Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Skkn đôi điều cần lưu ý về các hình thức nghệ thuật khi phân tích tác phẩm thơ trữ tình lớp 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.89 KB, 31 trang )

LỜI CẢM ƠN
Dạy học bộ mơn Ngữ văn nói chung và dạy học tác phẩm văn học trong nhà
trường THCS nói riêng là một cơng việc quả là khơng đơn giản chút nào. Bởi
đặc thù của bộ môn này vừa là bộ mơn khoa học đời sống, vừa mang tính nghệ
thuật cao; nó địi hỏi người dạy phải có tư duy lí luận, tư duy thực tiễn, lại phải
biết phát hiện, thẩm thấu tác phẩm, biết giảng - bình, đồng thời còn phải biết
chuyển tải tất cả cái hay cái đẹp của tác phẩm đến với học sinh- đối tượng độc
giả có vốn sống ít, kĩ năng cảm hiểu tác phẩm văn học chưa cao, khả năng bình
cịn hạn chế...
Tuy nhiên, sau khi áp dụng sáng kiến vào giảng dạy, tơi nhận thấy các em
học sinh đã có những thay đổi theo hướng tích cực, có kĩ năng tốt khi phân tích,
cảm thụ các tác phẩm văn học, đặc biệt là thơ trữ tình.
Tơi xin cam đoan: Sáng kiến "Đơi điều cần lưu ý về các hình thức nghệ
thuật khi phân tích tác phẩm thơ trữ tình lớp 8" là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi.
Để thực hiện được sáng kiến này và đã đem lại hiệu quả khả quan. Tơi xin
bày tỏ lịng biết ơn chân thành nhất tới các đồng chí cán bộ, chun viên Phịng
Giáo dục và Đào tạo huyện Việt Yên, các đồng chí cán bộ quản lý và các đồng
nghiệp trong nhà trường cũng như các đơn vị trường bạn đã tạo điều kiện, đóng
góp ý kiến để tơi hồn thành nội dung nghiên cứu này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thượng Lan, ngày 04 tháng 05 năm 2020.
Tác giả

Vũ Thị Hường
1

skkn


MỤC LỤC



NỘI DUNG

Trang

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PHẦN THỨ NHẤT: PHẦN MỞ ĐẦU

5

I. Lý do chọn đề tài

5

II. Mục đích của đề tài

6

III. Đối tượng, phạm vi của đề tài

6

IV. Phương pháp nghiên cứu

6

V. Kế hoạch nghiên cứu

6


PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG

8

I. Cơ sở lí luận

8

II. Thực trạng

10

III. Biện pháp thực hiện

11

IV. Hiệu quả của sáng kiến

25

PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ

29

I. Kết luận

29

II. Kiến nghị


30

TÀI LIỆU THAM KHẢO

31

2

skkn


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Tên

Kí hiệu

1

Học sinh

HS

2

Trung bình

TB


3

Trung học Cơ sở

THCS

3

skkn

Ghi chú


4

skkn


PHẦN THỨ NHẤT: PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề ti
Môn Ngữ văn cùng với các bộ môn văn hoá khác trong nhà trờng có một vị trí đặc biệt trong viƯc thùc hiƯn mơc tiªu
chung cđa cÊp THCS, gãp phần hình thành những kiến thức
nền tảng chuẩn bị cho các em tiếp tục học lên bậc học cao
hơn. Mỗi tác phẩm văn học là sản phẩm ý thức của nhà văn,
đồng thời là một công trình nghệ thuật ngôn từ. Dạy - học
Ngữ văn vì thế có những đặc thù rất riêng. Không những
cung cấp cho học sinh những tri thức lí luận văn chơng, những
hiểu biết về xà hội con ngời trên phạm vi rộng, qua đó giáo dục
thế giới quan, nhân sinh quan cho bản thân ngời học mà dạy học Ngữ văn còn hớng tới việc khơi gợi những tình cảm, những
rung động, những cảm xúc trong tâm hồn các em. Và để cho

