Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động làm quen văn học cho trẻ mẫu giáo 4 5 tuổi”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 27 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN NGHĨA HƢNG
TRƢỜNG MẦM NON THỊ TRẤN RẠNG ĐÔNG

BÁO CÁO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG HOẠT ĐỘNG
LÀM QUEN VĂN HỌC CHO TRẺ MẪU GIÁO 4-5 TUỔI”

Tác giả:

Nguyễn Thị Xiêm

Trình độ chun mơn: Cao đẳng sƣ phạm
Chức vụ:

Giáo viên

Đơn vị công tác: Trƣờng mầm non thị trấn Rạng Đông
Huyện Nghĩa Hƣng, tỉnh Nam Định

Rạng Đông, tháng 12 năm 2018

skkn


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1.

Tên sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt

động làm quen văn học cho trẻ 4-5 tuổi”
2.



Lĩnh vực áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Hoạt động vui chơi, hoạt động học.

3.

Thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
(Thời gian đã được triển khai thực hiện từ ngày 01/09/2017 đến 01/12/2018)
4. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Xiêm
Năm sinh: 04 - 04 - 1979
Nơi thường trú: Thị trấn Rạng Đơng, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định
Trình độ chun mơn: Cao đẳng sư phạm
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường mầm non thị trấn Rạng Đông
Điện thoại: 094 2967 326
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường mầm non thị trấn Rạng Đông
Địa chỉ: Thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định
Điện thoại: 0228.3728.121

1

skkn


BÁO CÁO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “Một số biện pháp nâng cao chất
lƣợng hoạt động làm quen văn học cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi”
I.

ĐẶT VẤN ĐỀ:

Như chúng ta đã biết, ngôn ngữ là một phần tất yếu không thể thiếu trong
cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta. Ngôn ngữ chính là cầu nối giao tiếp giữa
con người với con người, đồng thời là phương tiện cho việc dạy và học. Ngơn
ngữ nói, đọc, viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nhân cách
của con người xã hội nói chung, của trẻ mầm non nói riêng. Ngôn ngữ phát triển
mạch lạc sẽ giúp trẻ nhận thức và giao tiếp tốt từ đó hình thành và phát triển
nhân cách tồn diện cho trẻ.
Tơi nhận thấy rằng, lứa tuổi 4-5 tuổi là thời kỳ phát triển ngôn ngữ tốt
nhất. Là giai đoạn có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho khả năng lĩnh hội ngôn
ngữ và các kỹ năng nghe, nói, làm quen với đọc, viết.



độ tuổi 4-5 tuổi ngơn ngữ của trẻ mang tính chất hồn cảnh, tình huống

nghĩa là ngơn ngữ của trẻ gắn liền với sự vật, hoàn cảnh, con người, hiện tượng
đang xảy ra trước mắt trẻ. Năm lên 4 tuổi vốn từ của trẻ là 1 200 từ, sự linh hoạt và
phong phú trong ngôn ngữ của trẻ phụ thuộc rất lớn vào mơi trường ngơn ngữ
xung quanh trẻ, nó bao gồm cả mơi trường lớp học, mơi trường gia đình và mơi
trường văn hố xã hội ở địa phương nơi mà trẻ sinh sống. Thời kỳ này khả năng sử
dụng từ khái quát của trẻ tăng lên rõ rệt. Trẻ đã bắt đầu biết nối kết giữa tình huống
hiện tại với quá khứ thành một "văn cảnh". Vốn từ của trẻ tăng lên không chỉ số
lượng từ mà điều quan trọng là lĩnh hội được các cấu trúc ngữ pháp đơn giản, sử
dụng được các loại câu đơn, câu ghép, câu khẳng định, câu phủ định.
Đã hình thành những cảm xúc ngơn ngữ qua giọng nói, ngữ điệu, âm tiết, điều
chỉnh giọng nói phù hợp với hồn cảnh khi được nhắc nhở.
Dưới sự hướng dẫn của cô giáo, đặc biệt trong hoạt động vui chơi, tạo
hình, các tiết kể chuyện, đọc thơ, đọc ca dao, đồng dao, tham quan, âm nhạc, thể
dục, qua các hoạt động tập thể... và các nhiệm vụ do người lớn giao cho trẻ, trẻ
xác định được trách nhiệm của mình một cách đơn giản, trẻ lĩnh hội được nhiều

2

skkn


từ mới và ý nghĩa sử dụng của chúng, là tiền đề quan trọng giúp trẻ hoạt động
sau này.
Ngôn ngữ chỉ phát triển khi được người lớn - nhà giáo dục hướng dẫn, rèn
luyện một cách tích cực. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo diễn ra bằng
nhiều con đường với các phương tiện đa dạng khác nhau. Việc phát triển ngôn
ngữ cho trẻ 4-5 tuổi sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn học khác, đặc biệt
là thông qua bộ môn văn học - qua bộ môn này sẽ giúp trẻ khả năng phát triển tư
duy và ngôn ngữ, cảm nhận cái hay, cái đẹp xung quanh trẻ, thúc đẩy trí tưởng
tượng phong phú của trẻ.
Từ xưa đến nay “văn học” luôn là một môn học rất cần thiết trong cuộc
sống con người, đặc biệt đối với trẻ mầm non văn học đem lại cho trẻ những
hiểu biết đầu tiên về bản thân, về cuộc sống xung quanh, văn học nuôi dưỡng và
phát triển ở trẻ trí tưởng tượng, sáng tạo nghệ thuật. Với trẻ mẫu giáo, quá trình
cho trẻ làm quen văn học phải từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, để từ đó
trẻ bộc lộ khả năng cảm thụ văn học của mình. Khả năng cảm thụ đó là sự phát
triển trực tiếp của trẻ về các lĩnh vực: Nhận thức - ngơn ngữ - tình cảm xã hội.
Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về đề tài làm quen văn học cho trẻ, họ
cũng đã có những giải pháp khá hữu hiệu song qua quá trình giảng dạy của bản
thân, qua khảo sát khả năng cảm thụ văn học của trẻ, tơi nhận thấy vẫn cịn
khơng ít những khó khăn, hạn chế khi giáo viên chuyển tải những tác phẩm văn
học đến với trẻ. Đó là: những giờ học tổ chức cho trẻ làm quen với văn học
nhiều khi tiết học còn trầm, trẻ chưa thực sự hứng thú, chưa sáng tạo... dẫn đến
hiệu quả của tiết học chưa cao.
Qua các năm tôi được phân công dạy lớp mẫu giáo 4 -5 tuổi, tôi thấy đa số
trẻ từ lớp 3- 4 tuổi chuyển lên hầu như đều đã được làm quen với một số bài thơ,

