Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Skkn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 36 tháng tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.52 KB, 34 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. LỜI GIỚI THIỆU:
Bác Hồ đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu
của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó, q trọng nó.”
Ngơn ngữ có vai trị to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của
trẻ em. Ngôn ngữ là phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt và phát triển
những kinh nghiệm lịch sử và phát triển xã hội của loài người. Trẻ em sinh ra
đầu tiên là những cơ thể sinh học, nhờ có ngơn ngữ là phương tiện giao lưu
bằng hoạt động tích cực của mình dưới sự giáo dục và dạy học của người lớn
trẻ em dần chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của lồi người
và biến nó thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngơn ngữ sẽ trở thành
những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng xã hội
ngày càng phát triển hơn.
          Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy, là cơng cụ hoạt động trí
tuệ và là phương tiện để giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ.  Như vậy ngơn
ngữ có vai trị to lớn đối với xã hội và đối với con người. Vấn đề phát triển
ngơn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan
trọng.
Mục tiêu của cơng tác chăm sóc giáo dục mầm non là phát triển và hình
thành nhân cách cho trẻ, bên cạnh đó việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một
trong những vấn đề quan trọng nhất của giáo dục mầm non. Bởi ngôn ngữ là
công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi. Ngôn ngữ đối với con người nói
chung, với sự phát triển của trẻ mầm non nói riêng (đặc biệt là trẻ 2 – 3 tuổi)
có một vị thế hết sức quan trọng. Nó là một trong những cơ sở, tiền đề để cho
trẻ phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Ngôn ngữ giúp cho sự

skkn


phát triển tư duy của trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện giúp cho chúng ta và nhất


là trẻ em giao tiếp với mọi người và giúp trẻ dễ dàng hòa đồng vào cuộc sống
một cách thân thiện nhất, nói sao cho mọi người hiểu, hiểu khi người khác
nói đó là điều cần thiết khi giao tiếp. Đồng thời, thông qua giao tiếp giúp trẻ
phát triển trí tuệ để nhận biết thế giới xung quanh và phát triển tình cảm của
trẻ.
         Là một giáo viên Mầm non trực tiếp dạy trẻ 24- 36 tháng tơi ln có
những suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy trẻ phát âm chuẩn, chính xác đúng
tiếng việt. Vì thế tơi đã dạy các con thơng qua các môn học khác nhau và dạy
các con ở mọi lúc mọi nơi qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá
hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng và thế giới xung quanh trẻ, phát triển tư
duy. Tơi thấy mình cần phải đi sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để từ đó rút ra
nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với yêu cầu phát triển của lứa tuổi.
 Năm học 2020-2021 tôi được phân công chủ nhiệm lớp nhà trẻ “ 24-36 tháng
tuổi” đa số các cháu phát âm chưa rõ, một số cháu cịn nói ngọng, chưa nói
đủ câu. Từ đó tơi đã đi sâu nghiên cứu để tìm ra “Một số biện pháp phát
triển ngơn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi” nhằm nâng cao chất lượng
chăm sóc giáo dục trẻ đối với chương trình GDMN mới hiện nay.
2. TÊN SÁNG KIẾN:
“Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi”
3. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN:
- Họ và tên: Tạ Thị Phượng
- Địa chỉ: Trường mầm non Trung Nguyên - Yên Lạc - Vĩnh Phúc.
- Số điên thoại: 0974253122
- Email:

