Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Khai thác hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn học nước ngoài trong dạy học văn học trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
--------

KHAI THÁC HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT
CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
TRONG DẠY HỌC VĂN HỌC THPT
Người hướng dẫn:
ThS. Nguyễn Đăng Châu

Người thực hiện:
PHẠM THỊ MAI TRANG
(Khóa 2009-2013)

Đà Nẵng, tháng 5/2013


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của Th.S Nguyễn Đăng Châu. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung
thực của nội dung khoa học trong cơng trình này.
Đà Nẵng, tháng 05 năm 2013
Tác giả khóa luận

Phạm Thị Mai Trang


LỜI CẢM ƠN
***
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Th.S Nguyễn


Đăng Châu, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong suốt
q trình tìm hiểu, nghiên cứu và hồn thành khố luận này.
Tơi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa
Ngữ văn, các cán bộ, nhân viên thư viện trường Đại học Sư
Phạm - Đại học Đà Nẵng đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện cho
tơi hồn thành tốt khóa luận tốt nghiệp.
Lời cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè, người thân
đã luôn động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu .
Đà Nẵng, tháng 05 năm 2013
Tác giả khóa luận

Phạm Thị Mai Trang


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VIẾT ĐẦY ĐỦ

STT

VIẾT TẮT

1

GV

Giáo viên

2

HS


Học sinh

3

SGK

Sách giáo khoa

4

THPT

Trung học phổ thông

5

THCS

Trung học cơ sở

6

VHNN

Văn học nước ngoài


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................4
4. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................4
5. Đóng góp của luận văn ............................................................................................4
6. Kết cấu luận văn ......................................................................................................5
NỘI DUNG................................................................................................................6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIẾP NHẬN VĂN HỌC VÀ VẤN ĐỀ
HÌNH THỨC CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC .........................................................6
1.1. Tiếp nhận văn học ................................................................................................6
1.1.1. Khái niệm Tiếp nhận văn học ...........................................................................6
1.1.2. Q trình tiếp nhận văn học ..............................................................................7
1.1.3. Vai trị của lí thuyết tiếp nhận trong việc dạy tác phẩm văn chương ...............9
1.2. Tác phẩm văn học là một hệ thống chỉnh thể ....................................................10
1.2.1. Tác phẩm văn học ...........................................................................................10
1.2.2. Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức trong tác phẩm văn học ...............12
1.2.3. Vai trò của các yếu tố hình thức nghệ thuật trong tác phẩm văn học .............13
1.3. Tính chất quan trọng của việc khai thác hình thức nghệ thuật tác phẩm Văn học
nước ngoài trong dạy học văn học ở trường THPT ..................................................14
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI Ở
TRƯỜNG THPT .....................................................................................................17
2.1. Vị trí, vai trị của Văn học nước ngồi trong chương trình văn học ở THPT. ...17
2.2. Nội dung, cấu trúc, thời lượng Văn học nước ngoài trong SGK ở trường THPT
...................................................................................................................................20
2.3. Những khó khăn khi giảng dạy Văn học nước ngoài ở trường THPT ...............21
2.3.1. Vấn đề bản dịch ...............................................................................................21
2.3.2. Vấn đề ngôn ngữ .............................................................................................22
2.3.3. Vấn đề phân phối chương trình .......................................................................23



2.3.4. Vấn đề quan niệm của người dạy và người học ..............................................23
2.4. Miêu tả và đánh giá cách khai thác hình thức nghệ thuật trong giảng dạy Văn
học nước ngồi ở trường THPT ................................................................................24
2.4.1. Về phần giáo viên............................................................................................24
2.4.2. Về phần học sinh .............................................................................................27
CHƯƠNG 3 : ĐỀ XUẤT MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG KHAI THÁC
HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT TÁC PHẨM VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
TRONG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG THPT .............................................................28
3.1. Khai thác hình thức nghệ thuật trong dạy tác phẩm Văn học nước ngồi dưới
góc nhìn loại thể văn học ..........................................................................................28
3.1.1. Thơ trữ tình .....................................................................................................29
3.1.1.1 Thơ Đường ....................................................................................................31
3.1.1.2. Thơ Hai – cư.................................................................................................40
3.1.1.3 Thơ Puskin và thơ Tago ................................................................................43
3.1.2. Tác phẩm tự sự ................................................................................................48
3.1.2.1. Tiểu thuyết ...................................................................................................48
3.1.2.2. Truyện ngắn .................................................................................................53
3.1.2.3. Sử thi ............................................................................................................60
3.1.3. Kịch bản văn học .............................................................................................66
3.2. Khai thác hình thức nghệ thuật trong dạy tác phẩm Văn học nước ngoài qua
đối chiếu các bản dịch và với bản gốc ......................................................................69
3.3. Ứng dụng cụ thể qua thuyết kế bài giảng “Tôi yêu em” của A.Puskin theo các
phương hướng đã đề xuất. .........................................................................................76
3.3.1. Mục đích thiết kế .............................................................................................76
3.3.2. Giáo án bài “Tơi u em” - A.Puskin. ............................................................76
KẾT LUẬN ..............................................................................................................77
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập và phát triển vì thế cần có sự phát
triển đồng bộ tất cả các hình thái ý thức xã hội, các nhân tố khác nhau. Trong đó, tất
nhiên khơng thể khơng kể đến nhân tố hàng đầu chính là giáo dục. Giáo dục là quốc
sách hàng đầu, là nền móng vững chắc để phát triển cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nắm bắt được nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đó, các nhà quản lý giáo dục nước ta
ngày càng có những động thái tích cực trong việc đổi mới giáo dục, đổi mới việc
dạy và học theo hướng tích cực, chủ động. Đặc biệt, mơn Ngữ văn được xem là một
trong những môn cần phải đi đầu trong việc thay đổi phương pháp dạy và học để
khai thác triệt để tính chất quan trọng của mơn học này trong việc thực hiện mục
tiêu chung của giáo dục.
Ngữ văn ln đóng vai trị là một trong những bộ mơn chính yếu trong nhà
trường THPT. Quan điểm giáo dục của chúng ta là giáo dục toàn diện nhằm nâng
cao văn, thể, mĩ ở mỗi con người. Môn Ngữ văn trong nhà trường cũng khơng nằm
ngồi hướng đi ấy bằng việc cung cấp cho HS những kiến thức tổng thể khơng chỉ
về văn học Việt Nam mà cịn cả VHNN. Với các em HS đang ngồi trên ghế nhà
trường, học văn học là cách tiếp cận gần hơn với thế giới con người phong phú, đa
dạng, là cách tiếp cận với nhiều nền văn hóa khác nhau, với những sắc tộc và ngơn
ngữ khác nhau để từ đó hiểu thêm về sắc thái đa dạng của sự đa văn hóa của nhân
loại. Học VHNN sẽ khiến các em mở được cánh cửa đến với chân trời tri thức rộng
lớn, những tinh hoa văn hóa nhân loại đủ sức vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của
thời gian, của không gian đến với chúng ta hơm nay.
Nhìn chung những tác phẩm VHNN được chọn lọc để dạy trong chương
trình phổ thông đều là những tác phẩm giàu giá trị nhân bản, giàu tinh thần dân tộc
với nội dung đặc sắc, có tác dụng to lớn trong việc bồi dưỡng những giá trị tinh thần
cao đẹp cho các em HS. Không chỉ thế, đó cịn là những tác phẩm có giá trị nghệ
thuật lớn, đạt trình độ mẫu mực được viết ra bởi những tài năng bậc thầy của các

nhà văn xuất sắc nhất.