câu chuyện. Nhưng trong đó vẫn cịn có một số cháu nói ngọng, nói lắp, nói
trống khơng, nói chưa đủ câu, diễn đạt chưa đủ ý, tiếp thu bài cịn gặp nhiều khó
khăn, tơi phải thường xuyên chú ý đến trẻ đó nhiều hơn. Đặc biệt, một số trẻ vẫn
còn nhút nhát, rụt rè, chưa tự tin… nên cũng ảnh hưởng đến quá trình cảm thụ
các tác phẩm văn học.
3

skkn


Ngồi ra, các bậc phụ huynh lớp tơi phụ trách dù đã quan tâm đến việc
học tập của con, nhưng việc giúp trẻ nâng cao khả năng tiếp cận các tác phẩm
văn học (truyện, thơ, ca dao, đồng dao…) chưa được tốt, ảnh hưởng đến hoạt
động làm quen văn học và phát triển ngơn ngữ của trẻ.
Từ những khó khăn trên, tơi ln đặt câu hỏi mình phải làm thế nào để
100% trẻ trong lớp đều hiểu nội dung và biết cảm thụ các tác phẩm văn học một
cách hứng thú, có hiệu quả. Chính vì thế, tơi thấy mình cần có những biện pháp
cụ thể nhằm giúp trẻ phát huy hết mọi khả năng trong hoạt động làm quen văn
học theo hướng đổi mới. Đó là những điều kiện hồn cảnh để tơi chọn đề tài:
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động làm quen văn học cho trẻ
4-5 tuổi”.
II.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:

1. Cơ sở lý luận và thực tiễn:
1.1. Cơ sở lý luận:
Hoạt động làm quen văn học có tầm quan trọng trong việc phát triển
nhận thức, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ và qua đọc thơ, kể chuyện làm
giàu vốn từ cho trẻ, rèn luyện khả năng phát âm và cách diễn đạt mạch lạc. Các

tác phẩm thơ, truyện chỉ có thể phát huy tác dụng của nó khi cơ biết chuyển tải
được tư tưởng cảm xúc của tác giả và nội dung tác phẩm thơng qua các hình
thức nghệ thuật hấp dẫn, phong phú, đa dạng. Qua đó giúp trẻ phát huy được
tính tích cực cá nhân: tự tin - độc lập - sáng tạo - hình thành tư duy - khả năng
ghi nhớ có chủ đích, những tình cảm đạo đức tốt đẹp, có khả năng hoạt động
nghệ thuật, sáng tạo.
Thơng qua nội dung các tác phẩm văn học giáo dục trẻ biết yêu quý cái
thiện, người hiền lành, biết ơn và kính u ơng bà, cha mẹ, anh chị, bạn bè, biết
nhường nhịn em nhỏ. Các tác phẩm văn học là phương tiện phát triển ngơn ngữ
cho trẻ, có đủ vốn từ để nói năng lưu lốt, diễn đạt gãy gọn, biết sử dụng từ đúng
lúc đúng chỗ, không những thế mà việc dạy trẻ làm quen với những từ ngữ nghệ
thuật như: từ tượng hình, từ tượng thanh, giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng,
ngơn ngữ, khả năng quan sát, khả năng tư duy độc lập trong suy nghĩ.
4

skkn


Khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học qua nghệ thuật nói, đọc và
kể chuyện của cơ giáo thì giáo viên dễ dàng nhận ra mức độ cảm thụ văn học
của trẻ, giới hạn trong nói đọc, hay nhu cầu hứng thú của trẻ khi làm quen văn
học. Từ đó hướng trẻ cảm nhận những giá trị nội dung nghệ thuật phong phú
trong tác phẩm, khơi gợi ở trẻ sự rung động, hứng thú đối với văn học, có ấn
tượng về những hình tượng nghệ thuật, cái hay cái đẹp của tác phẩm và thể hiện
sự cảm nhận đó qua các hoạt động mang tính chất văn học nghệ thuật như đọc
thơ, kể chuyện, chơi trị chơi đóng kịch; cao hơn là tiến tới sáng tạo ra những
vần thơ, câu chuyện theo tưởng tượng của mình, góp phần hình thành và phát
triển tồn diện nhân cách của trẻ.
Trong mỗi tác phẩm văn học, thế giới mới của cuộc sống thực tại bao
gồm thiên nhiên, xã hội, con người được diễn tả, biểu đạt, truyền đạt trong

những hình thức đa dạng độc đáo. Văn học nói về thế giới loài vật, cỏ cây, hoa
lá, mọi hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ mà trẻ nhìn thấy được, cũng nói về những
gì gần gũi trong mơi trường sống của trẻ như làng q, cánh đồng, dịng sơng,
phiên chợ, lớp học, khu phố… Qua tác phẩm văn học, trẻ bắt đầu nhận ra trong
xã hội những mối quan hệ, những tình cảm gia đình, tình bạn, tình cơ cháu…
giúp trẻ hướng đến cái thiện, loại trừ cái ác. Trẻ cũng dần nhận ra có một xã hội
ràng buộc con người với nhau trong lịch sử dân tộc, trong tình làng nghĩa xóm.
Văn học thường đề cập đến những lực lượng siêu nhiên như thần linh, ông bụt,
cô tiên, phù thủy, quỷ sứ và cả những phép màu còn tồn đọng trong tâm thức
của mỗi người dân Việt Nam. Đây cũng là đối tượng huyền thoại mà lứa tuổi
mầm non yêu thích, làm nên sự phong phú, hấp dẫn của đời sống tinh thần trẻ.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
Trong quá trình giảng dạy tại trường mầm non thị trấn Rạng Đông, tôi
thấy những giờ học tổ chức cho trẻ làm quen với văn học nhiều khi cịn tẻ nhạt,
chưa mang tính chất sáng tạo... dẫn đến hiệu quả của tiết học chưa cao. Bên cạnh
đó, cũng có những giờ tổ chức cho trẻ làm quen với văn học đã gây được hứng
thú cho trẻ, trẻ đã tỏ ra thích thú, thích được thể hiện mình qua lời nói, giọng
điệu, các vai diễn, thích được khen khi đã phát hiện ra điều gì đó. Tuy
5

