Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Skkn một số biện pháp nhằm giúp học sinh tiểu học tự tin hơn với quy trình vẽ biểu cảm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 16 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM GIÚP HỌC SINH TIỂU HỌC TỰ TIN HƠN
VỚI QUY TRÌNH VẼ BIỂU CẢM
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội họa có một vai trị quan trọng trong cuộc sống hướng con người đi tìm
cái đẹp.Từ lâu hội họa đã cuốn hút trẻ thơ với sức mạnh diệu kì của nó. Nhà điêu
khắc nổi tiếng người Pháp OWiter Rodanh đã nói:"Thế giới chỉ có được hạnh phúc
khi mỗi người có một tâm hồn nghệ sĩ ". Mà môn mĩ thuật là một môn nghệ thuật
hội tụ đầy đủ các yếu tố: Sáng tạo, tưởng tượng, logic, quan sát (thị giác), vận động
(thực hành), liên kết, trải nghiệm (làm việc nhóm), thể hiện nội tâm, khả năng sáng
tạo của mình...
Trong chương trình giáo dục hiện nay, môn Mĩ thuật được xem như là một
phương tiện giáo dục quan trọng trong việc giáo dục thẩm mỹ yêu cái đẹp cho các
em. Ngoài việc cung cấp cho các em một số kiến thức mĩ thuật phổ thông, môn Mĩ
thuật còn giúp các em hiểu biết hơn về cái đẹp, u thích cái đẹp, ngồi việc hồn
thành mơn học của mình, đồng thời nó cịn tạo điều kiện để các em học tốt hơn các
môn học khác. Điều quan trọng hơn nữa là các em biết vận dụng những hiểu biết
về kiến thức mĩ thuật đã học của mình vào học tập cũng như cuộc sống sinh hoạt
hàng ngày của các em. Với phương pháp dạy học Mĩ thuật mới theo phương pháp
Đan Mạch hỗ trợ (SAEPS). Học sinh như được giải phóng khỏi khn mẫu, học
sinh được “Học mà chơi, chơi mà học”, các em thỏa sức sáng tạo, khơng bị gị bó,
khơng sợ mình khơng biết vẽ mà tự do thể hiện sự sáng tạo.
Quy trình vẽ biểu cảm là một trong bảy quy trình Mĩ thuật thử nghiệm của
dự án SAEPS. Đó là vẽ hình ảnh bằng sự quan sát kết hợp tay và mắt mà khơng
nhìn vào giấy hướng tới hình vẽ mang tính biểu đạt cao. Những bức vẽ sẽ rất ấn
tượng và đôi khi rất hài hước. Mắt của các em nhìn tới đâu thì tay cầm bút vẽ đến
đấy. Các em cố gắng khơng nhìn vào giấy và đưa nét liền mạch khi vẽ. Học sinh
rất thích thú với hoạt động này và tham gia một cách hăng say.
Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy, tơi nhận thấy một số em cịn tỏ ra nhút nhát,
lo lắng, nghĩ rằng mình vẽ như vậy là chưa giống mẫu, cảm thấy bài vẽ không
đúng, khơng đẹp,… trong quy trình vẽ biểu cảm. Vậy làm thế nào để các em có thể


tự tin hơn trong khi vẽ về những bức tranh mang tính biểu cảm? Đó là điều tơi
thường băn khoăn và trăn trở. Chính vì vậy tơi đã chọn chủ đề để viết sáng kiến, đó
là: “Một số biện pháp nhằm giúp học sinh tiểu học tự tin hơn với quy trình vẽ biểu
cảm” Với sáng kiến này tơi hy vọng được đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào
việc dạy và học môn mĩ thuật ở Tiểu học đạt kết quả cao.
PHẦN II. NỘI DUNG
I. Cơ sở khoa học.
a. Cơ sở lý luận