2

Tuy nhiên, trong thực tế, việc giảng dạy VHNN trong nhà trường cịn gặp
nhiều khó khăn nhất định, dường như nó vẫn cịn là vùng đất thiêng đối với cả GV
và HS vì những lý do chủ quan và khách quan khác nhau. Phải chăng, lý do trước
nhất xuất phát từ rào cản ngôn ngữ, sự cách biệt về văn hóa đã khiến cho những tác
phẩm VHNN rất khó tiếp nhận đối với đa số GV và HS. Từ tâm lý thấy khó và ngại
dạy mà một số GV đã khơng chịu tìm tịi nghiên cứu các phương pháp thiết thực và
sáng tạo để cuốn hút HS. HS cũng ngại học nên có những suy nghĩ mơ hồ và sai
lệch về kiến thức VHNN. Một thực tế khác cho thấy, nhiều GV khi dạy tác phẩm
chú trọng quá nhiều đến nội dung mà không thấy được tầm quan trọng của các giá
trị nghệ thuật được xem là một trong những yếu tố đặc sắc của tác phẩm văn
chương nước ngoài.
Đối với mơn Ngữ văn, việc khai thác hình thức nghệ thuật tác phẩm văn
chương và truyền thụ đến HS là một vấn đề khó, khó ở mảng văn học Việt Nam và
càng khó hơn bội phần đối với mảng VHNN. Khó nhưng khơng phải là khơng có
hướng giải quyết, điều đó phụ thuộc vào trình độ, kỹ năng và sự tìm tịi nghiên cứu
cùng lịng u nghề, tinh thần nhiệt huyết ở người GV. Là một sinh viên ngành Sư
phạm Ngữ văn, một nhà giáo trong tương lai, người viết xin được thêm một đóng
góp nhỏ qua luận văn nghiên cứu với đề tài “Khai thác hình thức nghệ thuật của
tác phẩm Văn học nước ngoài trong dạy học văn học THPT”. Hy vọng những gì
được nghiên cứu trong khóa luận này sẽ đóng góp thêm một phương pháp dạy hiệu
quả, tích cực đối với mảng VHNN nói riêng và bộ mơn Ngữ văn nói chung trong
trường THPT.
2. Lịch sử vấn đề
Ở phương diện là bộ môn khoa học về phương pháp giảng dạy thì đề tài
“Khai thác hình thức nghệ thuật của tác phẩm Văn học nước ngoài trong dạy

học văn học THPT” là vấn đề khá mới mẻ, mang tính tổng hợp, nói chung chưa có
cơng trình nào đi sâu vào nghiên cứu một cách cụ thể và chi tiết. Tuy nhiên những
cơng trình về phương pháp dạy học văn nói chung, phương pháp dạy học VHNN
nói riêng thì khá là đa dạng, phong phú.


3

Về những bài viết, giáo trình, cơng trình nghiên cứu về phương pháp phân
tích, giảng dạy tác phẩm văn chương và những vấn đề liên quan đến thực tế giảng
dạy tác phẩm văn chương ở trường THPT, có một số cơng trình tiêu biểu như :
Nguyễn Thị Thanh Hương, Dạy học văn ở trường Phổ thông, NXB ĐHQGHN,
2001; Đặng Hiển, Dạy văn, học văn, NXB Đại học Sư phạm, 2005; Nguyễn Thị Dư
Khánh, Phân tích tác phẩm từ góc độ thi pháp, NXB Giáo dục, 2009; Phan Trọng
Luận (Chủ biên), Phương pháp dạy học văn, NXB ĐHQGHN, 1997; Nguyễn
Thanh Hùng (Chủ biên), Phương pháp dạy học ngữ văn THPT- những vấn đề cập
nhật, NXB Đại học Sư phạm, 2007;.v.v...
Về phương pháp dạy VHNN trong nhà trường theo hướng tiếp cận khai thác
các hình thức nghệ thuật của tác phẩm, phải kể đến các cơng trình nổi bật sau:
Nguyễn Thị Lan, VHNN trong nhà trường, NXB Hội nhà văn, 2010; Nguyễn Viết
Chữ, Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương : Theo loại thể- Tái bản, có sửa
chữa, bổ sung, NXB Đại học Sư phạm, 2006; Phùng Văn Tửu, Cảm thụ và giảng
dạy VHNN, NXB Giáo dục, 2003.v.v...
Nhận xét chung :
Những giáo trình, sách, bài viết nghiên cứu về phương pháp giảng dạy văn
học nói chung và giảng dạy VHNN nói riêng trong nhà trường khá phong phú, đa
dạng. Mỗi công trình, bài viết đều có những đóng góp nhất định trong việc định
hướng phương pháp giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong nhà trường, cả mảng văn học
Việt Nam và VHNN. Tuy nhiên, đi sâu vào tìm hiểu và tạo lập một hệ thống những
phương pháp cụ thể cho việc khai thác hình thức nghệ thuật tác phẩm VHNN trong

dạy học ở trường THPT thì hầu như vẫn chưa có cơng trình nào đề cập một cách
đầy đủ. Do đó, bằng việc học tập, kế thừa những thành quả của người đi trước,
người viết muốn nghiên cứu đề tài “Khai thác hình thức nghệ của tác phẩm Văn
học nước ngồi trong dạy học văn học THPT”, để đề xuất những phương pháp
thiết thực nhằm hỗ trợ cho GV khơng cịn những lúng túng khi tiếp cận với tác
phẩm VHNN và gặp khó khăn trong việc giảng dạy hình thức nghệ thuật của tác
phẩm.


4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài “Khai thác hình thức nghệ của tác phẩm Văn học nước ngoài
trong dạy học văn học THPT” nhằm nghiên cứu và đề ra phương hướng giảng
dạy chương trình VHNN về mặt hình thức nghệ thuật trong khn khổ nhà trường
THPT với ba khối lớp 10, 11, 12 (ban cơ bản và ban nâng cao). Đề tài bao quát gần
như mọi tác phẩm và các thể loại VHNN có trong SGK THPT, chỉ loại trừ các tác
phẩm thuộc thể loại nghị luận văn học.
4. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ đặc điểm của đối tượng nghiên cứu và mục đích của luận văn,
chúng tôi thực hiện đề tài theo những phương pháp sau:
Phương pháp khảo sát thực tiễn: thông qua dự giờ các tiết dạy học ở
trường phổ thông; tham khảo các giáo án dạy học liên quan đến đề tài; phỏng vấn
cùng HS và GV... để rút ra thực trạng dạy và học VHNN ở trường phổ thông.