skkn


4. CHỦ ĐẦU TƯ TẠO RA SÁNG KIẾN:
- Họ và tên: Tạ Thị Phượng- Chức vụ: Giáo viên

          - Đơn vị: Trường mầm non Trung Nguyên - Yên Lạc - Vĩnh Phúc.
- Để thực hiện sáng kiến này tôi phải đầu tư mua sắm một số nguyên vật liệu
(xốp VA, bông, keo, màu nước, kéo, bút lông...), để làm đồ dùng đồ chơi, mua
sắm một số vật dụng cho trẻ, một số đồ dùng, vật thật để trẻ hiểu rõ nội dung,
nhân vật truyện, từ đó cung cấp các vốn từ nhất định và phong phú cho trẻ
với tổng số tiền là 505.000đ.
5. LĨNH VỰC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN:
- Sáng kiến có thể áp dụng trong lĩnh vực: Giáo dục Mầm non 24- 36 tháng
tuổi
- Nghiên cứu tìm hiểu thực trạng của việc phát triển ngơn ngữ cho trẻ. Từ đó
đề xuất “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng
tuổi”.
6. NGÀY SÁNG KIẾN ĐƯỢC ÁP DỤNG:
- Từ ngày 07/09/2020 đến ngày 15/05/2021.
7 . MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN:
Ở tuổi nhà trẻ, trẻ rất hiếu động, thích tìm tịi, khám phá mọi thứ xung
quanh và ham muốn được giao tiếp, trẻ thường rất hay có những thắc mắc
trước những đồ vật, hiện tượng mà trẻ nhìn thấy, nghe thấy. Trẻ luôn đặt ra
nhiều câu hỏi như: Ai đấy? Cái gì đây? Con gì? Tiếng gì? Màu gì.....? Để giúp trẻ
giải đáp được những thắc mắc hằng ngày, người lớn cần trả lời những câu
hỏi của trẻ rõ ràng, ngắn gọn đồng thời cần cung cấp thêm cho trẻ những
hiểu biết về các câu chuyện bằng ngôn ngữ giao tiếp mạch lạc. Chính vì vậy
mà mỗi giáo viên chúng ta cần trú trọng đến việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ

skkn


đặc biệt là trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ. Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu bởi
ngôn ngữ giúp trẻ tiếp thu kiến thức, nhận biết thế giới xung quanh một cách
dễ dàng và có hiệu quả nhất.

Trong quá trình phát triển tồn diện nhân cách, ngơn ngữ trở thành
một phương tiện hữu ích nhằm hình thành và phát triển vốn từ ngữ, cũng như giúp
trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về mọi vật xung quanh mình. Nhờ có
ngơn ngữ mà trẻ dễ nhận biết ngày càng nhiều những sự vật, hiện tượng
xung quanh trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày. Hơn nữa ngơn ngữ
cịn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ, giúp trẻ trao đổi
cảm xúc với những người xung quanh, hình thành những cảm xúc tích cực.
Ngơn ngữ cịn  giúp trẻ hoà nhập với cộng đồng và trở thành một thành viên
của cộng đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người lớn mà trẻ dần dần hiểu
được những quy định chung của cộng đồng mà mọi thành viên trong cộng
đồng phải thực hiện, mặt khác trẻ cũng có thể dùng ngôn ngữ để bày tỏ
những nhu cầu mong muốn của mình với các thành viên trong cộng đồng,
điều đó giúp trẻ hoà nhập với mọi người hơn.
          Trong mọi hoạt động để phát triển ngôn ngữ cho trẻ, giáo viên giữ vai
trò chủ đạo, là người tổ chức, hướng dẫn, điều khiển hoạt động có mục đích
học tập của trẻ. Việc tổ chức dạy trẻ đúng lúc và phù hợp với đặc điểm, lứa
tuổi, đóng một vai trị quan trọng đối với sự phát triển ngơn ngữ, trí tuệ, tư
duy tưởng tượng phong phú cho trẻ mầm non, và trẻ giao tiếp được cũng là
nhờ thái độ tích cực với câu chuyện cơ kể, trẻ tự tin giao tiếp cịn thể hiện ở
sự hứng thú qua hoạt động học. Bởi vậy giáo viên phải là người hướng dẫn,
giảng giải, tạo cơ hội cho trẻ được tham gia học tập, trải nghiệm...để phát
triển ngơn ngữ, phát huy tính tích cực ở trẻ.
Trong quá trình dạy học cho trẻ ở trường mầm non, chúng ta phát triển ở trẻ

skkn


khả năng nhận biết thế giới xung quanh, khả năng trao đổi ngôn ngữ với cô,
với bạn, phát triển ở trẻ các câu từ đơn giản, từ đó hình thành các vốn từ sau
này cho trẻ.