skkn


nhiên về số lượng trẻ hứng thú thực sự còn hạn chế, là thiểu số chứ chưa phải là
đa số.
Lớp tơi có 35 trẻ, trong đó có một số cháu nói ngọng, nói lắp, đặc biệt là
tiếp thu bài của cháu cịn gặp nhiều khó khăn vì vốn từ cịn nghèo nàn, tơi phải
thường xun chú ý đến trẻ đó nhiều hơn. Do đó cũng ảnh hưởng đến q trình
giảng giải cho những trẻ khác.
Trong q trình giảng dạy tơi thấy khả năng cảm nhận các giá trị nghệ

thuật qua các tác phẩm văn học của trẻ còn nhiều hạn chế, còn nhiều cháu chưa
hiểu về nội dung của câu truyện, đọc thơ chưa diễn cảm, diễn tả lại lời nói của
các nhân vật chưa lưu lốt và chưa đúng với giọng của nhân vật. Cũng có khi
cháu hiểu nội dung, ghi nhớ được tác phẩm nhưng khả năng đọc hay, kể diễn
cảm chưa tốt. Qua đó tơi thường xun cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm văn
học mọi lúc mọi nơi. Vì vậy, địi hỏi tơi - người giáo viên phải tìm ra những biện
pháp cụ thể để giải quyết những vấn đề khó khăn này, thơng qua những thuận lợi
khó khăn của trẻ, của trường và của bản thân như sau:
2. Thực trạng:
* Thuận lợi:
Từ khi ra trường đến nay tơi đã có nhiều năm dạy các lớp mẫu giáo, với
đặc điểm tâm lý của trẻ 4-5 tuổi, thích tìm hiểu, quan sát, khám phá những điều
mới lạ. Tôi luôn nhận được sự quan tâm, hướng dẫn chỉ đạo của các cấp lãnh
đạo, của Ban giám hiệu nhà trường và các bạn đồng nghiệp, trường lớp cũng
được đầu tư về cơ sở vật chất như: tivi, đầu đĩa, đàn, đài…
Bản thân được công tác trong trường mầm non thị trấn Rạng Đơng là đơn vị
có phong trào thi đua giáo dục tồn diện, ln nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát
sao của các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương với mục tiêu “Giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Giáo dục mầm non là nền tảng cho sự phát triển con người
toàn diện”. Nhà trường đã được công nhận lại là trường Mầm non đạt chuẩn Quốc
gia. Từ năm học 2004-2005 đến năm học 2017-2018 trường mầm non thị trấn Rạng
Đông liên tục giữ vững danh hiệu tập thể lao động xuất sắc, được UBND tỉnh Nam
Định tặng cờ “Đơn vị thi đua xuất sắc” năm học 2007-2008,
6

skkn


năm học 2016-2017, được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen năm học 20102011. Năm học 2015-2016 được Bộ trưởng Bộ GD& ĐT tặng bằng khen, năm
học 2017-2018 được Bộ trưởng Bộ GD& ĐT tặng Cờ thi đua trong phong trào

đổi mới sáng tạo. Tháng 1 năm 2017 tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên và học
sinh nhà trường vinh dự được Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam tặng thưởng Huân chương lao động hạng III.
Bản thân tôi nắm vững các phương pháp hoạt động và có giọng đọc,
giọng kể truyền cảm, nhẹ nhàng, khơng ngọng… luôn hấp dẫn, thu hút trẻ.
Trong công tác không ngừng tự học, tự bồi dưỡng, luôn được quán triệt, được
bồi dưỡng nội dung kế hoạch các chuyên đề một cách đầy đủ và đồng bộ về
chương trình.
Bản thân tích cực làm đồ dùng đồ chơi, tự trang bị các thiết bị phục vụ
cho việc dạy học như máy tính, loa, micro trợ giảng…
Trẻ ở lớp ngoan, có nền nếp trong mọi hoạt động, hứng thú với các hoạt
động đặc biệt là những hoạt động làm quen văn học.
Hội phụ huynh luôn quan tâm, giúp đỡ trong các hoạt động của lớp.
* Khó khăn:
-

Diện tích trường, lớp cịn chật hẹp. Lớp học chỉ có một phịng chung.

-

Cơ sở vật chất, đồ dùng, đồ chơi, tranh ảnh, trang phục, rối tay, rối dẹt…

cịn thiếu, tài liệu tham khảo cịn hạn chế.
-

Có một số trẻ nói ngọng, nói lắp, nói trống khơng, nói khơng đủ câu,
diễn đạt chưa đủ ý… Có nhiều trẻ chưa tích cực và chủ động trong học tập, một
số cháu không học qua lớp mẫu giáo bé 3-4 tuổi. Một số trẻ vẫn còn nhút nhát,
rụt rè, chưa tự tin… nên cũng ảnh hưởng đến việc cảm thụ các tác phẩm văn
học.


-

Các bậc phụ huynh vẫn còn khá chú trọng đến việc làm ăn kinh tế, ít

quan tâm đến việc học tập của con nên khả năng tiếp cận các tác phẩm văn học
(truyện, thơ, ca dao, đồng dao…) của trẻ chưa tốt.
*

Qua khảo sát thực của trẻ trong lớp tôi, kết quả đạt được trước khi thực

hiện sáng kiến kinh nghiệm như sau:
7

skkn


Tổng số trẻ được khảo sát: 35 trẻ.
Nội dung

Số trẻ

Tỷ lệ %

Trẻ hứng thú vào hoạt động thơ, truyện

25/35

71,42%


Trẻ hiểu nội dung bài thơ, câu chuyện

20/35

57,14%

Trẻ trả lời câu hỏi rõ ràng, mạch lạc (lắng nghe, trao đổi)

18/35

51,42%

Trẻ đọc thuộc thơ, ca dao, đồng dao

25/35

71,42%

Trẻ kể lại truyện có mở đầu, có kết thúc
Bắt trước giọng nói, điệu bộ của nhân vật trong truyện.
Cầm sách đúng chiều, “đọc vẹt” theo tranh ảnh minh họa
Nhận ra kí hiệu thơng thường trong cuộc sống

18/35
19/35
20/35
27/35

51,42%
54,28%

57,14%
77,14%

Từ số liệu khảo sát thực tế trên cho thấy chất lượng hoạt động làm quen
văn học của trẻ cịn thấp. Qua đó tơi mạnh dạn nghiên cứu và áp dụng “Một số
biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động làm quen văn học cho trẻ 4-5 tuổi” tại
lớp 4 - 5 tuổi tôi đang chủ nhiệm.
3.