Phương pháp miêu tả, so sánh, qui nạp: miêu tả thực trạng dạy - học
VHNN trong nhà trường phổ thơng dưới góc độ tiếp cận các hình thức nghệ thuật,
so sánh đối chiếu các tài liệu, sách hướng dẫn dành cho GV, HS, các tư tưởng, quan
điểm, ý kiến khác nhau xung quan vấn đề liên quan; quy nạp thành những vấn đề có
ý nghĩa phương pháp luận.


Phương pháp nghiên cứu liên ngành: vận dụng thành tựu của nhiều
ngành: nghiên cứu văn học, lý luận văn học, ngôn ngữ học, tâm lý học, giáo dục
học, văn hóa học... trong đó đặc biệt chú trọng vận dụng những thành tựu của những
cơng trình nghiên cứu dạy học tác phẩm VHNN, thi pháp thể loại và những thành
tựu khoa học về phương pháp dạy học văn.
5. Đóng góp của luận văn
“Khai thác hình thức nghệ thuật của tác phẩm Văn học nước ngoài
trong dạy học văn học THPT” của chúng tôi là một đề tài mang tính chất học tập
và thử nghiệm là chủ yếu. Tuy nhiên, chúng tơi mong muốn sẽ đóng góp cho nền
giáo dục nước nhà một biện pháp để hướng dẫn HS học tập đồng thời nâng cao chất
lượng trong việc cảm thụ và giảng dạy tác phẩm văn học nói chung và VHNN nói


5

riêng. Mặt khác, với luận văn này, chúng tôi cũng hi vọng GV sẽ phần nào thoát
khỏi những lúng túng, bế tắc khi thực hiện cơng việc khai thác hình thức nghệ thuật
tác phẩm văn chương nước ngoài, nâng cao chất lượng giảng dạy đáp ứng được yêu
cầu đổi mới phương pháp dạy học văn trong phổ thông hiện nay.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài các phần “Mở đầu”, “Kết luận”, “Tài liệu tham khảo” và “Phụ lục”,
kết cấu phần “Nội dung” luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tiếp nhận văn học và vấn đề hình thức của tác
phẩm văn học.
Chương 2: Thực trạng giảng dạy Văn học nước ngoài ở trường THPT
Chương 3: Đề xuất một số phương hướng khai thác hình thức nghệ thuật tác
phẩm Văn học nước ngoài trong dạy học ở trường THPT



6

NỘI DUNG
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIẾP NHẬN VĂN HỌC VÀ VẤN ĐỀ HÌNH THỨC
CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC
1.1. Tiếp nhận văn học
1.1.1. Khái niệm Tiếp nhận văn học
Quyển 150 thuật ngữ văn học của Lại Nguyên Ân định nghĩa: “Tiếp nhận
văn chương là một quá trình chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mỹ của tác phẩm
văn học, bắt đầu từ cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, tình
cảm, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ của nhà văn… đến sản phẩm sau đọc: cách
hiểu, ấn tượng, trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt động sáng tạo bản dịch” [1, tr. 311].
Từ định nghĩa này, rõ ràng tiếp nhận là một hoạt động của con người mang
tính sáng tạo, tham gia vào sáng tạo. Tiếp nhận văn học là một quá trình tiếp thu
lĩnh hội một đối tượng nghệ thuật là tác phẩm văn học. Tiếp nhận văn học đồng
nghĩa với việc đọc hiểu những gì đã đọc thơng qua ngơn từ và những gì có ý nghĩa
nhân sinh thẩm mỹ trong tác phẩm văn chương. Khi đọc tác phẩm văn chương,
người tiếp nhận không thể với tới hiện thực tiếp nhận ở dạng nguyên thủy được mà
chỉ có thể hiểu được qua thế giới nghệ thuật được sắp đặt, tổ chức bằng ngôn ngữ và
trong ngơn ngữ.
Tiếp nhận văn học có liên quan đến các khái niệm: Đọc văn bản, đọc văn
chương, tiếp nhận văn chương, cảm thụ văn chương, tiếp thu, thưởng thức…
Khác với “Tiếp nhận” là khái niệm chỉ hoạt động tiếp thu (đọc, nghe, xem)
tác phẩm (gồm cả sáng tác văn học và khoa học) với nhiều mục đích khác nhau, để
hiểu biết, giải trí, thưởng thức, khảo cứu… Tiếp nhận văn học là khái niệm chỉ việc
tiếp thu những sáng tác văn học, là chỉ cách tiếp thu thiên về thưởng thức, cảm thụ.
Tuy vậy, tiếp nhận văn học cũng khác với cảm thụ văn học. Cảm thụ văn học là sự
nhận biết bằng cảm tính trực cảm, nó là tiền đề để đi vào tác phẩm. Tiếp nhận văn
học địi hỏi sự bộc lộ của cá tính, thị hiếu, lập trường xã hội, sự tán thành hay phản



7

đối… Do đó, khái niệm tiếp nhận văn học bao quát hơn và bao hàm các khái niệm
“Cảm thụ”, “Thưởng thức”, “Lý giải văn học”…
Nói tóm lại, với tư cách là phương pháp luận, tiếp nhận văn học đã đem lại
ánh sáng mới, đã mở rộng phạm vi nghiên cứu văn chương, mở thêm một lối đi cho
khảo sát văn chương khiến nó khơng bị đóng khung trong việc xem xét mối quan hệ
nhà văn và tác phẩm.
1.1.2. Quá trình tiếp nhận văn học
Tác phẩm văn học được sáng tác ra để thưởng thức, tiếp nhận. Một tác phẩm
sau khi được tác giả hồn thành cịn ở dưới dạng văn bản, nó thật sự trở thành tác
phẩm chỉ khi đến tay người đọc, bắt đầu đời sống của nó. Đời sống của một tác
phẩm văn học diễn tiến từ hai phía: người sáng tạo ra nó và phía người tiếp nhận.
Tác phẩm văn học là một đối tượng nhận thức đặc thù vì nó là sản phẩm tinh
thần đặc biệt. Muốn chiếm lĩnh, tiếp nhận không thể vận dụng những năng lực hoạt
động nhận thức chung mà cần đến những năng lực đặc thù qua hình tượng thẩm mỹ
vốn là một hình tượng nhận thức phát triển ở mức cao hơn những hoạt động nhận
thức bằng lý luận. Tác phẩm văn học là một sáng tạo tinh thần của cá nhân người
nghệ sĩ. Nó khơng phải là một vật thể thẩm mỹ cụ thể mà là một tồn tại phi vật thể
thơng qua hình tượng thẩm mỹ được vật chất hố bằng hệ thống tín hiệu ngơn ngữ
nghệ thuật.
Tác phẩm văn chương nào cũng nhằm mục đích thơng báo tình cảm thẩm
mỹ. Nhà văn gửi đến cho người đọc nhiều xúc động mãnh liệt nhất về cuộc sống,
con người dưới ánh sáng của một lý tưởng thẩm mỹ. Nội dung đó được thể hiện qua
hình tượng thẩm mỹ, được hệ thống hố qua hệ thống ngơn ngữ nghệ thuật do nhà
văn sáng tạo nên. Đó là một đặc trưng riêng trong sáng tác văn học và trong tiếp
nhận văn học. Tiếp nhận chính là tìm hiểu những tình cảm thẩm mỹ bằng hình
tượng thẩm mỹ qua hệ thống ngơn ngữ. Đây là một qui trình khép kín của tác phẩm