các em thật sự hứng thú, thật sự yêu thích môn Ngữ văn, hớng
tới việc sáng tạo nghệ thuật thì ũi hi ngi dạy phải có tư duy lí
luận, tư duy thực tiễn, lại phải biết phát hiện, thẩm thấu tác phẩm, biết giảng bình, đồng thời cịn phải biết chuyển tải tất cả cái hay cái đẹp của tác phẩm đến
với học sinh - đối tượng độc giả có vốn sống ít, kĩ năng cảm hiểu tác phẩm văn
học chưa cao, khả năng bình cịn hạn chế...
Thực tế hiện nay cho thấy cịn có nhiều đơn vị kiến thức về tác phẩm thơ
trữ tình trong chương trình giảng dạy của lớp 8 chưa thống nhất về cách phát
hiện, cách khai thác, cách hiểu, hoặc chưa được người đứng lớp hiểu đúng. Vì
thế việc xác định kiến thức, kĩ năng và phương pháp giảng dạy còn nhiều bất
cập. Nhất là kiến thức về các hình thức nghệ thuật khi phân tích tác phẩm thơ trữ
tình.
Việc phát hiện ra các hình thức nghệ thuật là một trong những việc làm vô
cùng cần thiết của mỗi trị khi đi phân tích một tác phẩm, đặc biệt là tác phẩm
thơ trữ tình. Bởi có xác định đúng các hình thức nghệ thuật, ta mới có thể hiểu
nhà thơ muốn gửi gắm tư tưởng, tình cảm gì qua “đứa con tinh thần của mình”.
5

skkn


Với nhiều năm trăn trở, bỏ công sức nghiên cứu, sưu tầm và thử nghiệm, tơi xin
đóng góp một số ý kiến góp phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy mơn
Văn trong nhà trường THCS nói chung và giúp các em học sinh lớp 8 nói riêng
khi phân tích tác phẩm thơ trữ tình qua sáng kiến: “Đơi điều cần lưu ý về các
hình thức nghệ thuật khi phân tích tác phẩm thơ trữ tình lớp 8”.
II. Mục đích của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu về các hình thức nghệ thuật khi phân tích tác
phẩm thơ trữ tình lớp 8 là việc đi vào tìm hiểu đúng và sâu bản chất nghệ thuật
của thể loại này như nhịp thơ, vần thơ, không gian - thời gian nghệ thuật, từ ngữ
và các biện pháp tu từ... Đó chính là căn cứ, là cơ sở vững chắc để hiểu đúng về

tác phẩm, trên cơ sở ấy cho phép lựa chọn kiến thức và phương pháp thích hợp
để thiết kế bài giảng nhằm đạt được mục tiêu bài dạy một cách tốt nhất.
III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu: học sinh lớp 8 trường THCS Thượng Lan.
2. Phạm vi nghiên cứu: Một số lưu ý về các hình thức nghệ thuật khi phân
tích tác phẩm thơ trữ tình lớp 8 mà bản thân đã tích luỹ qua nhiều năm giảng
dạy.
IV. Phương pháp nghiên cứu
1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: phân tích – tổng hợp tài liệu...
2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra, trực quan, nêu
gương, hỏi đáp ...
3. Các phương pháp hỗ trợ: Thống kê mô tả, ...
V. Kế hoạch nghiên cứu
STT
1

Thời gian

Nội dung công việc

Từ 1/8/2018-

- Chọn đề tài, viết đề cương

30/8/2018

nghiên cứu
6

skkn


Sản phẩm
- Bản đề cương chi tiết


2

3
4

Từ 1/8/2018-

- Đọc tài liệu lí thuyết viết cơ

15/9/2018

sở lí luận

- Tập tài liệu lí thuyết

- Khảo sát thực trạng, tổng hợp

- Số liệu khảo sát đã

số liệu thực tế

được xử lí

Từ 15/9/2018-


- Đề xuất biện pháp, sáng kiến

6/5/2019

- Áp dụng thử nghiệm

- Hoạt động cụ thể

Từ 6/5/2019-

- Thống kê, phân tích các số

- Số liệu khảo sát đã

21/5/2019

liệu

được xử lí

- Hệ thống hố tài liệu viết báo

- Bản nháp báo cáo

cáo.
5

Từ 21/5/2019-

- Hoàn thiện báo cáo


30/5/2019

7

skkn

- Bản báo cáo


PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
Thơ là hình thức nghệ thuật dùng từ trong ngơn ngữ làm chất liệu và sự
chọn lọc từ cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp dưới hình thức lơgic nhất
định tạo nên hình ảnh hay gợi cảm âm thanh có tính thẩm mĩ cho người đọc,
người nghe. Hệ thống cảm xúc, tâm trạng và cách thể hiện tình cảm, cảm xúc
được xem như là đặc trưng nổi bật của thơ trữ tình. Trong các tác phẩm thuộc
các thể loại như văn xi tự sự, kịch,... cũng có cảm xúc, tâm trạng, nhưng cách
thể hiện thì rất khác so với thơ trữ tình. Cảm xúc của tác giả có trong các thể loại
văn học kể trên là thứ cảm xúc được thể hiện một cách gián tiếp thơng qua hệ
thống hình tượng nhân vật, các sự kiện xã hội và diễn biến của câu chuyện...
Trái lại, trong thơ trữ tình, tác giả bộc lộ trực tiếp cảm xúc của mình. Rõ ràng
khi đọc đoạn thơ:
‘‘Nay xa cách lịng tơi ln tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vơi,
Thống con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tơi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá !”
(Tế Hanh, Quê hương)
người đọc cảm nhận được rất rõ tấm lịng và tình cảm nhớ nhung da diết của nhà
thơ Tế Hanh đối với quê hương, nơi ông đã sinh ra, lớn lên và gắn bó một thời.

