Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Skkn một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy tập đọc cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.51 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
MỤC NỘI DUNG

TRANG

1

Mở đầu

1

1.1

Lí do chọn đề tài

1

1.2

Mục đích nghiên cứu

1

1.3

Đối tượng nghiên cứu

2

1.4


Phương pháp nghiên cứu

2

2

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

3

2.1

Cơ sở lí luận

3

2.2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh 4
nghiệm

2.3

Giải pháp thực hiện

4

2.4

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm


12

3

Kết luận, kiến nghị

14

3.1

Kết luận

14

3.2

Kiến nghị

14

skkn


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chon đề tài:
Việc đọc giúp cho con người hiểu biết, tiếp thu nền văn minh của lồi
người, làm giàu tâm hồn, tình cảm, giúp cho học sinh có cơng cụ học tập, giao
tiếp và phát triển tư duy, hình thành trong học sinh các tính chất tốt đẹp – lịng
u cái thiện, cái đẹp. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi học

sinh. Nó tạo ra hứng thú, động cơ học tập các mơn học khác. Vì vậy, việc dạy
đọc có hiệu quả là một trong các yêu cầu cần thiết.
Đặc biệt trong thời đại ứng dụng công nghệ thông tin, nếu muốn giao lưu
không chỉ qua sách vở, báo chí trong nước mà cịn giao lưu trên mạng với tồn
thế giới thì biết đọc, hiểu càng quan trọng vì nó sẽ giúp con người nắm bắt, sử
dụng được các nguồn thơng tin vơ cùng phong phú. Đọc chính là học, là tiếp
thu, nhận thức, đọc để tự hiểu, biết tính tốn.Vì vậy, dạy tập đọc có ý nghĩa rất
quan trọng.
Biết đọc đúng, đọc trơi chảy, lưu lốt, ngắt câu vừa đảm bảo được đúng
ngữ pháp, ý nghĩa thông tin của tác giả muốn truyền đạt cho người nghe hiểu,
nhận thức được đúng cũng là góp phần làm trong sáng ngôn ngữ Tiếng Việt.
Đọc giúp các em học sinh chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao
tiếp và học tập. Đọc cũng là công cụ để học tập các môn học khác. Đồng thời
tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Đọc tạo điều kiện để học sinh có khả năng
tự học, đó là một khả năng không thể thiếu được của con người trong thời đại
hiện nay. Đọc một cách có ý thức cũng sẽ có tác động tích cực tới trình độ ngơn
ngữ cũng như tư duy của người đọc.
Qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 2 và sự giao lưu, học hỏi các bạn đồng
nghiệp, tơi nhận thấy muốn cho học sinh nói và viết đúng chính tả, trước hết,
phải biết cách đọc đúng, đọc lưu lốt, trơi chảy văn bản. Đối với học sinh tiểu
học, nhất là đối với học sinh lớp 1, lớp 2 thì yêu cầu đọc đến đâu hiểu - cảm
nhận được đến đó và đọc đọc lưu lốt, trơi chảy ngay khi đọc thì quả là một điều
q khó, mà giáo viên phải là người tìm ra giải pháp tốt nhất để truyền đạt,
1

skkn


hướng dẫn, gợi ý và làm mẫu cho học sinh, tuỳ vào từng bài, từng thể loại giáo
viên tìm cách khai thác, hướng dẫn cho học sinh hiểu từng đoạn văn và cả bài để

có thể giúp học sinh đọc cho đúng. Ở đây, vấn đề chính là làm thế nào để học
sinh thấy được tầm quan trọng của tập đọc để các em thích, có hứng thú trong
giờ học và đọc lưu lốt, trơi chảy được các bài thơ, bài văn. Từ những suy nghĩ
đó, trong năm học 2019 – 2020 này, tôi đã chọn sáng kiến kinh nghiệm “Một số
biện pháp nâng cao hiệu quả dạy Tập đọc cho học sinh lớp 2”.
2. Điểm mới của đề tài:
Là một giáo viên tiểu học, bản thân tôi luôn trăn trở phải làm thế nào để
dạy 100% học sinh đọc đúng, đọc hiểu các văn bản được quy định trong chương
trình Tiếng Việt lớp 2 và đạt được yêu cầu kiến thức, kỹ năng đã đề ra. Trên cơ
sở dạy học sinh đọc đúng và hiểu các bài ứng dụng phù hợp với lứa tuổi, giáo
viên còn giúp các em bước đầu mở rộng tầm nhìn ra thế giới xung quanh, rung
cảm trước cái đẹp, trước những buồn vui, yêu ghét của con người. Đồng thời
hình thành ở mức đơn giản trong các em những nhận thức, tình cảm và thái độ
đúng đắn của con người Việt Nam hiện đại, biết phân biệt đẹp/xấu: thiện/ác;
đúng/sai; biết yêu trường lớp, thầy cơ, bạn bè, q hương, đất nước; có lịng
nhân ái, có ý thức về bổn phận với ơng bà cha mẹ và người thân; biết bảo vệ môi
trường, sống hồn nhiên, trung thực, ...
Ngay từ khi bước vào lớp 1 học sinh đã được học Tiếng Việt và yêu cầu
đối với học sinh ngày càng cao. Ở lớp 1 chủ yếu đọc hiểu được bài văn, bài thơ
ngắn có nội dung đơn giản cịn việc đọc trơi chảy, lưu lốt, chưa địi hỏi cao.
Nhưng lên lớp 2 thì u cầu ngồi đọc đủ, đọc đúng cịn phải đọc lưu lốt, trơi
chảy. Vì thế việc luyện kĩ năng đọc cho học sinh là rất cần thiết và quan trọng.
3. Phạm vi sử dụng đề tài:
Đề tài được áp dụng trong công tác giảng dạy “ Một số biện pháp nâng
cao hiệu quả dạy Tập đọc cho học sinh lớp 2” của học sinh trường Tiểu học
nơi tôi công tác.