skkn


Theo phương pháp mĩ thuật mới thì có quy trình vẽ biểu cảm. Vậy thế nào là
“vẽ biểu cảm”? Biểu cảm là sự biểu hiện của cảm xúc, nhưng bất cứ cách vẽ nào
cũng đều là sự biểu hiện của cảm xúc, vậy thì nó khơng thể là một cái tên cho một
phương thức để tạo ra một tác phẩm nghệ thuật. Bản chất của “vẽ biểu cảm” chính
là vẽ mù, một bài tập để luyện sự phối hợp của tay, mắt, não. Kết quả của nó
thường là một bản vẽ hài hước, thú vị, thường thì nó khơng tạo ra một bản vẽ đẹp,
cũng khơng nên kỳ vọng nó là một phương pháp tuyệt vời giúp học sinh cải thiện
kĩ năng vẽ. Đơn giản đây là một trò chơi giúp học sinh có sự phản xạ tốt về đường,
cách đặt các đường nét, cao hơn là sự quan sát các hình dạng và sự biến đổi của
các đường với những hình thức khác nhau, cũng như giúp học sinh kích thích trí
tưởng tượng khi hình dung ra vị trí các đối tượng.
Như vậy với quy trình vẽ biểu cảm sẽ giúp cho học sinh biết quan sát thật
tập trung, khi vẽ chủ yếu sử dụng sự kết hợp giữa mắt và tay. Học sinh cố gắng
khơng nhìn vào giấy khi vẽ, những bức vẽ sẽ rất ấn tượng. Thậm chí có những bức
chân dung chỉ nhận ra những bộ phận cơ thể như mắt, tóc và kính… Học sinh
khơng phải vẽ cho giống mẫu mà chỉ cần quan sát, ghi nhớ mẫu và truyền cảm xúc
qua tay, thể hiện lên giấy, tạo ra bức vẽ ấn tượng và hài hước.
b. Cơ sở thực tiễn:

Từ thực tế giảng dạy môn Mĩ thuật tơi thấy: Đối với phương pháp cũ thì vẽ
quan sát là phương pháp vẽ thông dụng và hiệu quả đối với học sinh khi học mĩ
thuật. Giáo viên khuyến khích học sinh bằng cách quan sát nhiều chi tiết rồi cố
gắng vẽ lại càng gần đặc điểm mẫu càng tốt. Thơng qua đó thể hiện được những
ngơn ngữ mĩ thuật khác nhau, phải đảm bảo rằng tất cả các bức tranh đều dễ hiểu
và có bố cục rõ ràng. Học sinh vẽ lại bức tranh dựa trên cảm nhận của chính mình
kết hợp giữa quan sát và tưởng tượng. Tuy nhiên tôi thấy vẽ quan sát học sinh đơi
khi có cảm giác nhàm chán bởi u cầu phải giống đặc điểm của mẫu. Khi vẽ phải
quan sát, ghi nhớ, vẽ cho chính xác. Nhưng theo quy trình vẽ biểu cảm thì học sinh
lại hào hứng và thích thú hơn. Vì khi vẽ các em sẽ cảm thấy khơng bị gị bó hay
khó khăn khi vẽ cho thật giống mẫu như phương pháp cũ. Theo chương trình Mĩ
thuật hiện hành, quy trình vẽ biểu cảm có thể áp dụng cho những chủ đề vào các
khối lớp như sau :
Chủ đề 3: Đây là tôi. Lớp 2
Chủ đề 4: Chân dung biểu cảm. Lớp 3
Chủ đề 10: Tĩnh vật. Lớp 4
Chủ đề 11: Vẽ biểu cảm các đồ vật. Lớp 5
II. Bảng điều tra đánh giá kết quả
Trong những năm học qua bản thân tôi đã và đang giảng dạy phân môn Mĩ
thuật ở các lớp của cấp tiểu học. Khi tơi áp dụng quy trình vẽ biểu cảm này vào các
khối lớp thì tơi ln trăn trở suy nghĩ vì sao tơi đã truyền đạt tồn bộ kiến thức và

skkn


làm hết khả năng của mình rồi thì tại sao bài vẽ của các em vẫn chưa đạt được kết
quả như tôi mong đợi? Để trả lời cho những trăn trở đó tơi đã làm một khảo sát ban
đầu ở các khối lớp học 2, 3, 4, 5, tôi thấy chất lượng như sau:
Khố
i lớp