Ở đây nhà thơ cơng khai và trực tiếp nói lên những tình cảm, suy nghĩ của chính
mình. Khác với cách thể hiện tình cảm trong thơ, chúng ta hãy xem xét đoạn văn
sau:
“ Hôm sau lão Hạc sang nhà tôi. Vừa thấy tôi, lão bảo ngay:
- Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ !
- Cụ bán rồi ?
- Bán rồi ! Họ vừa bắt xong.
Lão cố làm ra vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng
ậng nước...
8

skkn


- Thế nó cho bắt à ?
Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão
mếu như con nít. Lão hu hu khóc...”
( Nam Cao, Trích Lão Hạc)
Người kể chuyện ở đây xưng tôi, nhưng tôi đây là ông giáo chứ không
phải là Nam Cao. Nhà văn hồn tồn khơng xuất hiện mà ln giấu mình đi.
Trong trang sách chỉ có ơng giáo kể lại câu chuyện. Như thế phải qua cách kể
chuyện và miêu tả của nhân vật ông giáo về nỗi ân hận, đau khổ đến cùng cực
của lão Hạc, chúng ta mới thấy được tấm lịng thơng cảm, thái độ trân trọng,
mến u của Nam Cao đối với lão Hạc nói riêng và người nơng dân trong xã hội
cũ nói chung.
Trong nhiều bài thơ trữ tình, nhà thơ xưng bằng ta, chẳng hạn :
“Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phịng, hè ơi!”
(Tố Hữu, Khi con tú hú)
hoặc nhiều khi khơng thấy xưng tơi hay ta gì cả, mà chỉ thấy một ai đó đang

lẳng lặng kể, tả và tâm sự, tâm tình, chẳng hạn :
“ Năm nay hoa đào nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
(Vũ Đình Liên, Ơng đồ ).
Trong những trường hợp như thế, người xưng ta hoặc khơng xưng gì cũng đều
là chính nhà thơ. Nghĩa là sau câu thơ vẫn thấy hiện lên rất rõ tấm lịng và tình
cảm sâu nặng của tác giả. Có những trường hợp nhà thơ mượn lời của một nhân
vật nào đó, nhập vai vào một ai đó mà thổ lộ tâm tình (người ta gọi là trữ tình
nhập vai) thì thực chất nhân vật trữ tình đó cũng chính là tác giả. Thế Lữ mượn
lời con hổ trong vườn bách thảo để dốc bầu tâm sự của chính ơng về nỗi chán
9

skkn


ghét cái xã hội giả dối, nghèo nàn, nhố nhăng, ngớ ngẩn đương thời; để nói lên
khát vọng tự do, khát vọng về cái thời một đi không trở lại...Trong trường hợp
này, khi ơng viết:
“Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa.”
(Thế Lữ, Nhớ rừng)
thì ta là con hổ và cũng chính là Thế Lữ.
Phân tích thơ trữ tình thực chất là chỉ ra tiếng lịng sâu thẳm của chính
nhà thơ. Nhưng tiếng lịng ấy lại được thể hiện rất cơ đọng và hàm súc bằng một
hình thức nghệ thuật độc đáo - nghệ thuật ngôn từ. Tiếp xúc với một bài thơ trữ
tình trước hết là tiếp xúc với các hình thức nghệ thuật ngơn từ này. Nhà thơ gửi
lịng mình qua những con chữ, trong những câu chữ và các hình thức biểu đạt
độc đáo khác. Tất cả thái độ buồn chán của Tản Đà đối với trần thế được gửi qua

chữ “buồn lắm”, “chán” trong câu thơ:
“Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi”.
(Tản Đà, Muốn làm thằng Cuội)
Như thế, phân tích thơ trữ tình trước hết phải xuất phát từ chính các hình
thức nghệ thuật ngơn từ mà chỉ ra vai trị và tác dụng của chúng trong việc thể
hiện tình cảm, thái độ của nhà thơ.
II. Thực trạng
Thực tế giảng dạy cho thấy, phân mơn Văn được coi là khó nhất so với
hai phân mơn cịn lại là Tiếng Việt và Tập làm văn; mà thời gian dành cho phân
môn này lại không nhiều. Vì thế, khơng ít đơn vị kiến thức trong tác phẩm văn
học, đặc biệt là các hình thức nghệ thuật trong tác phẩm thơ trữ tình chưa được
người thầy coi trọng để nghiên cứu cẩn thận. Từ hiểu chưa đủ hoặc chưa đúng
đã dẫn đến việc người thầy dạy sai hoặc không làm chủ được kiến thức hay
không xác định được phương pháp dạy thích hợp. Kết quả là học sinh chưa hiểu
10

