi lợi ích là vì dân”,
“mọi quyền hạn là của dân”, “mọi công việc do dân”. Trong thiết chế của nền
dân chủ ấy, nhân dân ở địa vị cao nhất và Người nói “Trong bầu trời khơng có gì
q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì mạnh bằng lực lượng đồn kết
của nhân dân”.[18, tr. 2]
Nhân dân bao gồm các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc khác
nhau trên đất nước ta. Và trong quan niệm của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhấn mạnh quyền dân chủ theo từng địa vị xã hội của họ. Đối với công nhân,
Người kh ng định “Cơng nhân có quyền thực sự trong xí nghiệp”, Người lại nói
“Từ làm chủ tư liệu sản xuất, họ phải được làm chủ việc quản lý kinh tế, làm chủ
việc phân phối sản phẩm lao động”; đối với nông dân, là lực lượng đông đảo và
to lớn nhất của dân tộc, Người kh ng định một luận điểm quan trọng là “Bao giờ

ở nông thôn, nông dân thật sự nắm chính quyền, nơng dân được giải phóng thì
mới là dân chủ thực sự”, Người lại nói “Muốn nơng dân có lực lượng dồi dào thì
phải làm cho họ có ruộng cày, có cơm ăn, áo mặc, nhà ở” [44, tr. 23 ; đối với trí
thức, Người nhấn mạnh sắc thái “Tự do tư tưởng”, Người nói “Chế độ ta là chế
độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi
người tự do bày t ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó cũng là một
quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ” của mọi người[44, tr. 28]. Như thế, con
người tự do là con người biết phục tùng chân lý; đối với quân đội (và cả công an
nhân dân) tư tưởng dân chủ của Người thật sự sáng t “Từ tiểu đội trưởng trở
lên, từ Tổng tư lệnh trở xuống, phải săn sóc đời sống vật chất và tinh thần của
đội viên. Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ khơng được kêu đói. Bộ đội thiếu áo mặc,
cán bộ khơng được kêu mình rét. Bộ đội thiếu chỗ ở, cán bộ khơng được kêu
mình mệt. Như vậy mới dân chủ, mới đoàn kết, mới tất thắng” [44, tr. 29]; riêng
với Thanh niên, Người tập trung vào yêu cầu quyền được cống hiến của tuổi trẻ.


16

Người thường nói thanh niên khơng nên địi h i ở nước nhà mà chỉ nên tự h i
mình rằng đã làm gì cho nước, cho nhà. Người nói: Trong xã hội cái tốt đẹp
nhất, vẻ vang nhất là được phục vụ cho lợi ích của nhân dân [44, tr. 32]. Tuy thế
Người vẫn không quên nêu ra những quyền lợi học tập, vui chơi, giải trí của
thanh niên.
Tóm lại, nhân dân là lực lượng dựng xây đất nước, là lực lượng hợp thành
và nuôi dưỡng, bảo vệ các tổ chức chính trị, do vậy nhân dân có quyền làm chủ
đất nước, làm chủ chế độ, làm chủ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ ba: Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân. Phải giữ
gìn Đảng ta thật trong sạch, vững mạnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng để xây dựng chính quyền
dân chủ mới ở nước ta.

Luận điểm về chính quyền dân chủ của Người, bao gồm một hệ thống
quan niệm rất hồn chỉnh. Người nói một cách rõ ràng, dễ hiểu về bản chất và
mục tiêu, về nội dung, chức trách và nhiệm vụ, về cơ cấu và cơ chế quyền lực,
về phương pháp hoạt động, về trách nhiệm phẩm chất và năng lực của nhân viên
trong một nhà nước dân chủ.
Người luôn luôn kh ng định bản chất nhân dân và bản chất dân chủ của
chính quyền ta. Người cũng nói đến chun chính, nhưng Người coi chun
chính là “cái khố, cái cửa” để đề phịng kẻ phá hoại của quý báu nhất là dân chủ
mà thơi. Hồ Chí Minh kh ng định: dân chủ cũng cần có chun chính để giữ dìn
lấy dân chủ; “Mở rộng dân chủ đi đơi với tăng cường chun chính để cho chính
quyền ta thật sự là chính quyền của dân, phục vụ nhân dân, chống lại kẻ thù của
nhân dân” [44, tr. 36].
Người cho rằng chính quyền ln lấy việc phục vụ lợi ích của nhân dân
làm mục tiêu. Cho đến trước lúc ra đi, Người vẫn còn nhắc lại những mục tiêu
chiến lược ấy: Hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh. Đó chính là
những chiến lược lâu dài, cần có quyết sách thơng minh và tài năng tổ chức điều
hành để thực hiện.