2

skkn



II. PHẦN NỘI DUNG
1Thực trạng dạy và học Tập đọc cho học sinh lớp2
Trong trường tiểu học, tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ
quan trọng nhất của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc
được tạo nên từ các kĩ năng, cũng là các yêu cầu về chất lượng của “đọc” đó là:
- Đọc đúng.
- Đọc nhanh (đọc lưu lốt, trơi chảy).
- Đọc có ý thức (thơng hiểu được nội dung những điều mình đọc).
Các kĩ năng này được hình thành trong hai hình thức đọc là: đọc thành
tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ cùng nhau. Sự
hoàn thiện một trong những kĩ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kĩ
năng khác.
Ví dụ: Đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh, cũng như cho phép thông hiểu
nội dung văn bản. Ngược lại, nếu khơng hiểu điều mình đang đọc thì khơng thể
đọc lưu lốt, trơi chảy. Nhiều khi, khó mà nói được rạch ròi kĩ năng nào làm cơ
sở cho kĩ năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay chính nhờ hiểu đúng mà
đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy Tập đọc, không thể xem nhẹ yếu tố nào.
Nhiệm vụ nữa của dạy Tập đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành
phương pháp và thói quen làm việc với văn bản, làm việc với sách cho học sinh.
Làm cho sách trở thành một sự tôn sùng ngự trị trong nhà trường, đó là một
trong những điều kiện để trường học thật sự trở thành trung tâm văn hố. Nói
cách khác, thông qua việc dạy Tập đọc, phải làm cho học sinh thích đọc và thấy
được rằng khả năng đọc là lợi ích cho các em trong cả cuộc đời, phải làm cho
học sinh thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một
cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển.
Nhiệm vụ khác: vì việc đọc không thể tách rời khỏi những nội dung được
đọc nên bên cạnh nhiệm vụ rèn kĩ năng đọc, giáo dục lịng u sách, phân mơn
Tập đọc cịn có nhiệm vụ:


3

skkn


a) Làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức vừa học cho học
sinh.
b) Phát triển ngôn ngữ và tư duy cho học sinh.
c) Giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh.
(Phương pháp dạy học Tiếng Việt 2 - NXBGD)
Để thực hiện tốt nhiệm vụ, mục đích của phân mơn Tập đọc, sáng kiến
kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy Tập đọc cho học sinh
lớp 2” giúp cho học sinh lớp 2 có kĩ năng đọc.
Qua một năm áp dụng, cùng với việc vận dụng một cách linh hoạt những
đổi mới trong việc dạy môn Tập đọc, vận dụng những phương pháp và hình thức
tổ chức dạy học tôi thấy học sinh rất hứng thú học tiết Tập đọc và nhiều học sinh
đã có kĩ năng đọc đúng, đọc lưu lốt, trơi chảy ở bất cứ một bài thơ, một bài văn
nào đó.
a. Thuận lợi:
Đa số học sinh ở trường hầu hết đồ dùng học tập của các em đều được bố mẹ
trang bị đầy đủ ngay từ đầu năm học, các em đều ngoan ngoãn, vâng lời cơ
giáo.
b. Khó khăn:
Học sinh đầu cấp nên kỹ năng đọc chậm, còn ê a ngắt ngứ, phát âm chưa
chuẩn, bộ máy phát âm còn khiếm khuyết, ngữ điệu của từng nhân vật trong bài
tập đọc chưa phù hợp. Các em cũng ảnh hưởng từ gia đình, xã hội trong cách cư
xử, giao tiếp: nói tiếng địa phương...
3. Nguyên nhân
Tập đọc là một phân mơn có vị trí quan trọng hàng đầu trong chương trình