skkn


hết được giá trị của các hình thức nghệ thuật, không cảm nhận được đầy đủ cái
hay cái đẹp của một tác phẩm thơ trữ tình. Trong các bài phân tích, bình giảng
thơ trữ tình, các em thường mắc một số lỗi sau đây:
a, Chỉ phân tích nội dung và tư tưởng được phản ánh trong bài thơ,
không hề thấy vai trị của hình thức nghệ thuật. Đây thực chất chỉ là diễn xuôi
nội dung bài thơ ra mà thôi.
b, Có chú ý đến các hình thức nghệ thuật, nhưng tách rời các hình thức
nghệ thuật ấy ra khỏi nội dung (thường là gần đến kết bài mới nói qua một số
hình thức nghệ thuật được nhà thơ sử dụng trong bài).
c, Suy diễn một cách máy móc, gượng ép, phi lí các nội dung và vai trị, ý

nghĩa của các hình thức nghệ thuật trong bài thơ. Nghĩa là nêu lên các nội dung
tư tưởng, tình cảm khơng có trong bài; phát hiện sai các hình thức nghệ thuật
hoặc “bắt ép”các hình thức này phải có vai trị tác dụng nào đó trong khi chúng
chỉ là những hình thức bình thường...
Tóm lại, để phân tích thơ trữ tình có cơ sở khoa học, có sức thuyết
phục phải cần đến rất nhiều năng lực, nhưng trước hết người phân tích cần nắm
được một số hình thức nghệ thuật ngơn từ mà các nhà thơ thường vận dụng để
xây dựng nên tác phẩm của mình. Đây chính là cơ sở đáng tin cậy nhất để người
đọc mở ra được “cánh cửa tâm hồn”của mỗi nhà thơ ở mỗi bài thơ.
III. Biện pháp thực hiện
Trong chương trình Ngữ văn 8, thơ trữ tình đóng vai trị vơ cùng quan
trọng và chiếm số lượng rất lớn. Có thể thống kê các tác phẩm thơ trữ tình theo
chủ đề như sau:
- Thơ văn yêu nước Việt Nam đầu thế kỉ XX:
+ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác – Phan Bội Châu
+ Đập đá ở Côn Lôn – Phan Châu Trinh
+ Hai chữ nước nhà – Trần Tuấn Khải
- Thơ Mới:
+ Muốn làm thằng cuội – Tản Đà
11

skkn


+ Nhớ rừng – Thế Lữ
+ Ông đồ – Vũ Đình Liên
+ Quê hương – Tế Hanh
- Thơ cách mạng:
+ Khi con tu hú – Tố Hữu
+ Tức cảnh Pác Bó – Hồ Chí Minh

+ Ngắm trăng – Hồ Chí Minh
+ Đi đường – Hồ Chí Minh.
Cần phải chú ý, khi phân tích tác phẩm văn học, ta khơng được thốt li
văn bản. Có nghĩa là trước hết phải biết bám sát các hình thức biểu hiện của
ngơn từ nghệ thuật, chỉ ra vai trò và ý nghĩa của chúng trong việc thể hiện nội
dung. Các hình thức biểu hiện của ngơn từ nghệ thuật trong tác phẩm thơ trữ
tình là những dấu câu và cách ngắt nhịp, là vần điệu, âm hưởng và nhạc tính, là
từ ngữ và hình ảnh, là câu và sự tổ chức đoạn văn, văn bản và thể loại của văn
bản…
1. Nhịp thơ
Trong bài “Mấy ý nghĩ về thơ” (1949), Nguyễn Đình Thi quan niệm:
“Nhịp điệu của thơ không những là nhịp điệu bằng bằng , trắc trắc, lên bổng
xuống trầm của tiếng đàn bên tai (…). Thơ có một thứ nhạc nữa, một thứ nhịp
điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, nói chung là của tâm hồn
(…). Đó là nhịp điệu thành hình của những cảm xúc, hình ảnh liên tiếp hoà hợp
mà những tiếng và chữ gợi ra như những ngân vang dài, ngay những khoảng
lung linh giữa chữ, những khoảng im lặng cũng là nơi trú ngụ kín đáo của sự
xúc động”. (Giáo sư tiến sĩ Mã Giang Lân, Nhịp điệu thơ hôm nay đăng trên Văn
học nghệ thuật Đà Nẵng).
Như vậy có thể nói, nhịp điệu có vai trị, ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối
với các tác phẩm thơ, đặc biệt là thơ trữ tình. Nó giúp nhà thơ nâng cao khả
năng biểu cảm, cảm xúc. Phân tích thơ trữ tình, khơng thể khơng chú ý phân tích
nhịp điệu. Để xác định được nhịp điệu của từng bài thơ, ngoài việc đọc từng câu