7.1. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
          Năm học 2020 - 2021 tôi được nhà trường phân công dạy lớp nhà trẻ
24-36 tháng tuổi, trong đó 100% trẻ mới tuyển. Tơi đã nhận thấy những điều
kiện thuận lợi và khó khăn ở lớp tơi như sau:
a. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường về chuyên môn,
xây dựng phương pháp đổi mới, hình thức tổ chức giáo dục mầm non, ban
giám hiệu tạo mọi điều kiện giúp tôi thực hiện tốt chương trình đổi mới. Đầu
tư mua sắm cho trang thiết bị, đồ dùng phục vụ cho hoạt động làm quen với
văn học tương đối đầy đủ như bộ truyện tranh, ảnh, trang phục cho các câu
chuyện...
- Phòng học thống mát có đủ ánh sáng và đầy đủ điều kiện để hoạt động.
Lớp được trang bị máy vi tính để giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin vào
trong các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ .
          - Hàng năm tôi được học lớp bồi dưỡng hè và dự các buổi chuyên đề của
phòng, nhà trường, của tổ chun mơn 2 tuổi. Đó cũng là điều kiện để tôi
được học tập, củng cố thêm kiến thức phục vụ cho tiết dạy của mình.
          - Đầu năm học tơi xây dựng kế hoạch giảng dạy các môn học và các hoạt
động rất cụ thể cho lớp.
          - Giáo viên nhiệt tình làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo phục vụ cho việc
cung cấp và phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

skkn


          - Bản thân tơi cũng có nhiều cố gắng trong q trình tự học, tự rèn
luyện về chun mơn nghiệp vụ. Biết sử dụng và thực hiện soạn giảng trên
máy vi tính.
          - Phụ huynh quan tâm đến con mình, nhiệt tình ủng hộ tơi trong việc dạy
dỗ các cháu và thường xuyên ủng hộ những nguyên vật liệu để làm đồ dùng

dạy học và vui chơi cho các cháu.
- Đa số trẻ trong lớp ngoan thích hoạt động vui chơi đặc biệt rất thích nghe
cơ kể chuyện, đọc thơ,... Chính vì vậy việc dạy trẻ ở lớp cũng có nhiều thuận
lợi.
b. Khó khăn:
- Trẻ tuy cùng độ tuổi, nhưng khả năng nhận thức khơng đồng đều, chưa có
hứng thú trong giờ học, chưa tích cực hoạt động trong giờ học. Vì 100% trẻ
lần đầu mới đến trường nên việc tiếp thu kiến thức của trẻ còn gặp nhiều khó
khăn.
- Đối với trẻ 24-36 tháng tuổi, vốn từ cịn rất hạn chế ngôn ngữ chưa phát
triển nên trẻ rất ít nói, nhiều trẻ nói ngọng, 80% trẻ phát âm chưa chính xác
dấu ngã - dấu sắc, dấu hỏi, dấu nặng, nói câu thiếu các thành phần khơng đủ
chủ ngữ, vị ngữ.
- Nếu cô truyền đạt một câu dài hoặc một sự việc có nội dung truyền tải nhiều
thì khả năng lĩnh hội thông tin của trẻ rất hạn chế.
- Tuy đã có những hiểu biết nhất định về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua
các môn học, nhưng việc tổ chức cho trẻ tham gia hoạt động này cịn chưa
linh hoạt, sáng tạo vì vậy nội dung tiết học còn nghèo nàn, chưa hấp dẫn trẻ,
chưa chú ý đến việc thay đổi nội dung và cách thức trò chuyện, tạo các tình
huống cho trẻ thể hiện những tình cảm và yêu cầu của mình bằng các âm các
từ.

skkn


- Khi trị chuyện với trẻ cơ hay nói nhanh, chưa chú ý tới việc sửa sai lỗi về từ,
âm, câu cho trẻ, chưa chú ý luyện câu, từ cho trẻ, nhiều trẻ nói thiếu, nói lắp
cơ chưa kịp thời điều chỉnh và sửa sai.
- Quá trình tổ chức giờ học cô chưa chú ý đến hệ thống câu hỏi để giúp trẻ
được tư duy và phát triển ngôn ngữ.