Tiếng Việt ở tiểu học. Dạy tốt phân môn Tập đọc không những rèn luyện cho
học sinh kĩ năng đọc mà còn phát triển cho các em vốn từ ngữ phong phú tạo
điều kiện để các em học tốt các phân môn khác. Thông qua môn Tập đọc rèn
cho các em kĩ năng đọc như: Đọc đúng, đọc nhanh, đọc chính xác, rõ ràng, diễn
cảm để học sinh có những hiểu biết về kiến thức văn học, ngôn ngữ và ngược
4

skkn


lại. Đầu tiên trẻ phải học đọc sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc giúp các em lĩnh
hội được ngôn ngữ, dùng trong giao tiếp và hoạt động học tập. Nó là điều kiện
để cho học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cho cả đời. Phân mơn
Tập đọc cịn trau dồi cho học sinh kiến thức Tiếng Việt, kiến thức văn học, kiến
thức đời sống giáo dục tình cảm, thầm mĩ. Tập đọc là môn khởi đầu, đồng thời
cũng là công cụ học tập khơng chỉ trong nhà trường mà cịn trong cuộc sống nói
chung.
Lớp 2 của tơi phụ trách trong năm học này có 29 học sinh. Ngay từ đầu
năm học và qua 2 tuần đầu tơi đã tìm hiểu về kiến thức mơn Tiếng Việt nói
chung và trong phân mơn Tập đọc nói riêng, cụ thể như sau:
Chất lượng đọc đầu năm:
Sĩ số

Khả năng

Số học sinh

Tỷ lệ %

Đọc hay, lưu loát


4 em

13,8

Đọc đúng

10 em

34,5

Đọc ê a

8 em

27,6

Đọc từng tiếng một

7 em

24,1

HS
29

Chính vì thế, để giúp các em học tốt môn Tiếng Việt nói chung, phân
mơn Tập đọc thì giáo viên phải quan tâm đến kĩ năng đọc của học sinh trong
phân môn Tập đọc.
4. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy Tập đọc cho học sinh lớp 2.

Trong phân môn tập đọc tôi đã sử dụng linh hoạt 1 số phương pháp:
Biện pháp 1:Sử dụng phương pháp quan sát, điều tra:
- Phương pháp này để đánh giá mức độ học tập của học sinh thông qua
giọng đọc và lời phát biểu của học sinh.

5

skkn


Giáo viên ghi chép kết quả điều tra kĩ năng đọc của từng học sinh trong
năm học trước và quan sát nhận xét học sinh trong giờ học. Để từ đó có cái nhìn
khái qt về việc sử dụng vốn ngơn ngữ của học sinh. Từ đó giáo viên dễ dàng
phân loại khả năng đọc của từng học sinh trong lớp, qua đó giáo viên lập kế
hoạch bồi dưỡng, giúp các em phát huy khả năng của mình trong tiết học tập đọc
chẳng hạn:
Khi phân loại khả năng đọc của học sinh, giáo viên tổ chức cho học sinh
luyện đọc cho phù hợp .
+ Đối với học sinh đọc đúng, lưu lốt, hiểu nội dung bài thì giáo viên cho
các em đọc mẫu trước ở các phần: Luyện đọc từ khó, luyện đọc đoạn, đọc cả bài

+ Đối với học sinh đọc ê a, đọc phát âm chưa chuẩn, ngắt nghỉ hơi chưa
hợp lý thì giáo viên nhắc nhở và cho các em luyện đọc nhiều lần. Khi đọc ở lớp,
giáo viên cho các em luyện đọc theo, sau khi cô giáo hay học sinh đã đọc mẫu
và kèm theo lời nhận xét, tuyên dương kịp thời nhằm động viên, khuyến khích
các em, giúp các em có lịng tin và tự tin hơn trong khi đọc. Để tạo sự ham thích
và hứng thú khi luyện đọc, giáo viên chọn học sinh cùng đối tượng thi đọc với
nhau. Giáo viên cần quan tâm đến các em nhiều hơn và kèm theo lời nhận xét,
tuyên dương kịp thời khi các em có tiến bộ.
+ Khi phân loại khả năng đọc của từng đối tượng học sinh, giáo viên phải

sắp xếp chỗ ngồi học của các em hợp lý, khoa học hơn: Những học sinh đọc tốt
ngồi rải đều trong lớp để khi luyện đọc trong nhóm thì nhóm nào cũng có một
hoặc hai học sinh đọc đúng, đọc trơi chảy, lưu lốt và những em này sẽ là nhóm
trưởng để hỗ trợ, giúp đỡ các bạn trong nhóm mình đọc tốt hơn.
Biện pháp 2: Sử dụng phương pháp luyện theo mẫu:
Sau bài Tập đọc, các em có khả năng “đọc” thành thạo.
Giáo viên cần nghiên cứu bài đọc để xác định giọng đọc, cách ngắt nghỉ
cụm từ, câu đến việc hiểu được ý nghĩa, tình cảm bài tập đọc để hướng dẫn cho