12

skkn


thơ cho ngân vang âm điệu và làm bừng sáng hình ảnh thơ, việc nắm được đặc

điểm chung về nhịp điệu của từng thể loại cũng là điều rất cần thiết.
Có lần trong một cuộc hội thảo về truyện ngắn, nhà văn Tơ Hồi đã than
phiền rằng: “nhiều người viết văn bây giờ hình như quên hết cả các dấu câu”.
Ơng thật có lí khi cho rằng dấu câu là một hình thức của chữ, của từ. Thật ra
khơng phải chỉ có dấu câu mà ngay cả cách ngắt nhịp cũng cần được xem là một
từ đa nghĩa, một từ đặc biệt trong vốn ngôn ngữ chung của nhân loại. Chúng ta
đều biết rằng trong những tình huống giao tiếp thơng thường của cuộc sống, im
lặng lắm khi lại nói được rất nhiều: khi căm thù tột đỉnh, lúc xao xuyến bâng
khuâng, khi cô đơn buồn bã, lúc xúc động dâng trào...Những cung bậc tình cảm
này nhiều khi khơng thể mô tả được bằng chữ nghĩa. Dấu câu và sự ngắt nhịp là
một trong những phương tiện hữu hiệu để thể hiện "sự im lặng không lời".
Nhiều khi người ta chỉ nghĩ đến nhiệm vụ của dấu câu là tách ý, tách đoạn của
câu văn . Thực ra bên cạnh nhiệm vụ ấy, dấu câu và sự ngắt nhịp còn có một
chức năng rất quan trọng, đó là tạo nên "ý tại ngôn ngoại", hàm nghĩa và gợi ra
những điều mà từ khơng nói hết, nhất là trong thơ. Tâm trạng nhà thơ chi phối
trực tiếp cách tổ chức, vận hành nhịp điệu của bài thơ. Với cảm xúc sôi nổi, vui
vẻ, khí thế hào hứng, rộn ràng của người dân chài chuẩn bị ra khơi, Tế Hanh đã
có những câu thơ với nhịp điệu nhanh, mạnh, khỏe khoắn, linh hoạt và sơi nổi:
“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.”
(Tế Hanh, Quê hương)
Khác hẳn với những câu thơ đầu, ở khổ thơ cuối, cảm xúc mạnh mẽ của tác
giả được thể hiện qua các hình ảnh, cách miêu tả và lời than thở của nhà thơ.
Nỗi nhớ khôn nguôi về quê hương đã được ông thể hiện bằng một nhịp điệu
chậm, sâu lắng, bằng cả chiều sâu tâm hồn:
“Nay xa cách lịng tơi ln tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
13


skkn


Thống con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tơi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”
(Tế Hanh, Quê hương)
Để ngắt nhịp người ta thường dùng dấu câu, đặc biệt trong thơ trữ tình,
dấu chấm than có vai trị quan trọng, giúp nhà thơ bộc lộ tình cảm một cách trực
tiếp. Chính vì thế mà khơng ít các tác giả đã đưa nó vào trong những trang thơ
của mình. Tản Đà và Trần Tuấn Khải cùng sử dụng dấu chấm than để bộc lộ nỗi
buồn, để cất lên lời than :
“Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!”
(Tản Đà, Muốn làm thằng Cuội)
“Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nịi giống lầm than nỗi này!”
(Trần Tuấn Khải, Hai chữ nước nhà)
Hay để thể hiện nỗi nhớ tiếc quá khứ vàng son một thời vang bóng trong
“Nhớ rừng" :
“Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta khơng cịn được thấy bao giờ!”
(Thế Lữ, Nhớ rừng)
Tóm lại, nhịp thơ khơng chỉ là yếu tố bên ngồi mà cịn là yếu tố bên
trong tạo hình thức bài thơ. Vì vậy khi tiếp xúc, khám phá tác phẩm thơ trữ tình
địi hỏi khả năng cảm thụ của người đọc, và đặc biệt ta cần lưu ý đến hình thức
dấu câu và cách ngắt nhịp. Có như vậy mới đọc đúng, đọc hay và nắm được tác
dụng của hình thức ấy trong việc biểu hiện nội dung.
2. Vần thơ
Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau hoặc gần giống nhau, được
dùng để tạo âm điệu trong thơ. Đây là một quy luật để nối các câu trong bài thơ