          - Nhiều phụ huynh chưa quan tâm tới việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ,
không chú ý sửa lỗi cho trẻ khi phát âm sai, hay nói chưa đủ câu ...
Từ những lý do nói trên dẫn đến hiệu quả của việc dạy đạt kết quả chưa cao
vì giờ dạy cịn dập khn máy móc, chưa phát huy được tính tích cực, chủ
động sáng tạo của trẻ.
Tơi đã khảo sát chất lượng đầu năm trẻ ở lớp tôi kết quả đạt như sau:
*) Bảng kết quả khảo sát đầu năm:
 
Mức độ đầu năm
Phân loại khả năng

Tổng

Số trẻ đạt

số trẻ

Số
trẻ

Tỉ lệ %

Số trẻ chưa đạt
Số
trẻ

Tỉ lệ %

Khả năng nghe hiểu lời nói.
21


7

Khả năng nghe,nhắc lại các
âm, các tiếng và các câu.
Khả năng sử dụng ngôn ngữ

skkn

33%

14

67%

8

38%

13

62%

6

28,6%

15

71,4%



để giao tiếp.
         * Nguyên nhân:
- Do thời gian đầu năm học trẻ mới bắt đầu đến trường chưa quen với môi
trường mới và phải xa bố mẹ, người thân trong gia đình nên trẻ cịn khóc và
chưa chịu học, chịu chơi. Vì thế việc cho trẻ phát triển vốn từ đang cịn rất khó.
- Do trong q trình dạy học, giáo viên dùng phương pháp sử dụng lời nói
nhiều, chưa tạo nhiều cơ hội cho trẻ tham gia hành động với đối tượng nên
chưa
kích thích được sự tích cực hoạt động của trẻ.
- Do đồ dùng phục vụ cho tiết dạy còn thiếu chưa đủ để đáp ứng được sự đổi mới
của mơn học. Vì vậy ảnh hưởng đến kết quả học tập của trẻ. Mặt khác đồ dùng
trực quan của giáo viên chưa phong phú về chủng loại, chưa đẹp, cịn cũ, và ít
nên chưa thu hút, gây được sự chú ý của trẻ.
          - Các hình thức dạy của giáo viên lặp đi, lặp lại nhiều lần, ít sử dụng
những hình thức sáng tạo, mới lạ.
- Có đầu tư vào bài dạy, nhưng phương pháp và biện pháp để cho trẻ được
tham gia vào hoạt động ngôn ngữ là rất ít. Khi tổ chức giờ kể chuyện, đọc thơ
cho trẻ, mơn học mà cơ có thể khai thác nhiều biện pháp giúp trẻ phát triển
ngơn ngữ, thì giáo viên chưa biết linh hoạt tạo cơ hội cho trẻ hệ thống câu hỏi
đàm thoại, giáo viên đưa ra hầu như tồn câu hỏi đóng, trẻ khơng thể tư duy
và ít sử dụng hệ thống câu đầy đủ chủ ngữ và vị ngữ, từ đó dẫn đến việc trẻ
hay nói cộc lốc, thiếu lễ phép, chưa biết giao tiếp.
- Muốn khắc phục sửa đổi và hướng dẫn trẻ khả năng nghe, hiểu ngơn ngữ,
phát triển vốn từ, nói đủ câu, đủ ý, trịn tiếng, nói được những câu dài, hay
dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, phát triển ngơn ngữ mạch lạc, giáo dục văn hoá

skkn



giao tiếp lời nói cho trẻ, thì phải dựa vào đặc điểm tâm sinh lí của trẻ từ đó
tìm ra các biện pháp phù hợp để đạt được hiệu quả cao trong việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ.
Từ những nguyên nhân trên tơi đã suy nghĩ trăn trở và tìm ra “Một số biện
pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi ”
7.2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 24 - 36
THÁNG TUỔI.            
 Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là giáo dục khả năng nghe, hiểu ngơn ngữ, phát
triển vốn từ, nói đủ câu, trịn tiếng, đủ ý, nói được những câu dài, dạy trẻ nói
đúng ngữ pháp, phát triển ngơn ngữ mạch lạc, giáo dục văn hố giao tiếp lời
nói. Ngồi ra ngơn ngữ còn là phương tiện để trẻ tham gia vào các hoạt động
học và hoạt động chơi có chủ đích, hoạt động hằng ngày để trẻ tiếp thu các
kiến thức, từ đó phát triển tồn diện cho trẻ. Đặc biệt nhờ có ngơn ngữ mà 
trẻ dễ dàng tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào
xã hội tốt hơn. Chính vì vậy mà trong q trình dạy tơi đã mạnh dạn áp dụng
một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ bằng những hoạt động sau:
 7.2.1- Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi:
1. Giờ đón, trả trẻ:

skkn


( Giờ đón trẻ buổi sáng)
Giờ đón trẻ là lúc cần tạo khơng khí vui vẻ, lơi cuốn trẻ tới trường, tới lớp cơ
phải thật gần gũi, tích cực trị chuyện với trẻ. Vì trị chuyện với trẻ là hình
thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho
trẻ, đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cơ mới có
thể cung cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ.
    VD: Cơ trị chuyện với trẻ về gia đình của trẻ:

      + Gia đình con có những ai?
      + Trong gia đình ai yêu con nhất?
      + Mẹ yêu con như thế nào?
      + Buổi sáng ai đưa con đến lớp?

skkn


      + Bố con đưa đi bằng phương tiện gì?
      - Như vậy khi  trị chuyện với cơ trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngơn ngữ
của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn.
      - Ngồi ra trong giờ đón trẻ, trả trẻ tơi ln nhắc trẻ biết chào ơng, bà, bố,
mẹ  như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có
thói quen lễ phép, biết vâng lời.
7.2.2- Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc:

Các bé chơi thao tác vai
Trong một giờ hoạt động chung trẻ khơng thể phát triển ngơn ngữ một cách
tồn diện được mà phải thông qua các hoạt động khác trong đó có hoạt động
góc. Đây có thể coi là một hình thức quan trọng nhất, bởi giờ chơi có tác

skkn


dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hố vốn từ cho
trẻ. Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là
thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong qúa trình trẻ chơi sử dụng các
loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung khác nhau.
     VD1: Trị chơi trong góc “ Thao tác vai” trẻ được chơi với em búp bê và khi
trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày.

       + Bác đã cho búp bê ăn chưa?  ( Chưa ạ)
       + Khi ăn bác nhớ đeo yếm để bột không dây ra áo của búp bê nhé! ( Vâng
ạ)       
       + Ngoan nào mẹ cho búp bê ăn nhé!
       + Bột vẫn cịn nóng lắm để mẹ thổi cho nguội đã! (Giả vờ thổi cho nguội)
       + Búp bê của mẹ ăn ngoan rồi mẹ cho búp bê đi chơi nhé! (Âu yếm em búp
bê)
       Qua giờ chơi cô  không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe,
hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm u thương, gắn
bó của con người
        VD2: Trong góc “ Hoạt động với đồ vật” ở chủ điểm “Giao thông” bằng đồ
dùng tự tạo đó chính là những chiếc ơ tơ đã đục sẵn lỗ và những chiếc ơ tơ,
máy bay chưa có bánh xe tôi đã cho trẻ lấy dây xâu qua những lỗ đó và tơi sẽ
hỏi trẻ:
       + Dương ơi, con đang xâu gì vậy? ( Con đang xâu ơ tơ ạ)
       + Con xâu ơ tơ bằng gì đấy? (Con xâu bằng dây xâu ạ)
        +  Khôi ơi, ô tô này đã đi được chưa hả con? ( Chưa đi được ạ)
        + Muốn ô tô đi được phải làm thế nào? ( Lắp thêm bánh xe ạ)

skkn


       + Khi xâu xong con để sản phẩm của mình  nhẹ nhàng vào khay nhé!      
( Vâng ạ)
VD3: Ở góc“ Bé khéo tay” cũng ở chủ điểm “Giao thông ” bằng miếng xốp
thừa tơi đã tận dụng cắt thành hình ơ tô, xe máy để cho trẻ in màu. Trẻ sẽ
được in những PTGT đủ màu sắc tạo lên giấy thành sản phẩm của mình một
cách nghệ thuật. Tơi thấy trẻ rất khéo léo, chăm chú khi làm. Khi trẻ làm tơi
ân cần đến bên trẻ trị chuyện cùng trẻ:
        + Con đang làm gì vậy? ( Con in hình ơ tơ ạ)