Mô tả và giới thiệu các nội dung biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn

đề đặt ra:
Trên đây là những căn cứ xác thực để tôi nghiên cứu và đưa ra năm giải
pháp sau đây:
1.

Tạo môi trường học tập cho trẻ

2.

Sử dụng đồ dùng, đồ chơi trực quan hấp dẫn

3.

Ứng dụng công nghệ thông tin

4.

Dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện diễn cảm


5.

Phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội
3.1. Giải pháp 1: Tạo môi trường học tập cho trẻ:
Môi trường cho trẻ hoạt động là nơi cung cấp nguồn thơng tin phong phú,
khuyến khích tính độc lập và hoạt động tích cực của trẻ. Mơi trường giúp trẻ tìm
tịi, khám phá và phát hiện những điều mới lạ hấp dẫn trong cuộc sống, đồng
thời các kiến thức và kĩ năng của trẻ được củng cố và bổ sung. Một môi trường
đẹp, phong phú và phù hợp sẽ gây hứng thú cho trẻ, trẻ sẽ chú ý và ghi nhớ có
chủ định. Chính vì vậy cần tạo cho trẻ môi trường lớp học phong phú, sáng tạo.
8

skkn


Ở lớp tôi, tôi đã xây dựng môi trường lớp học ngay tại các góc chơi như: “Bé
thích xây gì”; góc “Bé vui học tốn”; “Bé u văn học”… Ở mỗi góc cơ đều
trang trí những hình ảnh gần gũi, quen thuộc với trẻ có tính sáng tạo... tạo cơ hội
cho trẻ hoạt động mọi lúc mọi nơi.
Về cơ sở vật chất không gian trong lớp học: Tôi luôn tận dụng diện tích
phịng học, chú ý bố trí sắp xếp các đồ dùng, đồ chơi, tổ chức các hình thức học
tập để tạo môi trường học tập tốt nhất và thoải mái cho trẻ. Chú ý đến các điều
kiện học tập cho trẻ: Như ánh sáng trong phòng học đủ độ sáng theo quy định,
khơng gian thống mát, thiết bị học tập, phương tiện giảng dạy, đồ dùng đồ chơi
đảm bảo đủ, an toàn tuyệt đối cho trẻ.
Sau đây là một vài hình ảnh ví dụ về xây dựng khơng gian trong lớp học.

(Trẻ xem tranh truyện ở góc thư viện trong giờ hoạt động vui chơi)

(Góc văn học dân gian của bé)

9

skkn


Về mơi trường ngồi lớp học: Nhằm tạo cơ hội tốt nhất cho trẻ được làm
quen với văn học qua hoạt động nghe, nói, làm quen với dọc viết ở mọi lúc, mọi
nơi, ngay từ đầu năm học tôi đã tích cực tham mưu với ban giám hiệu nhà
trường tận dụng khơng gian ngồi lớp học xây dựng các góc thư viện xanh, thư
viên cộng đồng dành cho trẻ, dành cho phụ huynh học sinh; đầu tư trang thiết bị
cho lớp như: mua nhiều truyện tranh, tạp chí... Tận dụng nguyên vận liệu phế
thải, sáng tạo không gian đọc sách truyện, bàn ghế chỗ ngồi cho trẻ xem tranh
truyện. Ngoài ra, tơi cịn sưu tầm các sách văn học, họa báo, tạp chí, lịch cũ,
nguyên liệu cho trẻ tự làm sách để xây dựng “Góc thư viện” mang nội dung văn
học ở ngồi lớp học để thay đổi khơng khí tránh nhàm chán khi ở trong lớp.

(Góc sách truyện dành cho phụ huynh và bé)

(Cho trẻ làm quen với sách truyện tại góc thư viện xanh trong hoạt động vui
chơi ngoài trời)
10

skkn


(Tận dụng khơng gian ngồi lớp học xây dựng góc thư viện
cộng đồng) Sau được xem tranh truyện, được nghe cô kể
chuyện cô hướng dẫn trẻ tri
giác các tranh truyện đó dần dần có thể tự đọc. Lúc đầu trẻ đọc theo trí nhớ, trẻ
nhớ về nội dung câu chuyện cô đã kể rồi tự kể khớp với nội dung câu chuyện

bằng trí nhớ theo trình tư có mở đầu kết thúc.
Cùng với công tác xây dựng môi trường, bản thân tôi trước khi tổ chức
hoạt động cũng phải tự luyện giọng kể, cách sử dụng tranh, sách tranh, rối mơ
hình… để giúp trẻ cảm thụ tác phẩm văn học đó một cách tốt nhất. Giáo viên
phải chú ý đến giọng kể của mình, kể diễn cảm, đúng ngữ điệu của từng nhân
vật trong truyện, thể hiện nét mặt cử chỉ, tư thế phù hợp với diễn biến của câu
chuyện tạo sự chú ý thu hút trẻ hồ mình vào câu chuyện. Giọng đọc, giọng kể
của cô nhịp nhàng, đúng nhịp điệu giúp trẻ hiểu sâu sắc hơn về nội dung bài thơ,
câu chuyện và phát huy khả năng cảm thụ văn học của trẻ.
3.2. Giải pháp 2. Sử dụng đồ dùng, đồ chơi trực quan (Tranh nổi, sân
khấu rối, rối tay, rối que, sa bàn, hoạt cảnh đóng kịch…)
Tư duy của trẻ ở lứa tuổi này là tư duy trực quan hình tượng nếu như cơ
chỉ kể cho trẻ nghe nhiều lần bằng lời trẻ sẽ nhanh chán và tiết học sẽ khơng tạo
cho trẻ có được tính nhanh nhẹn, thông minh, hoạt bát, sáng tạo, hiệu quả tiết
11
skkn


học không cao. Muốn trẻ hào hứng tham gia và u thích mơn văn học thì phải
xây dựng nề nếp, thói quen tốt trong học tập cho trẻ như: ngồi học đúng tư thế,
cách trả lời câu hỏi của cô, cách sử dụng đồ dùng trực quan khi tham gia các
hoạt động như thế nào? Cách thực hiện các bước trong hoạt động làm quen văn
học ra sao?
Việc lựa chọn và sử dụng đồ dùng trực quan phải đúng lúc, đúng chỗ, phải
đủ, đẹp, hấp dẫn, phù hợp với từng tiết học, đúng chủ đề, trẻ phải có đồ dùng trực
quan như cô để thao tác và sử dụng cùng một lúc với cô một cách nhịp nhàng.