với nhau. Ví dụ, các tiếng lan, tan, man, tàn. đều có chung một vần an, hoặc mẹ,
nhẹ, té, xẻ. có chung một vần e. Như thế, gieo vần trong thơ là sự lặp lại các vần
hoặc những vần nghe giống nhau giữa các tiếng ở những vị trí nhất định. Đó là
14

skkn


sự phối hợp âm thanh trong từng câu và trong cả bài; là sự cộng hưởng của các
âm có cùng một vần và cùng thanh bằng hoặc thanh trắc. Ví dụ:
“Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần.
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào.
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không.”
(Tố Hữu, Khi con tu hú)
Vần của các câu được hiệp vần với nhau trong đoạn thơ trên là sự hài hòa
trên cùng một âm vực cao thấp, một trường độ âm thanh phát ra. Đó là sự hài
hịa có được từ việc phối âm giữa các từ trong một cặp câu lục bát. Xét từng cặp
câu chúng ta thấy có sự hịa âm giữa câu câu (1) và (2), giữa câu (3) và (4), giữa
câu (5) và (6) nhờ vào những âm giống nhau giữa từ thứ 6 câu lục và từ thứ 6
câu bát. Âm giống nhau là do vần có chung thanh bằng (bầy-cây, ngân-sân, caonhào) và có cùng chung phần vần (ây-ây,ân-ân,ao-ao). Với sự hòa âm này, các
câu thơ như níu kéo, lưu giữ lấy nhau trong từng đoạn hay cả bài thơ. Một chỉnh
thể âm thanh hài hòa uyển chuyển do những vần có thanh bằng liên kết với nhau
như tạo ra sự trầm lắng về âm điệu cũng như hồn thơ, góp phần khơng nhỏ trong
việc biểu đạt bức tranh rộn rã, đầy sức sống của mùa hè và tình yêu cuộc sống
tha thiết của nhà thơ Tố Hữu.
Căn cứ vào cấu trúc âm thanh - sự hòa âm của vần, người ta chia thành
vần chính và vần thơng. Vần chính là vần có âm giống nhau:

“Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.”
(Hồ Chí Minh, Đi đường)
vần thơng là vần có âm na ná như nhau:
‘‘Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.’’
15

skkn


(Trần Tuấn Khải, Hai chữ nước nhà)
Căn cứ vào vị trí các từ hiệp vần với nhau để chia thành vần lưng và vần
chân. Vần lưng là lối gieo vần đứng giữa câu. Trong các câu thơ trên, từ thứ 6
(trùng, này) của câu bát hiệp vần với từ cuối (cùng, lầy) của câu lục. Vần chân
là lối hiệp vần ở cuối câu:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.”
(Hồ Chí Minh, Tức cảnh Pác Bó)
Trong cách phân chia vần theo vị trí của các từ hiệp vần với nhau, lại cịn
có thể chia ra thành các loại:
- Vần liền (ví dụ bài thơ Tức cảnh Pác Bó trích dẫn trên của Hồ Chí
Minh).
- Vần cách:
“Làm trai đứng giữa đất Cơn Lơn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.

Tháng ngày bao quản than sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!”
(Phan Châu Trinh, Đập đá ở Côn Lôn)
- Vần hỗn hợp (ví dụ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà).
Một trong những tác dụng quan trọng của vần là tạo nên âm hưởng vang
ngân trong thơ, từ đó mà diễn đạt và thể hiện nội dung. Đọc đoạn thơ sau:
“Con nên nhớ tổ tông khi trước,
16

skkn


Đã từng phen vì nước gian lao,
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây…”
(Trần Tuấn Khải, Hai chữ nước nhà)
Ở đây vần chính là ao (lao, mao, đào) nhưng bên cạn đó, nhà thơ cịn sử
dụng thêm vần khác (trước/ nước). Trong bốn dòng thơ, hàng loạt các vần liên
tiếp xuất hiện, tạo nên một khúc nhạc ngân nga, diễn tả một niềm tin, niềm
khích lệ ý chí trả nợ nước, báo thù nhà mà người cha đã giao trọng trách cho đứa
con.
Bên cạnh vần, tiếng Việt còn rất giàu thanh điệu. Với 6 thanh (huyền, sắc,
hỏi, ngã, nặng và thanh không dấu), chúng ta có thể nâng cao hoặc hạ thấp
giọng nói, tạo nên sự lên bổng, xuống trầm. Ví dụ: sang là một âm tiết mang
thanh không. Lần lượt thay các thanh, ta có: sáng, sảng, sạng, sẵng, sàng. Người
ta chia 6 thanh trên làm 2 loại bổng và trầm hoặc bằng và trắc. Loại vần bằng
do thanh huyền và thanh không đảm nhận, vần trắc do các thanh còn lại (sắc,
nặng, hỏi, ngã) thể hiện. Nhìn chung những vần bằng thường diễn tả sự nhẹ