        + Ơ tơ của con có màu gì? ( Màu đỏ ạ)
        + Đây là phương tiện gì  con có biết khơng? ( Xe đạp ạ )
        + Xe đạp này có màu gì ? ( Màu vàng ạ) 
        + Ơ tơ và xe đạp đi ở đâu hả con ? ( Trên đường ạ )
  - Như vậy bằng những đồ chơi tự tạo thông qua hoạt động chơi không
những rèn cho trẻ sự khéo léo mà cịn góp phần phát triển ngơn ngữ cho trẻ.
7.2.3- Giáo dục ngơn ngữ thơng qua hoạt động ngồi trời:
 
 

skkn


Các bé dạo chơi ngoài trời
- Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi để
trẻ được gọi tên các đồ chơi quanh sân trường như: Đu quay, cầu trượt, bập
bênh….Ngồi ra tơi cịn  giới thiệu cho trẻ biết cây xanh, cây hoa ở vườn
trường và hỏi trẻ:
         + Cây hoa này có màu gì? ( Trẻ trả lời màu đỏ)
         + Thân cây này có to khơng? ( Có ạ)
         + Lá cây có màu gì? ( Màu xanh ạ)
         + Các con có nhìn thấy con gì đang bay đến khơng? ( Có ạ)
         + Con gì vậy? ( Con chim)

skkn


         + Con chim kêu như thế nào?( Chích chích….)
 * Giáo dục:
          + Các con nhớ cây xanh rất tốt cho sức khoẻ của con người các con

không được hái  hoa, bẻ cành mà phải tưới cây để cây mau lớn nhé!( Vâng ạ)
          - Qua những câu hỏi cô đặt ra sẽ giúp trẻ tích luỹ được những vốn từ
mới ngồi ra cịn giúp trẻ phát triển ngơn ngữ chính xác, mạch lạc, rõ ràng
hơn.
          - Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống khơng hoặc nói
những câu khơng có nghĩa. Vì vậy bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và nhắc
nhở trẻ, nói mẫu cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại.
7.2.4- Giáo dục ngôn ngữ thông qua các giờ học khác:
 1. Thơng qua giờ nhận biết tập nói:
        Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung
cấp vốn từ vựng cho trẻ.
        Trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa
hồn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói khơng đủ từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên
trong tiết dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng
thú cho trẻ. Bên cạnh đó cơ phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn
gọn trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu khơng nói cộc
lốc.
      VD1: Trong bài nhận biết ” Con cá” cô muốn cung cấp từ “ đuôi cá ” cho
trẻ cô phải chuẩn bị một con cá thật và một con cá giả ( được làm bằng bìa)
để cho trẻ quan sát. Trẻ sẽ sử dụng các giác quan như: sờ, nhìn…..nhằm phát
huy tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ đích.

skkn


         - Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát cô cần đưa ra
hệ thống câu hỏi:
         + Đây là con gì? ( “Con cá ạ”)
         + Các con nhìn xem cá muốn bơi được là nhờ cái gì mà đang quẫy quẫy
đây? ( Cái đi ạ)

         + Các con ơi, cá đang nhìn chúng mình đấy thế mắt cá nằm ở đâu nhỉ? 
(Nằm ở trên đầu con cá)
         + Đố các bạn biết cá sống ở đâu? ( Sống ở dưới nước)
         + Trên mình cá có gì mà lấp lánh thế ? ( Có vẩy)
         - Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói
được cả câu theo yêu cầu câu hỏi của cô. Nếu trẻ nói cộc lốc, thiếu từ cơ phải
sửa ngay cho trẻ.
     VD2 :  Bài nhận biết “ Ơ tơ”
     Khi vào bài tơi đặt câu đố: 
                                             “ Xe gì bốn bánh
                                               Chạy ở trên đường
                                               Còi kêu bim bim
                                               Chở hàng chở khách” ( Ơ tơ)
    - Trẻ trả lời đó là ô tô tôi đưa chiếc ô tô cho trẻ xem và hỏi:
               + Xe gì đây? ( Ơ tơ ạ )
               + Ơ tơ có màu gì? (  Màu đỏ ạ )
               + Ơ tơ đi ở đâu? ( Ơ tơ đi ở trên đường ạ)
               + Ơ tơ dùng để làm gì? ( Dùng để đi ạ)