6

skkn


học sinh đọc đúng và nhận ra lỗi phát âm, giọng điệu sai lệch để chữa cho các
em đọc đúng, đọc lưu lốt, trơi chảy.
Đọc mẫu chính là đọc giới thiệu: Bài đọc mẫu của giáo viên chính là cái
đích, mẫu hình thức rèn kỹ năng đọc mà học sinh cần đạt được. Do đó, yêu cầu
đọc thành tiếng của giáo viên phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn: Đọc đúng, rõ
ràng, trôi chảy, đọc đủ lớn, nhanh vừa phải - để diễn đạt được đúng nội dung và
tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm trong bài Tập đọc.
Ví dụ:
+ Khi dạy bài“Người thầy cũ”giáo viên giúp học sinh đọc với giọng vui
vẻ, trìu mến và ngắt hơi , nhấn giọng ở những từ ngữ có nghĩa, thể hiện tình cảm
của thầy giáo:“À / Khánh //. Thầy nhớ ra rồi //. Nhưng …// hình như hơm ấy /
thầy có phạt em đâu //!”
+Hay ở trong bài: Người mẹ hiền- Đọc với giọng buồn, ngắt hơi, nhấn
giọng phù hợp ở các từ ngữ trong câu:
“Thưa thầy /, hôm nay / em chưa làm bài tập //.” Thể hiện nỗi buồn của An vì
bà mất .

+ Hay ở bài “ Bé Hoa”, khi đọc đoạn ba ( Bức thư Hoa viết cho bố ), giáo
viên cần giúp học sinh đọc với giọng tâm tình như Hoa đang trị chuyện vơí
bố:“Em Nụ ở nhà ngoan lắm. Em ngủ cũng ngoan nữa. Con hết cả bài hát ru
em rồi. Bao giờ bố về. Bố dạy thêm bài khác cho con. Dạy bài dài dài ấy , bố
nhé!”( Đọc với tốc độ vừa phải, hạ giọng ở cuối câu).
Biện pháp 3. Sử dụng phương pháp luyện tập thực hành:
Giúp các em đọc không chỉ đúng mà cịn giúp các em đọc trơi chảy, mạch
lạc, lời văn thể hiện rõ ràng, từ đó giáo viên đánh giá một cách chính xác khả
năng đọc của học sinh.
Giáo viên cần chú ý đối tượng học sinh phát âm chưa chuẩn các tiếng, từ
khó cần rèn đọc đúng. Lập danh sách học sinh phát âm chưa chuẩn để giúp các
em phát âm đúng, chính xác.

7

skkn


+ Giáo viên chú ý luyện học sinh phát âm tiếng khó, đặc biệt là phương
ngữ địa phương thường phát âm sai trong từng bài tập đọc để học sinh luyện
phát âm thật đúng, chính xác và trước hết giáo viên phải là người phát âm
chuẩn.
Đa số học sinh lớp 2D do tôi chủ nhiệm thường phát âm sai: âm đầu: d/gi,
s/x, phát âm sai dấu: ’/~ .Tùy theo từng bài tập đọc, giáo viên lưu ý học sinh
phân biệt cách phát âm đúng và phát âm mẫu để hướng dẫn học sinh đọc đúng
chính tả, đúng nghĩa của từ ngữ trong bài thơ, bài văn.
Ví dụ: Tuỳ theo từng bài Tập đọc, giáo viên chữa phát âm sai các từ ngữ
cho học sinh:
+ Bài “Mẩu giấy vụn” học sinh thường phát âm sai ở âm s / x: “sáng sủa” đọc
sai thành “xáng xủa”; “sạch sẽ” đọc sai thành “xạch xẽ”…