văn học từ sáng tác đến bạn đọc và ngược lại.
Từ qui trình tác động của tác phẩm văn học đối với bạn đọc, chúng ta nhận
thấy qui trình tiếp nhận tác phẩm là quá trình tiếp thu, lĩnh hội những giá trị mà văn


8

bản tác phẩm văn học mang đến cho người đọc. Nó địi hỏi người đọc phải có
những năng lực cụ thể. Q trình đó diễn ra theo một chiều duy nhất; đó là đọc văn
và tri giác ngơn ngữ: “Tiếp nhận văn học là một q trình, vì nó chỉ thực sự diễn ra
theo một hoạt động duy nhất là đọc văn” [21, tr.35].
Tác động là một tính chất của q trình tiếp nhận. Tác phẩm văn học thơng
qua các phương tiện biểu đạt như ngôn từ, cú pháp, biện pháp tu từ… tạo nên những
hình tượng âm thanh, hình ảnh, nhịp điệu… tác động lên tri giác, xúc giác của
người đọc, bắt đầu một q trình chuyển hóa tác phẩm từ văn bản đến nội dung ý
nghĩa trong tư duy của người đọc. Q trình tác động có tính chất tương tác. Hình
tượng văn học tác động lên tri giác, xúc giác của người đọc, khai mở những giác
quan, tư duy. Ngược lại, người đọc tiếp nhận các hình tượng lại tác động ngược lại
hình tượng, gắn cho nó những cung bậc ý nghĩa mới.
Có thể phân biệt nhiều loại tiếp nhận: tiếp nhận của bạn đọc nói chung, tiếp
nhận của nhà văn, nhà phê bình và đặc biệt ở đây chúng ta khai thác vấn đề tiếp
nhận của HS. Như chúng ta đã biết, người tiếp nhận là HS có tính chất đặc thù
riêng. Thứ nhất, tuổi đời các em còn rất trẻ, tâm lý đang chuyển giao giữa tính cách
cịn trẻ con trên bước đường thành người lớn nên chưa ổn định. Thứ hai là do non
tuổi đời nên những tri thức về lịch sử xã hội cịn khá hạn hẹp. Các em chỉ mới tích
lũy được những kiến thức được dạy ở nhà trường, những tri thức khác nếu có cũng
ở mức độ giới hạn. Và nhất là các em còn rất non kinh nghiệm, thiếu vốn sống, ít
trải đời nên việc hiểu nghĩa, liên tưởng trong học tập tác phẩm văn chương, hiểu hết
được ý nghĩa lịch sử xã hội của tác phẩm là một thách thức không nhỏ.
Tuy vậy, ở lứa tuổi này, các em đã bắt đầu hình thành tính chủ định trong

q trình tư duy nhận thức. Cùng với sự phát triển về nhận thức, các em bắt đầu
hình thành tâm lý tự ý thức. Các em có nhu cầu tự khám phá những đặc điểm tâm lý
và lý giải nó theo quan điểm riêng, theo mục đích sống và theo lý tưởng của các em.
Việc biết tự nhìn nhận, đánh giá thể hiện khả năng cảm thụ, sáng tạo của các em
trong học tập. Tuy non nớt về tuổi đời, kinh nghiệm sống nhưng các em lại có một
tâm hồn tinh tế, rộng mở, trí tưởng tượng phong phú, đa dạng, khả năng liên tưởng


9

cao. Vấn đề là làm thế nào kích thích, định hướng và phát huy những mặt tích cực
cũng như hạn chế những suy nghĩ, tác động tiêu cực của tác phẩm văn học lên tư
tưởng, tâm hồn các em. Một khi hiểu được vấn đề tâm sinh lý HS, việc nghiên cứu
để tạo cho các em sự hứng khởi trong học tập là rất cần thiết. Phát huy vai trò bạn
đọc, năng lực cảm thụ của HS là huy động một cách khoa học những năng lực chủ
quan của các em, để các em thật sự thấy hứng khởi, chủ động tham gia vào quá
trình tiếp nhận văn học, như thế giờ dạy học tác phẩm văn chương mới có hiệu quả.
1.1.3. Vai trị của lí thuyết tiếp nhận trong việc dạy tác phẩm văn chương
Giảng dạy Ngữ văn là công việc tiếp nhận văn học và định hướng tiếp nhận
văn học cho HSPT. Chương trình SGK sẽ là căn cứ rõ nhất để nghiên cứu tìm hiểu
vấn đề tiếp nhận văn học theo hướng chính thống trong nhà trường được triển khai
như thế nào. Sự biến đổi của nội dung chương trình phản ánh mức độ thích ứng
giữa thực tế giảng dạy với lí luận mới về tiếp nhận văn học.
Dạy học tác phẩm văn chương là quá trình người thầy chuyển tải những nội
dung mà hình tượng tác phẩm thể hiện đến HS. Mối quan hệ giữa GV - HS - tác
phẩm là mối quan hệ vòng tròn khép kín. Tác phẩm là đối tượng chung để GV lẫn
HS cùng nhau khai thác. GV trong tư cách là người đọc trước có kinh nghiệm nắm
vững kiến thức sẽ là người hướng dẫn, truyền thụ kinh nghiệm cho HS, chỉ cho các
em con đường tiếp cận tác phẩm. HS chính là trung tâm của dạy học, bằng mọi con
đường trực tiếp tác động lên tác phẩm để tìm ra chân lý dưới sự hướng dẫn của GV.