skkn


               + Cịi ơ tơ kêu như thế nào? ( bíp bíp..)
               + Đây là cái gì? ( Cơ hỏi từng bộ phận của ô tô và yêu cầu trẻ trả lời)
  -  Cứ như vậy tôi đặt hệ thống câu hỏi từ tổng thể đến chi tiết để trẻ trả lời
nhằm kích thích trẻ phát triển tư duy và ngơn ngữ cho trẻ, qua đó lồng liên hệ
thực tế giáo dục trẻ về an tồn giao thơng khi đi trên đường.
 2. Thông qua giờ thơ, truyện:
        Trên tiết học khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển
ngơn ngữ nói cho trẻ và cịn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc

mà muốn làm được như vậy trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác
là trẻ cũng được học thêm được các từ mới qua giờ học thơ, truyện.
       Để giờ thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngơn ngữ cho trẻ
thì đồ dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo :
         + Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn và vệ sinh
cho trẻ.
         + Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu truyện, phía dưới phải có
chữ to giúp cho việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi.
          + Bản thân giáo viên phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong
sáng, giọng đọc phải diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật.
             VD1: Trẻ nghe câu truyện “ Đôi bạn nhỏ”. Tơi cung cấp vốn từ cho trẻ
đó là từ “ Bới đất”. Cơ có thể cho trẻ xem tranh mơ hình một chú gà đang lấy
chân để bới đất tìm giun và giải thích cho trẻ hiểu từ “ Bới đất”.
          ( Các con ạ , bản năng của những chú gà là mỗi khi đi kiếm ăn các chú
phải lấy chân để bới đất, đào đất lên để tìm thức ăn cho mình , khi kiếm được
thức ăn chú gà sẽ lấy mỏ để ăn đấy). Sau khi giải thích tơi cũng chuẩn bị một
hệ thống câu hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung truyện và từ vừa học:

skkn


         + Hai bạn Gà và Vịt trong câu truyện cô kể rủ nhau đi đâu? ( Đi kiếm ăn
ạ)
         + Vịt kiếm ăn ở đâu? ( Dưới ao  )
         + Thế còn bạn Gà kiếm ăn ở đâu? ( Trên bãi cỏ)
         + Bạn Gà kiếm ăn như thế nào? ( Bới đất tìm giun  )
         + Khi hai bạn đang kiếm ăn thì con gì xuất hiện đuổi bắt Gà con? ( Con
Cáo)
          + Vịt con đã cứu Gà con như thế nào? ( Gà nhảy phốc lên lưng Vịt, Vịt
bơi ra xa).

          + Qua câu truyện con thấy tình bạn của hai bạn Gà và Vịt ra sao?
(Thương yêu nhau)
       + Nếu như bạn gặp khó khăn thì các con phải làm gì?( Giúp đỡ bạn ạ).
      - Cô kể 1-2 lần cho trẻ nghe giúp trẻ hiểu thêm về tác phẩm và qua đó lấy
nhân vật để giáo dục trẻ  phải biết yêu thương và giúp đỡ bạn trong lúc gặp
khó khăn.
VD2: Qua bài thơ “Cây bắp cải” tơi muốn cung cấp cho trẻ từ “Sắp vịng
quanh”. Tôi chuẩn bị một chiếc bắp cải thật để cho trẻ quan sát, trẻ phải được
nhìn, sờ, ngửi…..và qua vật thật tơi sẽ giải thích cho trẻ từ “ sắp vịng quanh”.
       - Tơi giải thích cho trẻ :  Các con nhìn này đây là cây bắp cải mà hàng
ngày mẹ vẫn mua về để nấu cho các con ăn đấy. Các con  nhìn xem lá bắp cải
rất to có màu xanh và khi cây bắp cải càng lớn thì lá càng cuộn thành vòng
tròn xếp trồng lên nhau lá non thì nằm ở bên trong được bao bọc bằng
những lớp lá già ở ngồi . Bên cạnh đó tơi cũng chuẩn bị câu hỏi để trẻ trả
lời:
         + Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì? (Cây bắp cải ạ)