+ Bài “Ngôi trường mới” học sinh phát âm sai ở thanh ’/~ : “ bỡ ngỡ” thành
“ bở ngở”; “ những” thành “nhửng”…
Biện pháp 4. Sử dụng phương pháp vấn đáp gợi mở:
Sau khi đọc đúng, đọc trôi chảy, lưu lốt bài Tập đọc, học sinh cịn hiểu
được nội dung, ý nghĩa của bài Tập đọc.
Giáo viên chuẩn bị trước hệ thống câu hỏi, từ ngữ để dẫn dắt học sinh
hiểu bài.
Điều quan trọng để tiết Tập đọc đạt hiệu quả thì giáo viên phải có sự
chuẩn bị tốt:
Trước khi lên lớp, giáo viên phải đọc bài nhiều lần để đọc tốt và hiểu thấu
đáo nội dung bài đọc. Giáo viên xác định được mục đích, yêu cầu, nội dung và
phương pháp dạy bài Tập đọc cả kiến thức lẫn kỹ năng.
Giáo viên phải chủ động lập kế hoạch giảng dạy trên lớp theo từng bước
sau:
Bước soạn bài:
Giáo viên phải tìm hiểu kỹ bài tập đọc trên cơ sở phân tích, tổng hợp và hệ
thống hố để đánh giá nội dung, nghệ thuật của bài. Cần thiết giáo viên có thể
8

skkn


điều chỉnh, bớt hoặc thêm câu hỏi phù hợp với nội dung của bài Tập đọc sao
cho phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình, để gợi mở, gây hứng thú cho học
sinh trong giờ học.
Khi soạn giáo án giáo viên cần xem xét hệ thống câu hỏi của sách học
sinh kết hợp với sách giáo viên để có sự điều chỉnh phù hợp về bài Tập đọc phù
hợp với đối tượng học sinh. Lựa chọn, bổ sung lại hệ thống câu hỏi, để làm rõ
cách đọc, nội dung và nghệ thuật của bài.
Sau đây là hệ thống câu hỏi (SGK Tiếng Việt lớp 2 tập 1) và hệ thống câu hỏi

mà tôi đã điều chỉnh trong bài “ Cây xồi của ơng em”:

Câu hỏi trong sách Tiếng Việt 2
Tập 1

Câu hỏi soạn để giảng bài
* Đoạn 1:

1.Tìm những hình ảnh đẹp của cây + Cây xồi cát được ơng trồng khi nào?
xồi cát?

+ “ Lẫm chẫm” có nghĩa là gì?

2.Quả xồi cát chín có mùi, vị, màu

Ghi từ: lẫm chẫm

sắc như thế nào?

+ Tìm từ ngữ chỉ những nét đẹp của cây

3.Tại sao mẹ lại chọn những

xoài cát

quả xồi ngon nhất bày lên bàn thờ
ơng?

Ghi bảng: sai lúc lỉu, quả to
+ Nhìn quả xồi, bạn nhỏ rất nhớ ai?


4.Tại sao bạn nhỏ lại cho rằng quả +Tưởng nhớ đến ơng, mẹ bạn nhỏ làm gì?
xồi cát nhà mình là thứ ngon nhất ? * Đoạn 2
+ Quả xoài cát có mùi vị, màu sắc như thế
nào?
Ghi bảng: đậm đà
+ “Đậm đà” có nghĩa là gì?
* Đoạn 3
+ Bạn nhỏ ăn xồi cát chín làm với món gì
sẽ ngon?
+ Tại sao bạn nhỏ cho rằng xồi cát nhà
mình là thứ quả ngon nhất?
9

skkn


Để dạy thành công một bài Tập đọc, giáo viên cần phải dựa vào các câu
hỏi trong sách học sinh (SHS), lựa chọn bổ sung có thể chẻ nhỏ ra, hoặc gợi ý
phát biểu thêm để giảng từ, khắc sâu kiến thức cho học sinh. Từ hiểu sâu được
nội dung bài đọc, các em sẽ đọc đúng, đọc hay được bài Tập đọc.
*Bước chuẩn bị đồ dùng dạy học
Đây là bước quan trọng phục vụ cho giờ dạy, kể cả tranh ảnh và sưu tầm
các câu thơ, ca dao, tục ngữ… để hỗ trợ thêm bài giảng thêm phong phú, gây
hứng thú trong học tập của học sinh. Giáo viên phải chịu khó sưu tầm (yêu cầu
cả học sinh cùng tham gia) những tranh ảnh, tác giả xuất xứ… của tác phẩm có
liên quan đến bài học giáo viên phải suy nghĩ ghi vào giáo án, đưa ra vào lúc
nào cho phù hợp để phục vụ cho mục đích tiết dạy, tận dụng tranh minh họa
trong SGK và đồ dùng dạy học (ĐDDH) một cách thiết thực có hiệu quả nhất.
Ví dụ: Ở bài tập đọc “ Cây xồi của ông em”, tôi sử dụng hình ảnh trực

quan: Hình hai mẹ con bạn nhỏ đi dưới cây xoài sai trĩu quả do ông bạn nhỏ
trồng.