(Cô kể chuyện cho trẻ nghe bằng tranh minh họa)
Các đồ dùng trực quan tôi chuẩn bị cho trẻ theo mức độ từ đơn giản đến
phức tạp. Trong hoạt động làm quen văn học, đồ dùng đồ chơi trực quan phải

đảm bảo về số lượng, đa dạng về chủng loại, đặc biệt phải đảm bảo an toàn tuyệt
đối cho trẻ. Đồ dùng được sử dụng đảm bảo tính thẩm mỹ, sinh động có tính
năng sử dụng cao ttrong mọi hoạt động. Như khi làm những con rối, tôi tận dụng
vải, bông… rồi khâu thành các nhân vật có đủ các bộ phận như mồm, mắt, mũi,
và trang trí quần áo theo nội dung truyện. Ngồi ra, tơi cịn sử dụng rối que để di
chuyển một cách sinh động trên sân khấu giúp trẻ tập trung nghe cô kể, hứng thú
12

skkn


tham gia các hoạt động, trẻ nhớ và hiểu nội dung câu chuyện nhanh hơn. Việc sử
dụng rối trong tiết học gây được sự chú ý, tò mò của trẻ tạo điều kiện cho trẻ
tiếp cận với nghệ thuật múa rối, một môn nghệ thuật truyền thống của dân tộc.

(Rối dẹp làm bằng tay phục vụ cho hoạt động làm quen văn học)

( Cô sử dụng các con rối tự làm để minh họa cho các câu chuyện)
13

skkn


Về việc dạy trẻ kỹ năng sử dụng đồ dùng, đồ chơi trong hoạt động làm
quen văn học: Cách sử dụng thiết bị, đồ dùng đồ chơi trong các tiết học và các
hoạt động làm quen văn học là rất quan trọng. Bản thân tôi phải thường xuyên tự
luyện cách sư dụng tranh ảnh, sách truyện, rối dẹt, rối tay một cách thành thục
tạo hứng thú và thói quen cho trẻ học làm theo. Đối với trẻ, tôi thường xuyên
dành thời gian hướng dẫn trẻ trong việc xem sách, tranh truyện, sử dụng đồ chơi
rối dẹt, rối tay... sử dụng các trang phục sắm vai trong đóng kịch, đọc thơ.

Hướng dẫn trẻ tự sử dụng đồ dùng một cách khoa học, cất lấy sắp xếp đồ dùng
ngăn nắp gọn gàng cả trong lớp học và ngồi lớp học. Chính vì thế trẻ lớp tơi có
kĩ năng sử dụng đồ dùng, xem tranh truyện khá tốt.
Cùng việc sử dụng tranh minh hoạ, rối dẹt, rối tay, các đồ dùng trực quan
tôi sử dụng trang phục sắm vai tổ chức hoạt động cho trẻ đóng kịch. Hình thức
đóng kịch là hoạt động giúp trẻ phát triển trí nhớ và giáo dục trẻ tinh thần tập thể
tương đối tốt. Qua hoạt động đóng kịch trẻ nhớ lại nội dung câu chuyện, làm
sống lại tâm trạng, hành động ngôn ngữ hội thoại của các nhân vật trong truyện,
đồng thời trẻ biết thể hiện tình cảm và đánh giá các nhân vật trong truyện.

( Cô dạy trẻ sử dụng trang phục đóng vai các nhân vật )
14

skkn


Khi đóng kịch trẻ dễ dàng nắm được nội dung, ý nghĩa của tác phẩm, nắm
được tính liên tục của câu chuyện, điều này góp phần đẩy mạnh sự phát triển tư
duy, cảm thụ tác phẩm một cách sâu sắc ở trẻ. Để đạt được điều đó thì trước khi
cho trẻ đóng kịch giáo viên phải cho trẻ ơn lại nội dung câu chuyện và đàm thoại
với trẻ về nội dung. Giúp trẻ hiểu sâu hơn về nội dung truyện và lời thoại của
các nhân vật trong truyện.
Để từ đó trẻ biết thể hiện những sắc thái khác nhau về ngữ điệu, tính cách
tâm trạng của các nhân vật trong truyện. Nhằm giúp trẻ phân biệt được giọng
điệu lời nói của các nhân vật. Qua đó trẻ khắc họa được tính cách nhân vật, để
trẻ nhớ được ngơn ngữ, lời thoại của các nhân vật trong truyện. Để đóng kịch thì
trước hết cần cho trẻ nhắc lại lời thoại của nhân vật sau đó cho trẻ đóng vai theo
tổ hoặc nhóm.
Bên cạnh các tác phẩm truyện thì việc giúp trẻ cảm thụ tốt ngôn ngữ của
thơ, điều quan trọng nhất là phải đọc diễn cảm và học thuộc bài thơ trước khi

đọc cho trẻ nghe. Trò chuyện với trẻ về nội dung của bài thơ, giải thích nghĩa
của một số từ, ý của các câu thơ, vẻ đẹp các câu thơ mô tả… kết hợp xem tranh
minh họa, quan sát thiên nhiên hoặc làm các động tác minh họa. Trẻ được nghe
nhiều lần, được đọc thơ theo cá nhân, theo nhóm, luyện tập cho trẻ cách đọc thơ
diễn cảm. Giáo viên cần giới thiệu cho trẻ biết tên bài thơ, tác giả của bài thơ.
Bên cạnh các tác phẩm thơ, truyện thì các bài đồng dao, ca dao được dạy


mọi lúc, mọi nơi. Giáo viên không cần giảng nội dung của các bài đồng dao

mà chủ yếu truyền đạt các âm điệu vui tươi, sảng khoái và nghịch ngợm để gây
hứng thú cho trẻ. Khi đọc hoặc dạy trẻ các bài đồng dao, giáo viên chú ý khơi gợi
cho trẻ nhận biết cách so sánh. Ví dụ: Bài đồng dao “Đi cầu đi quán”; hay
bài đồng dao “Gánh gánh gồng gồng”, cơ có thể cho trẻ dạy trẻ theo hình thức
trị chơi, vừa đi theo đội hình vịng trịn, vừa đọc lời đồng dao, làm các động tác
phù hợp.
3.3. Giải pháp 3. Ứng dụng công nghệ thông tin.
Khi dạy trẻ làm quen với văn học, dù là thơ hay truyện, muốn đạt kết quả
cao thì việc đầu tiên giáo viên phải chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học, đồ dùng đẹp
15