skkn


         + Cây bắp cải trong bài thơ được miêu tả đẹp như thế nào?
                ( Xanh man mát  )
         + Còn lá bắp cải được nhà thơ miêu tả ra sao? ( Sắp vòng quanh ạ)
         + Búp cải non thì nằm ở đâu?   ( Nằm ở giữa ạ)
    - Như vậy qua bài thơ ngoài những từ ngữ trẻ đã biết lại cung cấp thêm
vốn từ mới cho trẻ để ngôn ngữ của trẻ thêm phong phú.
     - Ngồi việc cung cấp cho trẻ vốn từ mới  thì việc sửa lỗi nói ngọng, nói lắp
cũng vơ cùng quan trọng khi trẻ giao tiếp. Khi áp dụng vào bài dạy tôi luôn
chú trọng đến điều này và đã kịp thời sửa sai cho trẻ ngay tại chỗ.
VD3:   Trong câu truyện “ Thỏ ngoan” ngoài việc giúp trẻ thể hiện ngữ điệu,

sắc thái tình cảm của các nhân vật trong truyện tơi cịn sửa sai những từ trẻ
hay nói ngọng để giúp trẻ phát âm chuẩn và động viên những trẻ nhút nhát 
mạnh dạn hơn khi trả lời.
         + Trẻ hay nói ơ tơ               -        ơ chơ.
         + Trẻ nói Thỏ ngoan           -        Thỏ ngan
         + Bác Gấu                           -       Bác ấu
         + Con Cáo                           -       Con áo
         ………….                                    ………..
        - Mỗi khi trẻ nói sai tơi dừng lại sửa sai ln cho trẻ bằng cách  : tơi nói
mẫu cho trẻ nghe 1-2 lần sau đó yêu cầu trẻ nói theo.
        - Thể hiện sắc thái, ngữ điệu nhân vật sẽ cuốn hút rất nhiều trẻ tham gia
đặc biệt những trẻ nhút nhát qua đó cũng mạnh dạn hơn. Đối với những trẻ
đó tơi động viên, khích lệ trẻ kịp thời.
     - Tôi cho trẻ thể hiện ngữ điệu  của các nhân vật trong truyện “ Thỏ ngoan”

skkn


     + Giọng Bác Gấu bị mưa rét thì ồm ồm và run, nét mặt buồn.
     + Giọng con Cáo thì gắt gỏng, nét mặt kênh kiệu.
     + Giọng Thỏ thì ân cần , niềm nở.
     - Như vậy thơ truyện  khơng những kích thích nhận thức có hình ảnh của
trẻ mà cịn phát triển ngơn ngữ  cho trẻ một cách toàn diện. Trẻ nhớ nội dung
câu truyện và biết sử dụng ngơn ngữ nói là phương tiện để tiếp thu kiến
thức .
3 . Thông qua giờ âm nhạc:
     - Để thu hút trẻ vào giờ học và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt hơn
thôi thúc tôi phải nghiên cứu, sáng tạo những phương pháp dạy học tốt nhất
có hiệu quả với trẻ.
    -  Đối với tiết học âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều đồ vật ( Trống, lắc,

phách tre, mõ, xắc xô…… và nhiều chất liệu khác ) trẻ được học những giai
điệu vui tươi kết hợp với các loại vận động theo bài hát một cách nhịp nhàng.
Để làm được như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức vốn từ, kỹ năng nhất
là sự giao tiếp bằng ngơn ngữ của trẻ được tích luỹ và lĩnh hội, phát triển
tính nghệ thuật, giúp trẻ yêu âm nhạc.
     - Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng ngơn ngữ
có mục đích, biết dùng ngơn ngữ và động tác cơ bản để miêu tả những hình
ảnh đẹp của bài hát.
        VD:    Hát và vận động bài “ Con voi”
              + Câu đầu tiên : Con vỏi con voi
                                         Cái vòi đi trước.
                               ( Trẻ đưa tay ra phía trước giả làm vịi con voi)
               + Câu thứ hai :  Hai chân trước đi trước

skkn



×