10

skkn


Bên cạnh sử dụng tranh ảnh phục vụ cho tiết học sinh động, tơi cịn sử
dụng bảng phụ viết sẵn câu, từ cần luyện đọc đúng cho học sinh.
Ví dụ: Trong bài “ Cây xồi của ơng em” tơi cần luyện đọc ngắt nghỉ và
nhấn giọng đúng các từ, cụm từ thì tơi sẽ viết sẵn bảng phụ nội dung: Mùa xồi
nào / mẹ cũng chọn những quả chín vàng / và to nhất / bày lên bàn thờ ông.
Để khắc sâu chủ đề bài học, tôi đã sử dụng hai câu tục ngữ:
Uống nước nhớ nguồn
Ăn quả nhớ người trồng cây
làm câu kết bài.
Muốn nói lên tình cảm của con cái đối với ơng bà đã trồng cây xồi khi
cịn sống. Trích dẫn câu thơ, ca dao, tục ngữ… liên quan để minh hoạ, nhằm
khắc sâu hơn nữa tình cảm của con cháu đối với ơng bà.
Chim có tổ, người có tơng
Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc: Mẩu giấy vụn, tôi cũng đã khai thác tranh
sách giáo khoa: hình ảnh của một lớp học, có cơ giáo, có học sinh nhằm kích
thích hứng thú học tập cho các em

11

skkn



Tranh bài Tập đọc Mẩu giấy vụn- SGK Tiếng Việt lớp 2-Tập 1- Trang 48
Tôi sử dụng bảng phụ viết câu cần luyện đọc cho học sinh, câu nói của cô
giáo: “Các em hãy lắng nghe và cho cô biết / mẩu giấy đang nói gì nhé//!”...
(Khi đọc đến dấu / học sinh ngắt hơi, dấu // học sinh nghỉ hơi và nhấn giọng từ
ngữ được gạch chân).
Cũng tương tự với bài tập đọc: Thương ông- tranh bạn nhỏ đang dìu ơng
mình gây sự tị mị, hứng thú cho học sinh.

12

skkn


Tranh bài Tập đọc Thương ông- SGK Tiếng Việt lớp 2-Tập 1- Trang 83
“Ngôi trường mới’ cũng gây cho học sinh hứng thú trong tiết học qua hình ảnh
ngơi trường thân thương thấp thống bóng học trị và cột cờ cao quen thuộc
trước sân trường.

13

skkn


Tranh bài Tập đọc Ngôi trường mới- SGK Tiếng Việt lớp 2-Tập 1- Trang 51
Những minh họa trên cho chúng ta thấy rằng chuẩn bị đồ dùng cho một tiết
học Tập đọc và giới thiệu cho học sinh vào lúc nào cho hiệu quả là một việc làm
vô cùng quan trọng.
- Hướng dẫn Tập đọc:
Giáo viên cần cho các em hiểu rằng các em đọc không phải chỉ để cho cơ
giáo nghe mà cịn cho các bạn nghe, nên cần đọc đủ to để tất cả mọi người trong

phòng học cùng nghe rõ.
Đa số các em học sinh bây giờ rất ham đọc sách nhưng chủ yếu đọc thầm.
Các em đọc những truyện viễn tưởng, truyện tranh… ít có tính văn học, nghệ
thuật nên tuy đọc nhiều nhưng kỹ năng đọc vẫn không được củng cố và phát
huy.
Việc hướng dẫn học sinh đọc đúng, đọc trơi chảy, lưu lốt trong từng bài
Tập đọc thuộc trách nhiệm của người giáo viên. Ở mỗi bài Tập đọc, yêu cầu là
phải đọc rõ ràng, mạch lạc và đúng. Đọc đúng là không đọc thừa khơng sót âm,
vần, tiếng. Đọc đúng phải thể hiện đúng hệ thống ngữ âm chuẩn. Đọc đúng ở
đây bao hàm cả phát âm đúng, phân biệt được các cặp phụ âm l – r, t – tr, gi – d,
s – x và đọc cho đúng các thanh. Để làm được điều này, tôi luôn chú ý xem em
14

skkn


nào mắc lỗi nào để tìm ra nguyên nhân và biện pháp sửa. Trong một bài Tập đọc
không thể luyện đọc đúng được nhiều cặp phụ âm mà với từng bài Tập đọc tôi
chỉ cho luyện đúng một cặp phụ âm hoặc hai cặp phụ âm là đủ.
Ví dụ: Ở bài Tập đọc “ Cây xồi của ơng em” tơi chỉ cho luyện đọc cặp
thanh: hỏi- ngã là những từ khó, phát âm dễ lẫn như: lẫm chẫm, quả sai lúc
lỉu, trảy, nở.
Với những học sinh hay phát âm sai thì tơi phân tích cho các em thấy đọc
sai thường làm sai hẳn ý nghĩa của từ và thường xuyên gọi các em này luyện đọc
đúng, kèm theo lời nhận xét động viên kịp thời. Kết quả chỉ sau một thời gian
học đa số các em sửa được tật này. Điều đó làm các em rất tự tin vì khơng
những bây giờ các em đọc đúng mà cịn viết chính tả đúng.
Ví dụ: “lẫm chẫm” đọc sai thành “lẩm chẩm”, “lúc lỉu” đọc sai thành
“lúc lĩu”, “ trảy” đọc sai thành “trãy”. Nếu em phát âm sai thì khi viết em sẽ
viết sai theo cách đọc là: lẩm chẩm, lúc lĩu, trãy thì em viết sai chính tả.