nhàng, bâng khuâng, chơi vơi… còn vần trắc thường diễn tả sự trúc trắc, nặng
nề, khó khăn, vấp váp… Về nguyên tắc, bình thường trong các câu thơ, những
vần bằng, trắc đan xen nhau, phối hợp với nhau, nhưng khi mô tả, khắc sâu một
ấn tượng, một cảm xúc, một tâm trạng theo một cung bậc tình cảm nào đó các
nhà thơ thường sử dụng liên tiếp một loại vần.
Có thể dẫn ra rất nhiều ví dụ nữa để minh hoạ cho tính nhạc của ngơn ngữ
Việt trong thơ. Song điều lưu ý khi đọc, phân tích tác phẩm văn học (nhất là thơ)
cần hết sức chú trọng yếu tố này. Một khi thấy âm điệu, âm hưởng, nhạc điệu
của câu thơ khơng bình thường, có sự chuyển đổi (dĩ nhiên là phải tạo nên được
hiệu quả thẩm mĩ nhất định) thì hãy tập trung phân tích chỉ ra giá trị (vai trò và
tác dụng) của chúng trong việc thể hiện nội dung.
3. Từ ngữ và các biện pháp tu từ :
17

skkn


Có thể nói : ‘‘Văn học là nghệ thuật của ngơn từ’’. Nhà văn, nhà thơ
muốn mô tả, tái hiện hiện thực phải thơng qua từ ngữ. Muốn nói đến nỗi lịng
của mình, tình cảm và tư tưởng của mình cũng phải thông qua từ ngữ. Muốn
đánh giá được tác giả viết về những điều đó như thế nào lại cũng phải thơng qua
chữ nghĩa trong tác phẩm…Chính vì vậy mà từ ngữ và các biện pháp tu từ được
coi là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của hình thức chất liệu ngơn từ. Bởi vì
mọi nội dung cần thể hiện của tác phẩm văn học ( trong đó có thơ ) khơng thể có
cách nào khác là nhờ vào hệ thống từ ngữ này. Các phương tiện như dấu câu,
nhịp điệu, ngữ âm ở trên cũng chỉ có ý nghĩa khi nằm trong một văn bản mà từ
ngữ là nền tảng. Do tầm quan trọng ấy mà người ta coi lao động của nhà văn là
thứ lao động chữ nghĩa, nhà văn là phu chữ… Như vậy, ngôn từ là một đặc
trưng quan trọng và nổi bật của văn học. Vì thế trong mỗi tác phẩm văn chương,
đặc biệt là trong thơ trữ tình, ta cần lưu ý một số điểm sau:

Thứ nhất: Phân tích tác phẩm văn học khơng thể thốt li và bỏ qua yếu tố
từ ngữ. Muốn phân tích tốt từ ngữ, trước hết phải nắm vững nghĩa của từ (nghĩa
chung và nghĩa trong văn cảnh cụ thể) sau đó ln ln suy nghĩ để trả lời các
câu hỏi:
- Tại sao tác giả dùng từ này mà không dùng từ khác?
- Tại sao từ ngữ này lại xuất hiện nhiều như thế?
- Có bao nhiêu từ đồng nghĩa với từ ấy? Có thể thay từ ấy bằng một từ
ngữ khác được không?
- Trong câu ấy, đoạn ấy, những từ ngữ nào cần gây chú ý khi phân tích.
ở đây cũng cần nhớ rằng trong một đoạn, một bài văn, bài thơ không phải từ
nào, câu nào cũng đáng phân tích, cũng có giá trị như nhau, chính vì thế biết
phát hiện những từ ngữ đáng phân tích cũng là một năng lực, một trình độ.
Trong thực tế khơng ít người rơi vào tình trạng hoặc là phân tích tất cả, câu nào
cũng phân tích, từ nào cũng khen hay, hoặc là từ ngữ đáng phân tích thì lại bỏ
qua, từ khơng đáng dùng thì say sưa tán tụng. Trong trường hợp phân tích những
tác phẩm văn học dịch phải thật thận trọng khi phân tích từ ngữ. Bởi vì những từ
18

skkn


được đưa ra bình giá chưa chắc đã phải là những từ mà tác giả dùng trong
nguyên bản. Chẳng hạn như ở hai câu cuối của bài ‘‘ Ngắm trăng’’:
Phiên âm:
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tịng song khích khán thi gia.
Dịch thơ:
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Ta thấy bản dịch thơ của Nam Trân chưa thật đúng và sát với nguyên tác.