TSHS được
đánh giá

Tự tin thể hiện, thể hiện
được cảm xúc, hồn thành
bài tại lớp

Vẽ rập khn, thiếu tự tin,
chưa hoàn thành bài tại lớp

SL

%

SL

%

2

117

45

38,4

72

61,5


3

133

57

42,9

76

57,1

4

71

30

42,2

41

57,8

5

92

37


40,2

55

59,8

III. Thực trạng và nguyên nhân
1. Thực trạng
a. Ưu điểm:
- Từ thực tế giảng dạy tơi thấy: Các em rất u thích Mĩ thuật, nhất là các bài vẽ
biểu cảm về chân dung hay tĩnh vật các em rất hào hứng và thích thú, vì qua đó
các em sẽ được vẽ mà khơng cần nhìn vào giấy, hình ảnh đó khơng cần phải giống
với mẫu về đường nét lẫn màu sắc mà quan trọng là cảm xúc của chính các em.
Các em sẽ thêm tự tin và rèn luyện sự kiên nhẫn khi vẽ khơng nhìn giấy, mạnh dạn
thể hiện hình ảnh theo bàn tay kết hợp sự tập trung quan sát bằng mắt và ghi nhớ từ
bộ não. Các em được khám phá những biến thể khác nhau bằng cách vẽ khơng
nhìn giấy, học được tầm quan trọng của đường nét và sẽ hồn thành nhiều bản vẽ
khơng quan sát rồi sau đó hồn thiện với bản vẽ quan sát. Qua đó các em được phát
triển tư duy ngôn ngữ, khả năng thuyết trình, nhận xét và đánh giá tác phẩm mĩ
thuật.
- Được sự quan tâm chỉ đạo của phòng giáo dục và sự giúp đỡ của nhà trường nên
cơ bản tôi đã nắm được các bước thực hiện một quy trình mĩ thuật. Ban giám hiệu
nhà trường còn tạo điều kiện về thời gian, công việc, kết hợp với các thầy cơ trong
trường có thể dự giờ, giúp tơi có thể trải nghiệm phương pháp mới để trau dồi thêm
kiến thức. Mỗi tháng sẽ có dạy thực tập liên trường mơn Mĩ thuật để qua đó học
hỏi, trao đổi để tìm ra những phương pháp, kinh nghiệm giúp cho học sinh học tập
tốt hơn.
- Nhà trường đã quan tâm đầu tư công nghệ thông tin cho dạy học, đồng thời phân
bố thời gian giảng dạy hợp lí. Mơn mĩ thuật hiện nay có đầy đủ sách giáo khoa,

sách hướng dẫn giảng dạy cụ thể. Có chương trình của từng tiết rõ ràng, có hướng
dẫn chuẩn kiến thức, kĩ năng của từng bài học.

skkn


- Trường đã có phịng Mĩ thuật riêng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động giảng
dạy và tổ chức học sinh tham gia dự thi vẽ tranh cấp trường, cấp huyện…
- Phụ huynh, học sinh đã hiểu được đây là một mơn học nghệ thuật sáng tạo, vì vậy
khơng ít học sinh, các bậc phụ huynh luôn coi trọng và đầu tư chuẩn bị đầy đủ
dụng cụ, đồ dùng… cho môn học.
b. Tồn tại
- Bên cạnh việc giảng dạy cho học sinh tiếp thu tốt những kiến thức cơ bản đó thì
tơi thấy cịn gặp nhiều hạn chế như: Các bài vẽ của các em cịn mang tính sao chép,
na ná giống nhau, chưa có nhiều sáng tạo hay ý tưởng đột phá. Khi vẽ màu thường
đơn điệu, không có đậm nhạt, vẽ màu khơng gọn. Trong khi có thể nói các em rất
thích học Mĩ thuật, thích vẽ, thích xem tranh, thích được sáng tạo nhưng các giờ
học vẫn còn đại đa số vẫn chưa thực sự thoải mái, chưa thật sự là “không gian của
sự sáng tạo”. Các em vẽ thường bị gị bó, cơng thức, đơi khi rập khn, sự suy
nghĩ, tìm tịi chưa được giải phóng, hiện tượng bắt chước, lặp lại từ cách vẽ hình,
vẽ màu, vẫn cịn chung chung chưa thật sự tốt lên được sự biểu cảm trong từng
bài vẽ... Chính những thói quen theo cách học vẽ từ trước nên khi áp dụng sang
phương pháp học mới các em còn nhiều bỡ ngỡ. Điều đó ảnh hưởng khơng nhỏ
đến kết quả học tập của các em.
- Do quan niệm của một số bậc phụ huynh, thiếu sự quan tâm học tập cho học sinh,
cịn chưa coi trọng mơn học Mĩ thuật... Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
học tập của học sinh gây cho một số học sinh cảm giác chán nản, không tự tin khi
vẽ, khiến cho các em khơng thích thú với bài học, thể hiện tác phẩm của mình qua
loa, đại khái, vì thế khơng thấy được cái hay, cái đẹp và vận dụng vào cuộc sống
hàng ngày.