skkn


hấp dẫn sẽ thu hút sự chú ý của trẻ. Trước đây giáo viên thường sử dụng tranh
minh hoạ làm đồ dùng chính trong hoạt động cho trẻ làm quen với văn học.
Song với hình thức đổi mới hiện nay, thời đại công nghệ thông tin nên việc ứng
dụng vào bài giảng mang lại kết quả rất cao.
Ví dụ: Với bài thơ “Nàng tiên Ốc” tôi đã xây dựng đoạn phim hoạt hình
về nội dung bài thơ, ngồi ra tơi còn làm đoạn phim về các nhân vật kết hợp với

nhạc đệm rất hứng thú làm cho trẻ dễ nhớ nội dung bài thơ và thấy được nét đặc
trưng của các nhân vật.

(Hình ảnh minh họa tiết dạy ứng dụng công nghệ thông tin)
Trong việc ứng dụng công nghệ thông tin, ngồi việc sử dụng các băng
đĩa theo chương trình giáo dục mầm non, tơi tìm tịi tham khảo trên các kênh
thơng tin điện tử, sưu tầm băng hình những tác phẩm văn học thơ truyện trong
chương trình và ngồi chương trình phù hợp với lứa tuổi để dạy trẻ mọi lúc mọi
nơi. Bản thân tự xây dựng kịch bản theo cốt truyện, ghi băng hình từ chính hoạt
động đóng kịch của trẻ ở lớp trước hay của chính học sinh trong lớp cho trẻ xem
từ đó tạo sự hứng thú, kích thích trẻ tích cực hoạt động nâng cao sau các tiết làm
quen văn học. Bên cạnh đó, để trẻ tiếp cận một cách gần gũi nhất với các tác
phẩm văn học, tôi ghi âm các âm thanh tự nhiên như tiếng gió thổi, tiếng mưa
rơi, tiếng các con vật... hoặc giọng nói của người già, trẻ em... cho trẻ nghe trong

16

skkn


các hoạt động gây hứng thú, trẻ nghe để nhập vai, bắt chước trong đóng kịch, kể
chuyện diễn cảm.
3.4. Giải pháp 4: Dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện diễn cảm.
Nhờ được nghe, tiếp xúc với một số tác phẩm văn học, nên bước đầu trẻ
sẽ nhận biết được sự khác nhau về nội dung và hình thức giữa các thể loại thơ,
truyện, cảm nhận được cái đặc sắc của cách diễn đạt hình tượng, giúp trẻ phân
biệt được hình tượng nghệ thuật với hiện thực, hình thành một số khái niệm văn
học như: Thơ, truyện, hình ảnh…
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, cần giúp trẻ nhận biết các
mối quan hệ giữa hồn cảnh, trạng thái, tình huống và nhân vật; giữa lời kể, lời

thuật, lời bạch trữ tình và ngơn ngữ nhân vật; giữa khơng khí, âm sắc, giọng điệu
chung của tác phẩm văn học. Trẻ được nghe nhiều lần, được đọc thơ theo cá
nhân, theo nhóm, luyện tập cho trẻ cách đọc thơ diễn cảm. Giáo viên cần giới
thiệu cho trẻ biết tên bài thơ, tác giả của bài thơ hay câu chuyện, cách thức đọc
thơ, ngữ điệu ngắt nghỉ như thế nào, âm sắc khi trầm, khi bổng như thế nào là
phù hợp.
Đặc biệt một số trẻ phát âm chưa rõ ràng, cịn nói lắp, nói ngọng, vốn từ
cịn nghèo nàn, chủ yếu là phát âm theo cô, sự sáng tạo ra các tác phẩm chưa có.
Để bồi dưỡng khả năng đọc thơ, kể chuyện của trẻ chúng ta cần tạo môi trường,
cơ hội cho trẻ tri giác, tìm kiếm, khám phá thế giới xung quanh; rèn luyện phát
âm chuẩn, chính xác, khả năng tư duy sáng tạo cho trẻ.
Tôi đã tăng cường cho trẻ luyện tập các kĩ năng nói, phát âm rõ tròn
vành; giọng đọc, giọng kể rõ ràng, mạch lạc, tự tin; cử chỉ, âm sắc, nét mặt, điệu
bộ phù hợp. Tập cho trẻ biết tự điều chỉnh nhịp độ, cường độ, giọng đọc, giọng
kể phù hợp với nhân vật, hoàn cảnh.
Trong những năm dạy lớp mẫu giáo 4 - 5 tuổi, tơi thấy phạm vi tiếp xúc
của trẻ cịn hạn chế dẫn đến sự hiểu biết còn nghèo nàn, việc dạy trẻ đọc thơ, kể
chuyện đã được thực hiện nhưng chưa sâu. Vì trẻ mới đọc, kể lại như thuộc một
bài thơ, câu chuyện mà chưa có sự sáng tạo trong khi kể. Vậy đòi hỏi sự nỗ lực
hoạt động sáng tạo của cô giáo, trước hết cô phải là người kể sáng tạo dựa trên
17

skkn


những cơ sở khoa học, những biện pháp cụ thể để dạy trẻ kể lại truyện một cách
sáng tạo.
Như chúng ta đã biết, ở lứa tuổi này thì hoạt động vui chơi là chủ đạo.
Việc thay đổi hình thức kể chuyện và đọc thơ là rất cần thiết. Vì vậy, tôi luôn
thiết kế giờ dạy một cách hợp lý, linh hoạt, sáng tạo và thu hút trẻ nghe kể

chuyện, đọc thơ mang lại hiệu quả.
Ví dụ: Câu chuyện “Mỗi người một việc ” tơi cho trẻ chơi trị chơi: Thi
xem ai nói nhanh. Cơ nói đến bộ phận nào trên cơ thể thì trẻ nói nhanh đến bộ
phận đó. Hay trị chơi: Thi nói tiếp: Cơ nói: mắt để... trẻ nói: nhìn.
Sau đó tơi giới thiệu câu chuyện và kể chuyện theo tranh cho trẻ nghe.
Trẻ thoải mái tâm lý, tiếp thu bài một cách tích cực. Khuyến khích trẻ kể sáng
tạo để trẻ phát triển ngôn ngữ, liên tưởng và tư duy sáng tạo cho trẻ là rất tốt.
Kể chuyện sáng tạo là sự thể hiện bằng ngôn ngữ của cá nhân trẻ về câu
chuyện, đồ vật, bức tranh hay sự vật hiện tượng xung quanh mà trẻ được nghe,
được thấy, được trải nghiệm. Đây là một hình thức giúp trẻ phát triển tư duy, óc
tưởng tượng bay bổng, phát triển khả năng mạnh dạn, tự tin và các chức năng
tâm lý cá nhân…
Tập kể chuyện sáng tạo giúp trẻ mở rộng vốn từ một cách chủ động, luyện
phát âm, phát triển khả năng biểu đạt, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc.