Chúng ta có thể thấy mối quan hệ đó qua mơ hình sau:
Giáo viên

Học sinh

Tác phẩm

Tác phẩm văn chương được xây dựng từ ngôn từ nghệ thuật. Dạy đọc hiểu
tác phẩm văn chương là dạy cho HS cách thức tiếp nhận tác phẩm văn chương trên
cơ sở đọc hiểu ngôn từ nghệ thuật là chủ yếu. Muốn hiểu được tác phẩm văn
chương phải đi từ ngôn từ nghệ thuật và vận dụng những kiến thức về loại thể, xã


10

hội, Tiếng Việt, Làm văn để tìm hiểu nghĩa từ và nắm bắt thông tin tác phẩm muốn
truyền đạt.
Giảng dạy tác phẩm văn chương trong nhà trường thì vấn đề hướng dẫn HS
khai thác được nội dung và nghệ thuật tác phẩm là vấn đề cốt lõi. Nội dung nghệ
thuật và hình thức nghệ thuật của tác phẩm chỉ phát huy ý nghĩa khi tham gia vào
qua trình giao lưu giữa tác giả với người nghe, người đọc. Giảng dạy tác phẩm văn
học, vì vậy, khơng thể khơng tìm hiểu vấn đề nội dung và hình thức, mà cũng khơng
thể khơng tìm hiểu vấn đề sáng tác và tiếp nhận. Có thể xem vấn đề nội dung và
hình thức là vấn đề cấu trúc của văn học. Còn vấn đề sáng tác và tiếp nhận là vấn
đề cơ chế của văn học. Cấu trúc là xét trong bản thể; cơ chế là xét trong sự vận
động. Đó là sự vận động từ người nói, người viết cho tới người nghe, người đọc, từ
người phát tin cho tới người nhận tin. Rõ ràng chỉ qua cơ chế mới hiểu được cấu
trúc, và cấu trúc chỉ được bộc lộ qua cơ chế.
1.2. Tác phẩm văn học là một hệ thống chỉnh thể
1.2.1. Tác phẩm văn học

Tác phẩm văn học là cơng trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hoặc một
tập thể sáng tạo nhằm thể hiện những khái quát về cuộc sống, con người; biểu hiện
tâm tư, tình cảm, thái độ... của chủ thể trước thực tại bằng hình tượng nghệ thuật.
“Tác phẩm văn học có thể tồn tại dưới hình thức truyền miệng (văn học dân gian,
folklore văn học) hay dưới hình thức văn bản nghệ thuật được giữ gìn qua văn tự
(văn học viết, văn học bác học), có thể được viết bằng văn vần hay văn xi. Xét về
dung lượng, tác phẩm văn học có thể rất đồ sộ như Chiến tranh và hịa bình của L.
Tơnxtơi, Sông Ðông êm đềm của Sôlôkhốp, Những người khốn khổ của V. Huy-gơ
hoặc cũng có thể chỉ là một bài thơ ngắn vài ba câu...” [47]
Ðời sống văn học bao gồm nhiều chỉnh thể: tác phẩm, tác giả, trào lưu, nền
văn học của một dân tộc. Trong những chỉnh thể đó, tác phẩm văn học là đơn vị cơ
bản, trực tiếp của người sáng tác, nghiên cứu, phê bình, thưởng thức. Chính vì vậy,
có thể nói tác phẩm văn học có một tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống văn học.
Tầm quan trọng đó cịn được biểu hiện trên các phương diện của việc nghiên cứu


11

văn học. Mọi bộ môn của khoa nghiên cứu văn học đều xuất phát từ sự tìm hiểu,
phân tích, nghiên cứu tác phẩm.
Tác phẩm văn học được xem là một chỉnh thể nghệ thuật được hình thành
trên cơ sở liên kết các yếu tố theo những quan hệ nhất định. Do mỗi tác phẩm là
một chỉnh thể nghệ thuật độc đáo khơng lặp lại, cho nên có thể nói có bao nhiêu tác
phẩm thì có bấy nhiêu chỉnh thể. Tuy vậy các tác phẩm văn học vẫn có những đặc
điểm chung trong tổ chức tác phẩm. Có thể phân tích các điểm chung đó qua cấu
trúc chỉnh thể của tác phẩm với các lớp khác nhau.
Tiếp xúc với tác phẩm trước hết phải đọc được văn bản ngôn từ của nó.
Người ta gọi đó là lớp ngơn từ hay là lớp văn bản. Ở lớp này tạo nên văn bản tác
phẩm là ngôn từ đã được tổ chức thành lời văn nghệ thuật. Văn bản ngôn từ tổ chức
tác phẩm thành những phần như: chương, hồi, tiết, đoạn trong truyện; dòng thơ, câu

thơ, khổ thơ, đoạn thơ trong thơ; lớp, cảnh, màn, hồi trong kịch...
Qua văn bản ngôn từ người đọc bắt gặp những câu chuyện, những cảm xúc,
tư tưởng, những con người, cảnh vật, sắc màu, khơng khí... Đó là cả một "bức tranh
đời sống" (Timofeev), một thế giới như ta đã gặp đâu đó trong đời, lại như chưa gặp
bao giờ. Nhưng đó là thế giới mà người đọc có thể tưởng tượng và cảm nhận được
dù là thế giới hiện thực hay thế giới huyền ảo... Người ta gọi lớp này là lớp thế giới
nghệ thuật hay là lớp hình tượng. Thành phần của lớp này bao gồm các yếu tố tạo
nên thế giới nghệ thuật của tác phẩm như: nhân vật, chi tiết, truyện, cốt truyện,
không gian, thời gian... Mỗi nhà văn, mỗi thời đại văn học sáng tạo ra một thế giới
nghệ thuật riêng. Tiếp nhận được thế giới này là cơ sở để hiểu tư tưởng – nghệ thuật
của tác phẩm, cảm nhận được những gì nhà văn miêu tả, kí thác cũng như cái nhìn,
quan niệm của nhà văn về con người, cuộc sống.
Thế giới hình tượng nghệ thuật của tác phẩm được tổ chức theo một ý đồ
nghệ thuật, một quan niệm nghệ thuật nhất định tạo nên lớp kết cấu của tác phẩm.
Lớp kết cấu này vừa là sự tổ chức bên ngoài (bố cục văn bản), vừa là sự liên kết bên
trong giữa các yếu tố với nhau, giữa các yếu tố với chỉnh thể. Thành phần lớp này
bao gồm toàn bộ hệ thống liên kết văn bản, phương thức tổ chức các yếu tố nghệ