17

Trong quan niệm về chức trách và nhiệm vụ, Người nhấn mạnh tính chất
“Người đầy tớ cơng cộng” của chính quyền đối với nhân dân. Người dùng chữ
“công bộc” (người đầy tớ trung thành) để nói một ý nghĩa mới của một chính
quyền dân chủ.
Để cho quyền dân chủ của nhân dân được thể hiện, để quyền lực nhà nước
được bảo đảm, Người nhấn mạnh ba yếu tố sau:
- Phải có Hiến pháp thích hợp với sự phát triển của chế độ, bảo đảm được
quyền tự do dân chủ cho các tầng lớp nhân dân.
- Phải luật của ta “thật sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng

rãi cho nhân dân lao động”.
- Phải có một bộ máy chính quyền có đủ năng lực, phẩm chất, tinh giản,
nhạy bén.
Năng lực và đạo đức phục vụ nhân dân, tập trung thành những yêu cầu:
cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư. Hồ Chí Minh lên án thói quan liêu,
miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì theo lối “quan chủ”, miệng thì nói
phụng sự quần chúng, nhưng họ làm trái ngược lợi ích quần chúng. Người chỉ rõ:
nguyên nhân của bệnh quan liêu là do xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân,
không tin cậy nhân dân, không yêu thương nhân dân. Lo lắng về hiểm hoạ ấy,
Người gọi đó là nguy cơ của một thứ xâm lược bên trong “nội xâm” và thang
thuốc để trị bệnh ấy cơ bản và trọn vẹn vẫn chỉ là thực hành tốt dân chủ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ vẫn còn giữ nguyên giá trị
trong việc củng cố và xây dựng một chính quyền nhà nước dân chủ để phục vụ
nhân dân có hiệu quả, hiệu lực, một chính quyền thật sự vì dân và do dân, chứ
không phải là quyền lực riêng của một cá nhân hoặc là một nhóm người nào đó.
Thứ tư: “Đảng cũng ở trong xã hội” [44, tr. 45]. Đoàn thể (Đảng) từ Trung
ương đến xã do dân tổ chức nên.
Trong tư tưởng dân chủ, mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh kh ng định vai trị
“cầm quyền” của Đảng, nhưng Người rất ít nói đến quyền uy, quyền lực của


18

Đảng đối với dân, với nước. Người luôn luôn nhấn mạnh yêu cầu phục vụ,
phụng sự, làm đầy tớ của nhân dân.
Đảng cũng ở trong xã hội, trước hết cần hiểu rằng, khi nói Đảng ở trong
xã hội, nghĩa là Đảng không bao giờ là một lực lượng siêu nhiên, siêu xã hội.
Đảng bao gồm những con người của đời thường, chịu những dấu ấn của mọi mối
quan hệ xã hội hiện hữu. Đảng không phải là tập thể của những thánh nhân,
không bao giờ mắc sai lầm.