Đối với trẻ 4-5 tuổi, vốn từ của trẻ đã phong phú hơn, trẻ đã có khả năng
chú ý nghe trọn vẹn một tác phẩm văn học phù hợp với độ tuổi, biết kể lại sự
việc theo trình tự, biết kể chuyện có mở đầu có kết thúc, tuy nhiên vẫn chưa
hoàn toàn chủ động trong việc chọn nội dung và ý tưởng cho truyện. Câu chuyện
của trẻ vẫn đơn thuần là mô phỏng lại mẫu của người lớn. Vì vậy tơi tập cho trẻ
kể chuyện sáng tạo với trẻ 4-5 tuổi có thể được tiến hành dưới dạng: Tập đặt tên
cho truyện được nghe; kể chuyện theo đồ vật, đồ chơi; kể chuyện theo tranh:
truyện tranh (2 đến 3 tranh) hoặc tranh có chủ đề; kể chuyện theo kinh nghiệm
sống của trẻ, Kể chuyện theo nhân vật rối cô tự làm.

18

skkn



Ví dụ: Khi trẻ gặp khó khăn với việc đặt lời kể, cô sử dụng các câu hỏi để hỗ trợ
trẻ như: Thỏ anh làm gì?; Thỏ em nhìn thấy gì?... sau đó giúp trẻ ghép các câu
trả lời vào câu chuyện.
Khi dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện diễn cảm, tơi sử dụng rất nhiều phương
pháp và hình thức tổ chức học tập khác nhau như: Dạy trẻ học cách đọc, cách kể
từ cô, bắt chước theo cô; dạy trẻ học từ bạn bè; học bắt chước theo băng đĩa kết
hợp với tranh ảnh đồ dùng trực quan; dạy trẻ tự sáng tạo theo cách riêng của
mình. Để gây hứng thú giúp trẻ nhanh chóng hiểu nội dung truyện, nhớ truyện,
thuộc truyện và đọc kể diễn cảm, kể chuyện sáng tạo, tơi thay đổi các hình thức
tổ chức hoạt động. Mỗi câu chuyện, bài thơ tôi lại thiết kế một cách khác để phát
huy tính tị mị, ham hiểu biết thế giới xung quanh của trẻ, giúp trẻ hứng thu
trong hoạt động đọc thơ, kể chuyện diễn cảm.
3.5. Giải pháp 5. Phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội:
Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và nhà
trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường và xã hội là một biện
pháp không thể thiếu. Phụ huynh là nhân tố quyết định trong việc tạo nguồn nguyên
vật liệu để chúng tôi làm đồ dùng các góc, nhất là góc làm quen với văn học.
Ngay từ đầu năm học, tôi đã tổ chức họp phụ huynh trao đổi về nội dung đề
tài tôi nghiên cứu, từ đó xây dựng kế hoạch thực hiện giải pháp này để nâng cao
chất lượng hoạt động làm quen văn học tại lớp tôi. Tôi thường xuyên trao đổi với
cha mẹ trẻ vào các giờ đón, trả trẻ để tuyên truyền với phụ huynh về tầm quan trọng
của việc cho trẻ đi học đều được làm quen với trường lớp, với các bạn, với một số
mơn học có liên quan đến lĩnh vực nhận thức, phát triển ngơn ngữ...

Ngồi ra tơi còn trao đổi với phụ huynh về vấn đề chăm sóc và giáo dục
trẻ ở trường cũng như ở nhà để cô giáo và phụ huynh cùng kết hợp dạy trẻ làm
quen văn học trong môi trường nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội.
Tơi thường dành thời gian hướng dẫn phụ huynh kể chuyện cho trẻ nghe
trước khi đi ngủ ở nhà, rèn cho trẻ cách nói đủ câu, khơng nói ngọng, nói lắp,
đặc biệt khơng nói ngọng theo con. Trực tiếp đề cập đến tầm quan trọng của


19

skkn


hoạt động “làm quen với văn học” vì đây là hoạt động giúp trẻ phát triển ngôn
ngữ một cách mạch lạc, rõ ràng, phát triển khả năng cảm thụ văn học.

(Hướng dẫn phụ huynh dạy trẻ xem sách truyện ở nhà)
Có kế hoạch mời phụ huynh thăm lớp, dự giờ, dự hoạt động trẻ như: làm
đồ dùng, đồ chơi, tổ chức cho trẻ trưng bày các sản phẩm đồ dùng, đồ chơi mà
cô và cả lớp đã làm cho phụ huynh xem. Đồng thời mời cha mẹ trẻ tham gia vào
các ngày lễ hội của các cháu như: hội thi “Bé kể chuyện hát hay” hay “Bé vui tết
trung thu”…

(Phụ huynh học sinh tặng truyện tranh cho lớp)
20

skkn


Vận động phụ huynh hỗ trợ nguyên vật liệu như: giấy, sách, lọ nhựa, vải
vụn… để làm rối kể chuyện cho trẻ; tặng sách truyện bổ sung cho các góc thư
viện của lớp, thư viện cộng đồng của trường.
Đối với những trẻ tiếp thu chậm tôi trực tiếp trao đổi với phụ huynh để
cùng đưa ra những biện pháp giúp trẻ tiếp thu kiến thức một cách tốt nhất.
Ngoài các biện pháp trên, tôi đã tham tham mưu với ban giám hiệu nhà
trường tổ chức các hoạt động tập thể như: Hội thi “Bé kể chuyện, hát hay”, Ngày
hội thể dục thể thao, Hội diễn văn nghệ chào mừng ngày 20/11, ngày 08/3, Đêm hội