12

thuật của tác phẩm từ bố cục chung cho đến cách dẫn chuyện; từ cách sắp xếp hệ
thống nhân vật cho tới cách bố trí các sự kiện; từ cách tổ chức cảm xúc, cấu tứ cho
tới việc lựa chọn ngôn từ; từ cách lựa chọn hành động cho tới cách bộc lộ xung
đột... Lớp này phụ thuộc vào đặc điểm loại thể và ý đồ nghệ thuật của nhà văn.
Văn bản tác phẩm một mặt chịu sự quy định của quy luật ngơn ngữ nói
chung trên các bình diện ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng, phong cách; mặt khác lại chịu
sự quy định của quy luật loại thể (các loại thể khác nhau có các văn bản khác nhau).
Văn bản nghệ thuật của tác phẩm cũng bị chi phối bởi đặc điểm, nghệ thuật của chủ
thể sáng tạo. Cho nên ngay từ văn bản người ta đã có thể "đọc" được giọng văn của

tác giả và văn phong của nhà văn. Việc giảng dạy văn học, nhất là giảng văn, đòi
hỏi thầy trò phải tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm. Những nguyên tắc và phương pháp
phân tích do lí luận đề xuất chỉ mới là chỗ dựa cần thiết cho việc giảng dạy chứ
không thể thay thế cho việc tìm hiểu trực tiếp tác phẩm được.
Như vậy, mọi vấn đề của văn học đều tập trung trước hết ở tác phẩm. Có thể
coi tác phẩm như một chỉnh thể trung tâm của hoạt động văn học. Tính chỉnh thể
của tác phẩm văn học được xem xét chủ yếu trong mối quan hệ giữa nội dung và
hình thức.
1.2.2. Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức trong tác phẩm văn học
Trong cấu trúc chỉnh thể của tác phẩm ngồi mối quan hệ giữa chỉnh thể và
yếu tố cịn có mối quan hệ rất quan trọng là quan hệ giữa nội dung và hình thức.
Phải xem xét tác phẩm cả trên hai quan hệ này mới thấy được tính chỉnh thể trọn
vẹn của nó.
Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức được biểu hiện ở 2 mặt: nội dung
quyết định hình thức và hình thức phù hợp nội dung. Trong mối tương quan giữa
nội dung và hình thức, nội dung bao giờ cũng đóng vai trị chủ đạo. Nó là cái có
trước, thơng qua ý thức năng động và tích cực của chủ quan nghệ sĩ, cố gắng tìm
một hình thức phù hợp nhất để bộc lộ một cách đầy đủ, hấp dẫn nhất bản chất của
nó.


13

Từ quan điểm văn học là đơn vị ngôn từ, ta nhìn nhận và lý giải thực chất nội
dung nghệ thuật và hình thức nghệ thuật của tác phẩm là như vậy. Cũng cần phải trở
lại vấn đề then chốt là sự thống nhất hữu cơ giữa nội dung nghệ thuật và hình thức
nghệ thuật của một tác phẩm. Khơng có nội dung nào lại khơng tồn tại trong một
hình thức nhất định, và khơng có hình thức nào lại khơng thể hiện một nội dung nào
đó. Hình thức yếu kém, non yếu ta gọi là chủ nghĩa sơ lược; còn nội dung yếu kém,
trống rỗng ta gọi là chủ nghĩa hình thức. Như vậy ta khơng loại bỏ phạm trù nội

dung nghệ thuật và hình thức nghệ thuật khi bàn về tác phẩm. Từng có những
trường phái lý luận có dụng ý loại bỏ hai phạm trù này khi nghiên cứu tác phẩm
nghệ thuật. Họ cho đây là những khái niệm lý thuyết vô bổ. Họ chỉ thấy cái toàn thể
và cái bộ phận trong cấu trúc bên trong của tác phẩm. Trong hệ thống lý luận đang
bàn thì vẫn có thể vận dụng hai phạm trù cơ bản này để nghiên cứu tác phẩm. Tất
nhiên chúng phải được nhìn theo bản chất ngơn từ của văn học như đã trình bày.
Nội dung là ngơn từ về những cái gì, và hình thức là ngơn từ bằng những cách nào.
1.2.3. Vai trị của các yếu tố hình thức nghệ thuật trong tác phẩm văn học
Hình thức nghệ thuật là một hệ thống các phương tiện và phương thức thể
hiện nội dung. Nó được hợp thành bởi nhiều yếu tố: nghệ thuật sử dụng các chất
liệu, phương tiện nghệ thuật, các qui định của loại thể, những biện pháp kết cấu,
cách xây dựng nhân vật, thể hiện hình tượng... Tất cả đều nhằm mục đích biểu hiện
trực tiếp và sinh động nội dung của tác phẩm, tạo thành một dạng tồn tại nhất định
của nội dung ấy, qua đó xây dựng tác phẩm thành một chỉnh thể nghệ thuật thống
nhất.
Vậy hình thức nghệ thuật dưới cái nhìn bản chất ngơn từ của tác phẩm cụ thể
là gồm những yếu tố nào? Có thể thấy ba nhân tố. Thứ nhất là thể loại. Thể loại theo
quan điểm này chính là vóc dáng chung của tác phẩm với tính cách là đơn vị ngơn
từ. Ngơn từ đó là một câu tục ngữ, một bài ca dao, một thiên truyện cổ, hay một bài
thơ, một cuốn truyện, một vở kịch. Bài thơ thì là đoản thiên hay trường thiên, là thơ
luật, thơ tự do hay thơ văn xuôi… Điều ta thấy đầu tiên khi tiếp xúc với văn học là


14

thể loại nhất định của tác phẩm, được xem như là hình dạng chung của lời nói.
Người sáng tác muốn thể hiện ý đồ nghệ thuật trước tiên phải chọn thể loại.
Sau khi chọn được thể loại thì tác giả phải cấu tạo lời nói của mình. Bất cứ
lời nói nào cũng đều có cấu tạo. Đơn giản nhất là một câu tục ngữ thì cũng phải có
cấu tạo. Một bài thơ, một thiên tiểu thuyết hiện đại lại càng phải có cấu tạo chung.

Người viết phải trình bày diễn biến trước sau của lời nói. Ngơn từ bao giờ cũng có
diễn tiến, kết cấu tác phẩm chính là diễn trình của ngơn từ, tức lời nói đi qua chặng
đường nào. Nói cái gì trước cái gì sau. Có khi cái diễn ra trước được nói trước, cái
diễn ra sau được nói sau. Cũng có khi ngược lại. Tất cả đều tùy thuộc vào ý đồ nghệ
thuật, nhằm tạo ra ấn tượng khó quên của lời nói. Đã gọi là lời nói thì phải có cái
trước, cái sau. Trước sau đó là cấu trúc tạo ra vóc dáng bao quát của nội dung. Nội
dung diễn biến ra sao qua diễn trình cụ thể chính là kết cấu của cơng trình nghệ
thuật. Như lý luận truyền thống, kết cấu có kết cấu tình tiết hay khơng tình tiết, có
cốt truyện hay khơng có cốt truyện, có nhân vật hay khơng có nhân vật. Kết cấu tự
sự, kết cấu trữ tình hay kết cấu kịch.
Yếu tố sau cùng của hình thức là phong cách ngôn từ của tác phẩm. Nghĩa là
xét xem chính bản thân ngơn từ được thực hiện như thế nào. Suy cho cùng, nhân tố
thứ ba này bao trùm lên nhân tố thứ nhất và thứ hai. Ngôn từ trong tác phẩm được
khái thác đến mức tối đa mọi sức mạnh vốn có của lời nói, để tạo nên giá trị thực tế
trong khả năng của mỗi cá nhân. Đó là lĩnh vực của phong cách ngơn từ, biến ngôn
từ thông thường thành ngôn từ nghệ thuật mang dấu ấn riêng của mỗi người.
1.3. Tính chất quan trọng của việc khai thác hình thức nghệ thuật tác phẩm
Văn học nước ngoài trong dạy học văn học ở trường THPT
Thời cổ đại, Arixtot rất coi trọng về hình thức, với luận điểm của mình: “chất
liệu cộng với hình thức thì tạo thành bản chất của sự vật”, trong “Bút ký triết học’
của mình Lênin cũng nói: “Hình thức mang tính bản chất. Bản chất được biến thành
hình thức” [31, tr.129]. Xét cụ thể hơn, chúng ta thấy rằng, hình thức là phương
thức tồn tại và biểu hiện của nội dung tác phẩm văn chương, nó hàm chứa mọi quy
tắc biểu đạt và biểu hiện cho sự phong phú của nội dung thật sự bao quát. Không