Để khi đọc các em chủ động được việc cần phát âm cho đúng tôi đã hướng
dẫn các em bằng cách khi chuẩn bị bài cần dùng bút chì gạch chân dưới những
từ có dấu thanh là “hỏi –ngã” (hoặc cặp phụ âm đầu hay sai). Để khi đọc bài
gặp những từ đó thì lưu ý phát âm cho đúng. Đọc đúng cịn bao gồm cả đọc
không thừa, thiếu chữ và biết ngắt, nghỉ hơi sau dấu phẩy và dấu chấm. Cần phải
dựa vào nghĩa giữa các tiếng, các từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc khơng đựơc
tách từ ra làm hai.
Ví dụ: “Mùa xồi nào, mẹ cũng chọn những quả chín vàng và to nhất bày
lên bàn thờ ông.”
- Không ngắt: Mùa xoài nào / mẹ cũng chọn những / quả chín vàng và to
nhất bày / lên bàn thờ ơng.
- Nên ngắt: Mùa xoài nào / mẹ cũng chọn những quả chín vàng / và to
nhất / bày lên bàn thờ ông.
Việc ngắt câu phải phù hợp với các dấu câu, cụm từ có nghĩa, ngắt hơi ở
dấu phẩy, nghỉ hơi ở dấu chấm, đọc đúng các ngữ điệu câu, lên giọng ở cuối câu
15

skkn


hỏi, hạ giọng ở cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm cần diễn
đạt trong câu cảm. Với câu cầu khiến, cần nhấn giọng phù hợp để thấy rõ các
nội dung cầu khiến khác nhau. Ngoài ra cần phải hạ giọng khi đọc bộ phận giải
thích của câu. Vì vậy vào bài giảng, đầu tiên giáo viên đọc mẫu rồi cho một học
sinh đọc toàn bộ bài để cả lớp đọc thầm theo. Sau đó cho học sinh phát hiện các
từ khó – giáo viên cho học sinh tìm cách luyện và đọc các từ khó đó dưới hình
thức đọc (cá nhân, đọc đồng thanh).
Luyện đọc theo đoạn – Giáo viên hướng dẫn học sinh làm chủ được tốc
độ đọc bằng cách đọc mẫu để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Ngồi ra cịn có
biện pháp đọc tiếp nối trên lớp, đọc nhẩm (đọc thầm) có sự kiểm tra của thầy

(cơ) giáo, của bạn để điều chỉnh tốc độ.
Như vậy, đọc đúng là bao gồm một số tiêu chuẩn của đọc trơi chảy, lưu
lốt, rõ ràng, mạch lạc. Đọc trơi chảy, lưu lốt, rõ ràng, mạch lạc chỉ có thể có
được trên cơ sở hiểu thấu đáo bài đọc. Đọc nhấn giọng ở những từ ngữ biểu
cảm, gợi tả, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả. Để đọc được trơi chảy, lưu lốt,
người đọc phải làm chủ được chỗ ngắt giọng, làm chủ được tốc độ đọc (độ
nhanh chậm…) làm chủ được cường độ giọng (độ cao của giọng đọc, lên giọng
hay hạ giọng). – Giáo viên có trách nhiệm giúp học sinh điều này trong khi dạy
học.
Ví dụ: Ở bài “ Cây xồi của ơng em”, khi đọc đoạn 1: Giáo viên cần cho
học sinh thấy được đọc với giọng chậm, tình cảm như là lời kể tâm tình của bạn
nhỏ về người ơng đã mất. Nhất là câu văn “Mùa xồi nào / mẹ cũng chọn
những quả chín vàng / và to nhất / bày lên bàn thờ ông.”(cần đọc nhấn giọng
các từ gạch chân để nêu bật tình cảm tơn kính và nhớ ơn của con cháu đối với
người ơng). Tôi đặt câu hỏi: “Theo các em, muốn đọc tốt câu văn này, ngoài
việc ngắt câu, ta cần nhấn giọng những từ nào ?” và học sinh phát biểu ý kiến.
Cuối cùng thống nhất nhấn giọng các từ: “ chín vàng”, “ to nhất”.
Muốn được như vậy, giáo viên phải đọc mẫu cho học sinh lắng nghe và học
sinh sẽ tự mình rút ra kết luận đúng.
16