trăng rằm, Lễ hội mùa xuân, đặc biệt các hoạt động tập thể cuối chủ đề của khối lớp
4 tuổi. Các hoạt động này giúp trẻ được giao lưu với các bạn cùng độ tuổi, khác độ
tuổi trong trường, giúp trẻ được tự giới thiệu về mình, được trao đổi, đối thoại,
được học hỏi tích luỹ các kỹ năng nghe, nói và làm quen với đọc viết. Cũng tại các
hoạt động này là cơ hội trẻ được học tập tích luỹ thêm các kỹ năng giao tiếp, đọc
nói và kể chuyện diễn cảm từ các bạn, từ các cơ giáo trong trường, từ phía phụ
huynh và các bác, các cô chú đại diện các tổ chức xã hội tại địa phương. Qua hoạt
động này bản thân cá nhân tơi cũng như nhà trường có dịp khẳng định chất lượng
giáo dục, chất lượng lĩnh vực phát triển ngôn ngữ đặc biệt chất lượng hoạt động
làm quen văn học của lớp, của nhà trường trong năm học.

4.

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Trên đây là một số giải pháp tôi đã thực hiện tại lớp 4 tuổi B trường mầm
non thị trấn rạng Đông, sau khi áp dụng một số biện pháp cho trẻ cảm thụ văn
học trong năm học đã cho thấy:

+

Trẻ thông minh sáng tạo hơn khi tham gia hoạt động làm quen văn học.

+

Trẻ trả lời câu hỏi rõ ràng, mạch lạc hơn.

+

Trẻ thích được đóng kịch.


+

Trẻ thích đọc thơ, kể truyện.

+

Trẻ ghi nhớ, thuộc thơ, truyện lâu hơn.

+

Trẻ có khả năng tự sáng tạo và thể hiện tính cách nhập vai một cách nhẹ

nhàng, linh hoạt.

21

skkn


+

Biết kể truyện sáng tạo, kể theo trí tưởng tượng một cách có trình tự, kể

chuyện có mở đầu kết thúc. Vốn từ của trẻ được phát triển, trẻ biết lắng nghe, trao
đổi với người đối thoại một cách tự tin, bắt chước giọng nói, cử chỉ điệu bộ của
nhân vật trong truyện theo yêu cầu của cô.
*

Kết quả trên trẻ như sau:
Đầu năm


Cuối năm

Nội dung

Trẻ hứng

thú vào

hoạt

động thơ, truyện
Trẻ hiểu nội dung bài thơ,
câu chuyện
Trẻ trả lời câu hỏi rõ ràng,
mạch lạc (lắng nghe, trao
đổi)
Trẻ đọc thuộc thơ, ca dao,
đồng dao
Trẻ kể lại truyện có

mở

đầu, có kết thúc
Bắt trước giọng nói, điệu
bộ của nhân vật trong
truyện.
Cầm sách đúng chiều, “đọc
vẹt” theo tranh ảnh minh
họa

Nhận ra kí hiệu thơng
thường trong cuộc sống

Số trẻ

Tỷ lệ

Số trẻ

Tỷ lệ

25/35

71,42%

35/35

100%

20/35

57,14%

18/35

Tỷ lệ tăng
giảm
Số
trẻ


Tỷ lệ

10

28,58%

33/35

94,28% 13

37,14%

51,42%

30/35

85,71% 12

33,75%

25/35

71,42%

35/35

18/35

51,42%


19/35

100%

10

28,58%

33/35

94,28% 13

37,14%

54,28%

29/35

82,85% 10

28,57%

20/35

57,14%

35/35

100%


10

28,58%

27/35

77,14%

33/35

94,28%

6

17,14%

Với kết quả nghiên cứu được đánh giá tương đối chính xác, sát và phù
hợp với thực tiễn, tâm lý của trẻ. Theo đánh giá chủ quan của cá nhân tôi, đề tài
này không chỉ vận dụng cho nâng cao chất lượng làm quen văn học ở lứa tuổi
mẫu giáo 4-5 tuổi mà cịn có thể áp dụng cho mọi lứa tuổi trẻ trong các trường
mầm non.

skkn


22

skkn



IV. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, tôi thấy phụ huynh rất phấn
khởi khi thấy con mình đã tiến bộ hơn rất nhiều, vốn từ của trẻ phong phú hơn,
trẻ thích được nghe kể chuyện, tự kể chuyện sáng tạo, thuộc nhiều bài thơ ca
dao, đồng dao; trẻ mạnh dạn trong giao tiếp, nói rõ ràng không ngọng lắp, đọc
to, diễn cảm…
Các bậc phụ huynh học sinh thường xuyên hỗ trợ cho giáo viên về nguyên
vật liệu để làm đồ chơi cho trẻ. Tích cực đọc thơ, ca dao, đồng dao cùng trẻ, kể
chuyện cho trẻ nghe trong thời gian chơi cùng trẻ, trước lúc đi ngủ.
Bản thân giáo viên luôn tự tin khi truyền đạt cho trẻ các tác phẩm văn học
bằng chính sự say mê, bằng lòng yêu nghề mến trẻ, đem lại cho trẻ những hiểu
biết, những tình cảm yêu quê hương đất nước, người thân trong gia đình, bạn bè
và môi trường xung quanh bé…
*

Bài học kinh nghiệm cho bản thân:
Với sáng kiến kinh nghiệm đã thực hiện và kết quả nêu trên bản thân tôi
tự rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
Ngay từ đầu năm học người giáo viên phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý của
trẻ để có những phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ ngay từ đầu một cách hợp lý.

Thường xuyên luyện giọng đọc, giọng kể diễn cảm, thể hiện được nét mặt,
cử chỉ, điệu bộ của các nhân vật trong truyện.
Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.
Sử dụng tốt đồ dùng trực quan: mơ hình rối dẹt, rối tay, rối que… Tích cực
làm đồ dùng, đồ chơi theo chủ đề, đồ dùng minh họa cần phong phú, đa dạng,
hấp dẫn. Giáo viên phải sử dụng khoa học, linh hoạt, gọn gàng, đúng lúc, tránh
lạm dụng, ôm đồm.
Tham khảo thêm một số kịch bản đã được biên soạn sẵn và tập cho trẻ
đóng kịch.

Tham mưu tốt với phụ huynh hỗ trợ thêm một số tranh truyện, sách báo...
Biết tích hợp lồng ghép nhẹ nhàng chuyên đề vào các hoạt động ở mọi lúc,
mọi nơi.
23

skkn


×