15

phải riêng ai, mà bất kỳ một người nào muốn đi vào nghiên cứu, tìm tịi mặt nội
dung của tác phẩm đều phải mở được cánh cửa hình thức này, tức là chỉ có một con

đường duy nhất: “đi sâu khám phá hình thức”.
Phân tích tác phẩm văn học là phải thơng qua hình thức để nói nội dung. Tuy
nhiên qua hình thức để nói nội dung khơng phải là phân tích bất cứ hình thức nào,
mà chỉ tập trung phân tích những hình thức mang tính nội dung. Sự phát triển của
khoa học gần đây như kí hiệu học, lí thuyết thơng tin... đã có nhiều gợi ý bổ ích cho
việc phân tích tác phẩm văn học. Nhưng có người từ đó cho rằng, cách phân tích nội
dung qua hình thức đã lỗi thời. Thật ra, chỉ có quan niệm cũ, nói đúng hơn là quan
niệm sai hoặc sót về nội dung và hình thức mới quá thời mà thơi. Cịn mối liên hệ
biện chứng đích thực giữa nội dung và hình thức vẫn là mối tương quan cơ bản nhất
trong tác phẩm văn học, mặc dù đó khơng hề là duy nhất.
Việc phân tích hình thức tác phẩm giúp ta thâm nhập vào cấu trúc tác phẩm,
cốt cách tư duy của tác giả cũng như nắm bắt “mã” văn hóa nghệ thuật của tác giả
và các thời kỳ văn học nghệ thuật, từ đó nâng cao cảm thụ tác phẩm. Với việc cảm
thụ văn học thì phân tích hình thức nghệ thuật giúp tránh xa những tùy tán, mâu
thuẫn chủ quan. Tìm ra mối tương quan của các yếu tố trong hệ thống hình thức và
mối tương quan giữa nội dung và hình thức khơng phải bao giờ cũng dễ dàng nhưng
đã trở thành một nguyên tắc cơ bản nhất trong cảm thụ và phân tích tác phẩm văn
học trong nhà trường.
Đi từ hình thức nghệ thuật để giải mã nội dung chính là con đường thâm
nhập, lý giải đúng đắn tác phẩm văn chương nói chung. Nội dung, tư tưởng của một
tác phẩm văn chương bao giờ cũng được mã hoá bằng các phương tiện nghệ thuật,
qua các dấu hiệu hình thức nghệ thuật. Do vậy, hướng dẫn HS phát hiện, khám phá
các tầng sâu nội dung tác phẩm cũng đồng nghĩa với việc hướng dẫn các em phát
hiện được những dấu hiệu hình thức nghệ thuật. Đây cũng là con đường tiếp cận tác
phẩm văn chương nói chung trong mối quan hệ hữu cơ, biện chứng giữa hình thức
và nội dung. Điều này là hồn tồn phù hợp với quy luật sáng tác của tác giả cũng
như quy luật tiếp nhận tác phẩm văn chương của bạn đọc.


16


Thông qua ngôn ngữ, cái đẹp trong văn học đến với HS trước hết ở hình thức
của nó như hình ảnh, nhịp điệu, sau đó mới đến nội dung của nó như ý nghĩa, bài
học về cuộc sống. Và cả hình thức lẫn nội dung ấy hịa quyện với nhau làm thành
cái hồn của nó, cái chất của văn học. Nhiệm vụ của người thầy dạy văn là làm cho
HS cảm thụ được cái đẹp một cách tự giác, một cách có ý thức từ hình ảnh và nhịp
điệu của tác phẩm văn học, từ ý nghĩa và những bài học đường đời của tác phẩm
văn học, từ ngôn ngữ của tác phẩm. Đó là nhiệm vụ đầu tiên, chẳng những góp phần
phát triển năng lực văn chương của HS mà còn là cơ sở để bồi dưỡng năng lực tư
duy, năng lực sống cho HS trong cuộc sống trí tuệ, tình cảm và đời thường. Điều đó
càng có ý nghĩa hơn nữa trong việc tiếp nhận VHNN, bởi để hiểu được nghệ thuật
của một dân tộc khác thì phải nắm cái mã văn hóa làm cơ sở cho tư duy nghệ thuật
của dân tộc đó.


17

Chương II
THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI Ở TRƯỜNG THPT
2.1. Vị trí, vai trị của Văn học nước ngồi trong chương trình văn học ở
THPT.
Khơng phải ngẫu nhiên mà văn học được xem là “cuốn SGK về cuộc sống”
[38, tr.5], bởi trong nó ln tồn tại mối quan hệ gắn bó với tiếng nói của lĩnh vực
hoạt động nhận thức chân lí, khám phá bản chất, quy luật của thế giới khách quan.
Để hiểu cuộc sống, để hiểu con người, để có thể hình dung một cách sinh động thời
đại đã qua, có ý kiến cho rằng chỉ cần đọc tác phẩm văn chương. Điều này có lí khi
xem văn học như “chiếc gương soi” của cuộc sống. Do vậy, đối tượng nhận thức và
nội dung của văn học là cuộc sống mn màu mn vẻ, trong đó chủ yếu là cuộc
sống của con người, là tư tưởng, tình cảm, tâm hồn con người.
Xét trên tổng thể, văn học trở thành nhu cầu không thể thiếu đối với mỗi con

người lại càng không thể thiếu trong môi trường giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ
thông. Đây là nơi các em học những bài học đầu tiên về cuộc sống, về những mối
quan hệ giữa văn học với đời sống xã hội. Với các em HS đang ngồi trên ghế nhà
trường, học văn học là cách tiếp cận gần hơn với thế giới con người phong phú, đa
dạng, là cách tiếp cận với nhiều nền văn hóa khác nhau, với những sắc tộc và ngôn
ngữ khác nhau để từ đó hiểu thêm về sắc thái đa dạng của sự đa văn hóa nhân loại.
Hơn nữa, văn học là nhịp cầu nối các loại hình nghệ thuật khơng gian với nghệ
thuật thời gian, nghệ thuật tạo hình với nghệ thuật biểu hiện [38, tr.5]. Văn học
không chỉ tồn tại trong mơi trường văn học dân tộc mà cịn tỏa sáng trong các nền
văn học khác của nhân loại.
Giảng dạy văn học trong nhà trường, như đã phân tích ở trên, không dừng lại
ở mục tiêu truyền đạt kiến thức cho HS mà cịn có tác dụng định hướng những mơ
hình nhân cách cho các em. Chất lượng mơn học cũng góp một phần lớn quyết định
vào chất lượng của sản phẩm giáo dục nước nhà. Học văn trước hết là học lấy
những cái hay cái đẹp của tiếng nói dân tộc. Nhưng cao hơn, đó là rèn tập cho HS
những phẩm chất, lối sống lành mạnh, mang đậm tính nhân văn. Do đó bên cạnh