Tuy thế, hiện thực của xã hội đang đặt ra vấn đề Đảng phải đổi mới sự
lãnh đạo và mọi hoạt động của mình. Các kỳ Đại hội Đại biểu tồn quốc của
Đảng đều xác định yêu cầu Đảng phải vươn lên ngang tầm của nhiệm vụ lịch sử.
Khơng phải chỉ vì trong Đảng đã xuất hiện sự trì trệ và lạc hậu về tư duy, lề lối,
tác phong và về đội ngũ cán bộ, mà cịn là vì đất nước ta, xã hội và nhân dân ta
đã phát triển và đạt tới một trình độ cao hơn trước, phong phú hơn trước về mọi
mặt. Hơn nữa, đòi h i mở rộng nền dân chủ trong xã hội là một tất yếu của tiến
trình đổi mới.
Đảng từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên, được hiểu thế nào? Trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan niệm “do dân” trở thành một yếu tố định hình, chi
phối tồn bộ các lập luận. Bất cứ một hình thái tổ chức xã hội nào đều do yêu
cầu của dân mà thành lập, mà hoạt động. Do dân cịn là do trình độ dân trí mà tổ
chức cho phù hợp. Chủ tịch Hồ Chí Minh bao giờ cũng cho rằng Đảng khơng có
mục đích tự thân, Đảng khơng tồn tại, khơng tổ chức nên vì chính mình. Vì thế,
tư duy “do dân tổ chức nên” chính là cỗt lõi triết học của khoa học tổ chức Đảng.
Không phải ngẫu nhiên mà trong công tác xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln u cầu Đảng phải gắn với dân, bám sát dân, đặc biệt là phải ln
nhạy cảm với thực tế.
Thứ năm: Tổ chức đồn thể là của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền
lợi của dân, liên lạc mật thiết giữa dân với Chính phủ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồn thể trước hết phải là tổ chức của
dân. Trong dư luận xã hội có khi đồn thể chỉ là của Đảng, của chính quyền hoặc


19

là của cán bộ đồn thể mà thơi. Nếu làm cho dân chấp nhận được đồn thể là của
chính họ, nhất định sẽ có phong trào quần chúng rộng rãi, sẽ có phương thức
hoạt động và sẽ có sự gắn bó chặt chẽ giữa đồn thể và nhân dân.
Người cũng kh ng định nhiệm vụ của đoàn thể là phấn đấu cho dân và

bênh vực quyền lợi của dân. Theo Người, cơng đồn phải bảo vệ cho cơng nhân
có quyền thực sự trong xí nghiệp về sản xuất, đời sống. Vấn đề đoàn kết thanh
niên và xây dựng tổ chức Đồn thanh niên, Bác nói: “Đồn muốn củng cố và
phát triển thì phải liên hệ rộng rãi và chặt chẽ với các tầng lớp thanh niên, phải
tránh thành kiến, hẹp hịi cơ độc”. Với Hội nơng dân, Hội phụ nữ, Người cũng
đều nêu những yêu cầu tương tự. Riêng với Mặt trận dân tộc thống nhất, trước
sau Người đều coi đó là một liên minh chính trị của các giai cấp, các tầng lớp tôn
giáo và dân tộc. Người cho rằng vai trị của Mặt trận ch ng những có ích trong
việc đoàn kết toàn dân, chống kẻ thù xâm lược, mà còn rất cần thiết cả trong giai
đoạn tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ sáu: Tăng cường thực hiện những cải cách xã hội để nâng cao đời
sống của nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự trong toàn xã hội.
Phạm trù này chính là nói về giải pháp và phương thức thực hiện dân chủ.
Người quan niệm dân chủ là một hệ thống tổng hợp những thiết chế, luật lệ, vừa
là một chế độ xã hội, vừa là một phương thức văn minh của các mối quan hệ xã
hội hiện đại vừa là một phong cách sống văn minh. Dân chủ vừa là mục tiêu, là
nội dung, là động lực phát triển xã hội.
Muốn thực hiện dân chủ thực sự, không thể không tiến hành những cải
cách xã hội về mọi mặt. Dân chủ thực sự là kết quả tất yếu phải đạt tới, thông
qua nhiều cải cách khác nhau về kinh tế, chính trị, văn hố và xã hội. Đồng thời
dân chủ cũng là nội dung, là biện pháp nhằm thúc đẩy và hoàn thành những cải
cách ấy. Đời sống của nhân dân là chỉ báo, là dấu hiệu, là chất lượng của dân
chủ, đồng thời cũng chính là mục tiêu và kết quả của mọi cải cách xã hội. Ba yếu
tố ấy (cải cách xã hội, nâng cao đời sống, thực hiện dân chủ) gắn liền với nhau,
đan xen nhau, hài hoà cân đối, thúc đẩy lẫn nhau. Trong cải cách xã hội có nội


×