skkn


Ví dụ: Mùa xồi nào / mẹ cũng chọn những quả chín vàng/ và to nhất /
bày lên bàn thờ ông.
Hướng dẫn và luyện cho học sinh đọc – càng nhiều học sinh được đọc
càng tốt.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Quá trình áp dụng các biện pháp trên vào đọc Bài ứng dụng ở lớp 2. Đối

tượng học sinh thuận lợi, chất lượng đọc của học sinh có sự tiến bộ rõ rệt và thu
được kết quả như sau:
- Chất lượng đọc của lớp tôi ngày càng tiến bộ.
Cụ thể:
Chất lượng đọc cuối kì 1:

Sĩ số HS
29

Khả năng

Số học sinh

Tỷ lệ %

Đọc hay, lưu loát

10 em

34,5

Đọc đúng

10 em

34,5

Đọc ê a

5 em


27,6

Đọc từng tiếng một

4 em

13,8

* Chất lượng cuối kì 1 và chất lượng đọc đầu năm học:
Sĩ số

Khả năng

Đầu

Tỉ lệ tăng

năm học

/giảm

4 em

13,8

10 em

34,5


Đọc đúng

10 em

34,5

10 em

34,5

Đọc ê a

8 em

27,6

5 em

27,6

Đọc từng tiếng một

7 em

24,

4 em

13,8


HS
Đọc trôi chảy, lưu

Cuối kì 1

Tỉ lệ
tăng /giảm

lốt
29

- Trong giờ Tập đọc, tơi thấy các em ngồi học rất say sưa, sôi nổi phát
biểu ý kiến, hăng say học bài. Rất nhiều em xung phong, phấn khởi khi được gọi
17

skkn


đọc bài và đọc bài hay. Điều đó chứng tỏ các em đã hiểu được nội dung, nghệ
thuật của bài.
- Học sinh được nâng cao rõ rệt về đọc đúng, đọc trơi chảy, lưu lốt, hình
thành được kỹ năng, kỹ xảo khi đọc các bài văn, bài thơ.

18

skkn


III. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:

- Việc dạy theo hướng đổi mới trong các mơn học nói chung và phân mơn
Tập đọc nói riêng, tơi đã từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy và khả năng
vận dụng các kỹ năng rèn đọc của học sinh đạt kết quả cao. Học sinh có khả
năng vận dụng tốt các kiến thức đã học một cách linh hoạt và sáng tạo, gây
nhiều hứng thú trong học tập.
- Để học sinh đọc đúng, đọc trôi chảy. Việc dạy theo hướng đổi mới trong
các mơn học nói chung và phân mơn Tập đọc nói riêng, tơi đã từng bước nâng
cao chất lượng giảng dạy và khả năng vận dụng các kỹ năng rèn đọc của học
sinh đạt kết quả cao. Học sinh có khả năng vận dụng tốt các kiến thức đã học
một cách linh hoạt và sáng tạo, gây nhiều hứng thú trong học tập.ơi chảy, lưu
lốt, hiểu nội dung và ham thích đọc sách thì trong q trình dạy học, người giáo
viên cần phải biết phối hợp linh hoạt các phương pháp và có các hình thức dạy
học, phối hợp, vận dụng tốt để tạo khơng khí hào hứng, vui tươi, phấn khởi giúp
học sinh thích đọc, tự tin và tiếp thu bài đọc đạt hiệu quả. Người giáo viên cần
dành nhiều thời gian nghiên cứu tài liệu giảng dạy, chuẩn bị kĩ việc cần thiết
phải có trong giờ Tập đọc. Ngơn ngữ giáo viên phải chuẩn mực, chính xác.
- Học sinh đọc tốt sẽ giúp các em học tốt mơn Tiếng Việt và các mơn học
khác, sẽ có lợi cho các em trong học tập và trong cuộc sống sau này.
- Việc áp dụng các hình thức, phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất
lượng đọc của học sinh, tôi nhận thấy rất phù hợp cho học sinh trên từng địa
bàn khác nhau.
2. Kiến nghị:
Để giúp giáo viên và học sinh trên địa bàn huyện dạy- học tốt, bản thân tôi
mạnh dạn đưa ra một số ý kiến sau:
Đề nghị các ban ngành có thẩm quyền trang bị đầy đủ trang thiết bị, đồ dùng
dạy học. Đồng thời đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đảm bảo chất lượng dạy- học
đáp ứng yêu cầu, mục tiêu Giáo dục hiện nay.
19

skkn




×