18

nền văn học nước nhà, việc học văn chương nước ngồi cũng chiếm vai trị to lớn.
Cho dù khác màu da, ngơn ngữ, tiếng nói nhưng tiếng nói tâm hồn, những quy luật
tâm lí, tình cảm của con người vẫn vậy. Qua tìm hiểu văn chương nước ngồi, giải
quyết khâu đa dạng và phong phú hóa nội dung tri thức văn chương nhân loại, trên
cơ sở đó, giúp các em khắc sâu các luồng chính về nội dung tư tưởng của văn
chương nhân loại.
Có thể khẳng định, văn chương nước ngồi là một bộ phận quan trọng trong
chương trình Ngữ văn THPT bao gồm những sáng tác dân gian, văn thơ cổ điển,
văn thơ hiện đại được chọn và bố trí song song với chương trình văn học dân tộc.
Học VHNN là cách giúp các em mở một cánh cửa vào thế giới, vào cuộc đời và tâm

hồn con người trên tồn nhân loại. Thơng qua những tác phẩm VHNN, các em có
thể so sánh, đối chiếu mối quan hệ gần gũi về thể loại, đề tài… giữa văn học Việt
Nam với VHNN, giữa các nền văn học với nhau, đồng thời tiếp nhận sự giao thoa,
những quan hệ ảnh hưởng giữa các nền văn hóa, văn học với nhau. Tiếp xúc với tác
phẩm VHNN theo tiến trình lịch sử có đối chiếu so sánh với văn học Việt Nam, HS
có thể thấy được ảnh hưởng sâu rộng của VHNN đến văn học nước nhà và thấy
được vị thế của văn học dân tộc trong kho tàng vô giá của nhân loại. Hay nói cách
khác, học VHNN là một trong những cách để so sánh vị thế “lấp lánh” của văn học
dân tộc trên văn đàn thế giới, từ đó, tìm ra chính xác chỗ đứng của văn học dân tộc
trong lịng cơng chúng u văn học và cũng là một trong những lí do giúp chúng ta
nhận ra sự tiếp biến văn hóa nói chung và văn học nói riêng giữa các vùng miền trên
thế giới. Đây không chỉ là cơ hội giúp văn hóa, văn học Việt Nam tiến gần hơn với
văn hóa, văn học thế giới mà cịn là cách giúp các nhà nghiên cứu định hình rõ
những nét giao thoa giữa các nền văn học nghệ thuật trên thế giới với văn học nghệ
thuật dân tộc Việt Nam. Ngồi ra HS cịn có điều kiện nhìn nhận rõ hơn về các quan
điểm xã hội nhân văn như: anh hùng, dân tộc, nhân ái , thuỷ chung…. Người học có
cơ hội am hiểu thêm về các thời đại, khu vực, nền văn minh khác nhau, vốn hết sức
phong phú, đa dạng trên thế giới.


19

Ở trường phổ thông, HS bắt đầu làm quen với VHNN từ khi bước vào cấp II
với những câu chuyện thần thoại, cổ tích của các nước Nga, Đức, Đan Mạch... Từ
những câu chuyện đó, một thế giới thần kỳ đã được tái hiện, kích thích và khơi gợi
trí tưởng tượng của HS. Thông qua các nhân vật, bước đầu hình thành cách nhìn
nhận đánh giá, bình phẩm và nhận xét giữa: ác – thiện, chính nghĩa – bất nghĩa, để
từ đó hình thành nhân cách của các em. Ở những cấp học tiếp theo, các em được
tiếp cận những tác phẩm văn học nổi tiếng, tiêu biểu cho các nền văn học rực rỡ của
nhân loại. Ở phương Đông có thể kể đến các bậc thánh thơ: Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch

Cư Dị; các tiểu thuyết gia cổ điển: Thi Nại Am, La Quán Trung, Tào Tuyết Cần;
nhà văn, nhà tư tưởng lớn thời hiện đại Lỗ Tấn, thi sĩ của những tâm hồn: Ra-binđra-nát Ta-go. Ở phương Tây, không thể không nhắc đến hai bộ sử thi kinh điển của
Hôme, những kịch gia nổi tiếng như Sếch-xpia, nhà văn, nhà thơ lãng mạn V.Hugô, A.Pu-Skin, v.v... và bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực Banzắc, văn hào vĩ đại của
Nga Mác-xim Go-rơ-ki, v.v… Mỗi một tác giả đều là những người đại diện xuất sắc
cho nền văn học của quốc gia mình và tạo được một chỗ đứng trong lòng hầu hết
độc giả trên thế giới.
Các tác phẩm đó khơng chỉ đáp ứng tiêu chuẩn về mặt tư tưởng và phẩm chất
nghệ thuật mà cịn có khả năng minh hoạ cho quá trình phát triển của lịch sử văn
học thế giới qua các thời đại. Mặc dù chúng dường như tồn tại độc lập với nhau, trải
rộng theo phạm vi không gian và kéo dài theo thời gian nhưng trong SGK đã được
sắp xếp theo trật tự nhất định: Trật tự thời gian, và do đó phần nào tương ứng với
các hiện tượng của văn học Việt Nam được xếp theo tiến trình lịch sử. Nhìn chung
đó là những tác phẩm rất giàu giá trị nhân bản, giàu tinh thần dân tộc có tác dụng rất
lớn trong việc giáo dục tình cảm cao đẹp, bồi dưỡng tâm hồn trong sáng và ý thức
vươn tới điều thiện để phát triển và hồn thiện nhân cách cho HS. Đó cịn là những
tác phẩm có giá trị nghệ thuật lớn, đạt trình độ mẫu mực được viết ra bởi tài nghệ
bậc thầy của các nhà văn xuất sắc.
Tóm lại, đối với thời đại hội nhập tồn cầu ngày nay, VHNN có vai trị vơ
cùng quan trọng. Nếu “văn học là nhân học” (M. Gorki) thì văn học, nhất là VHNN


×