Hai câu cuối của Bác đăng đối trong từng câu, từng chữ (nhân – nguyệt, hướng
– tòng, khán minh nguyệt – khán thi gia). Phép đối ấy thể hiện sự hô ứng đồng
điệu về trạng thái, tâm hồn giữa người và trăng. Điều kì lạ là các từ chỉ người
(nhân, thi gia) và từ chỉ trăng (nguyệt) đặt ở hai đầu, ở giữa là cửa nhà tù (song).
Thế nhưng, giữa người và trăng vẫn tìm được sự giao hồ, vẫn gắn bó thân thiết,
vẫn tri âm tri kỉ. Khơng những thế, Bác dùng từ ‘‘tịng’’rất ‘‘đắt’’. Vầng trăng
mn đời là niềm mộng ước của các thi nhân, trăng đại diện cho cái đẹp, cái
hoàn mĩ, cái thanh cao. Vậy mà nay, trăng ‘‘tịng’’ theo khe cửa nhà tù chật hẹp,
hơi hám để ‘‘khán’’ thi gia thì hẳn thi sĩ ấy phải thanh cao, đẹp đẽ đến nhường
nào.
Trong nguyên tác, chữ ‘‘khán’’ có nghĩa là ‘‘ngắm’’, nhưng câu thơ được
dịch là ‘‘nhịm’’ làm mất đi tính hàm súc, sự nhã nhặn của ý thơ.
Thứ hai: Người ta nói nhiều đến việc phân tích hình ảnh trong tác phẩm
văn học. Bởi vì cách nói của văn, của thơ, cách thể hiện của văn chương là cách
nói, cách viết bằng hình ảnh. Điều đó hồn tồn đúng. Nhưng hình ảnh trong tác
phẩm văn học là gì, nếu khơng phải là do hệ thống từ ngữ tạo nên. Vì thế phân
tích hình ảnh thực ra là phân tích từ ngữ. Nhờ sử dụng một loạt tính từ mạnh
(hăng, mạnh mẽ) kết hợp các động từ mạnh (phăng, vượt), Tế Hanh đã rất thành
công khi tái hiện được khí thế hừng hực của con thuyền ra khơi, sẵn sàng đối
đầu với thử thách của biển cả. Đó cũng chính là tinh thần sơi sục, hăng hái của
người dân làng chài khi ra khơi:
19

skkn


“Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.”
(Tế Hanh, Quê hương)
Hệ thống từ ngữ gợi hình ảnh, cảm giác trong tiếng Việt rất phong phú, đa

dạng. Ví dụ:
- Gợi về tâm trạng như: xao xuyến, bâng khuâng, phân vân…
- Gợi về thị giác như: la đà, lơ lửng, chấp chới.
- Gợi về thính giác như: sầm sập, rì rào, thánh thót…
- Gợi về vị giác như: mặn chát, chua lòm, ngọt lịm…
- Gợi về xúc giác như: lạnh ngắt, nóng bỏng, xù xì…
Chính do sức gợi này mà nhà văn Nguyễn Tuân tâm sự như khuyên nhủ các
nhà văn khi cầm bút:
"Đã nghĩ kỹ rồi mới cầm bút mà viết ra. Nhưng khi đã viết ra rồi, chưa có
nghĩa là xong hẳn. Viết ra nhưng mà đọc lại (…). Tự mình duyệt lấy lời viết của
mình (…). Cặp mắt soi xuống dịng trang vẫn là giữ vai trò cầm trịch (…).
Nhưng cặp mắt chưa đủ để lọc hết mọi bụi bặm vẫn còn bám theo cái tiếng vừa
phát biểu của mình. Cho nên phải dùng cả cái tai của mình nữa (…). Ngồi việc
soi lắng, hình như phải ngửi lại, nếm lại cái lời mình viết ra kia, trước khi bưng
nó ra cho người khác thưởng thức (…). Có khi lại như chính lịng bàn tay mình
phải sờ lại những góc cạnh câu viết của mình, xem lại có nên cứ gồ ghề chân
chất như thế, hay là nên gọt nó trịn trĩnh đi thì nó dễ vào lỗ tai người tiêu thụ
hơn…" (Về tiếng ta - Tuyển tập Nguyễn Tuân. Nxb Văn học, H. 1982).
Thứ ba: Để tạo cách nói, cách viết có hình ảnh, gợi hình tượng bằng từ
ngữ, các nhà văn có thể vận dụng nhiều cách: Có khi thì dùng từ láy:
“Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng”
(Thế Lữ, Nhớ rừng)
Có khi thì dùng những từ ngữ tượng hình, tượng thanh:
“Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
20

skkn




×