- Một số học sinh có hồn cảnh gia đình khó khăn, ở với ơng bà, cho nên các em
chưa được chăm lo, chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập như: giấy A4, màu vẽ…; Một
số học sinh có hạn chế về mơn học, các em thường hay thờ ơ, thiếu hào hứng. Điều
đó ảnh hưởng khơng nhỏ đến kết quả học tập của các em.
- Phương tiện, đồ dùng trực quan, vật mẫu cho giáo viên và học sinh bổ sung chưa
kịp thời, chủ yếu là tự làm.
2. Nguyên nhân.
Trong những năm học vừa qua, tôi được phân công giảng dạy môn Mĩ thuật
tôi thấy hầu hết các em đều thích học vẽ, nhất là theo quy trình vẽ biểu cảm, các
em học tập với tinh thần hăng say, biết cảm nhận được cái hay, cái đẹp được thể
hiện ở trong các bức tranh mang tính biểu cảm đó. Bên cạnh đó cịn một số học
sinh nhút nhát, rụt rè chưa mạnh dạn tự tin khi vẽ, một số em cịn chán nản khơng
thích học vẽ vì thấy khó khăn trong khả năng diễn đạt những đường nét, màu sắc
để làm sao cho tác phẩm thật đẹp, thật biểu cảm. Vì thế trong bài học và nhất là
trong quá trình học sinh thực hành rất dễ gây ra tình trạng chán nản, mất tự tin

skkn


khiến cho các em khơng thích thú với bài học, thể hiện tác phẩm của mình một
cách qua loa, đại khái, mang tính sao chép nhiều.
Tình trạng HS thiếu đồ dùng học tập mơn Mĩ thuật cịn khá nhiều do vậy
trong các tiết học Mĩ thuật vẫn cịn khơng ít học sinh không làm được bài, không
được hoạt động.
Tất cả những vấn đề trên rất đáng lo ngại, ảnh hưởng lớn đến việc học Mĩ
thuật của học sinh, cho nên tôi đã căn cứ vào mục tiêu giáo dục đã đề ra cho bậc
tiểu học, xác định rõ vai trò và mục tiêu giáo dục của bộ môn, thông qua thực tế
giảng dạy áp dụng phương pháp mới giúp học sinh thực hiện tốt quy trình vẽ biểu
cảm trong bộ môn Mĩ thuật tôi đã thực hiện một số biện pháp khắc phục như sau:
IV. Các giải pháp

1. Giúp các em hiểu rõ bản chất của Quy trình Vẽ biểu cảm
Để học sinh hiểu được thế nào là vẽ biểu cảm, đòi hỏi người giáo viên
phải thực hành thị phạm cho học sinh quan sát. Trong tiết dạy tôi thường kết hợp
vừa vẽ vừa hướng dẫn cho các em hiểu, chỉ cho các em biết cách đặt bút vẽ ở
đâu, bắt đầu quan sát và vẽ như thế nào, đặt ra những câu hỏi gợi mở hướng các
em tự suy nghĩ, tìm ra cách giải quyết vấn đề. Tiếp theo, tôi sẽ gợi ý cho các em
cùng nhau thảo luận qua về đối tượng của bài học (Ví dụ: Hai bức chân dung hình
4.1, trang 19, SGK - lớp 3) học sinh sẽ nhắc lại những hiểu biết của mình khi vẽ về
tranh chân dung đã được học ở lớp trước như thế nào, sau đó các em sẽ nói cách
mình hiểu về tranh chân dung tự họa là như thế nào, hoạt động này chỉ là một hoạt
động nhắc lại những gì học sinh đã được học để kết nối với đối tượng của chủ đề
mới. Sau đó chúng tôi cùng thảo luận bàn về sự khác nhau trong cách thể hiện của
2 bức tranh chân dung và chân dung biểu cảm, cuối cùng tôi đi đến khái niệm về
vẽ biểu cảm giúp học sinh hiểu:

(Hình 4.1, trang 19, SGK - lớp 3)
Vẽ biểu cảm là vẽ khơng nhìn vào giấy. Người vẽ buộc phải quan sát chặt
chẽ hình dạng và cạnh của đối tượng vẽ bằng đôi mắt của mình. Mục đích của nó
khơng phải là để tạo ra một tác phẩm nghệ thuật giống thực, mà để tăng cường sự
kết nối giữa mắt, tay, não.

skkn


Để minh họa cho khái niệm vừa đưa ra tôi tiến hành một thực hành với đối
tượng thực và không qn việc giải thích cặn kẽ về nó, việc giải thích rõ ràng trong
hoạt động này là rất quan trọng để học sinh thực sự hiểu bản chất của quy trình.
Trong quá trình quan sát giáo viên thực hành, các em sẽ tự mình rút ra
những nguyên tắc mà giáo viên đã thực hiện khi vẽ và cuối cùng tôi sẽ chốt lại 3
nguyên tắc mà tôi phải thực hiện khi vẽ biểu cảm:

+ Khơng nhìn vào giấy
+ Khơng nhấc bút
+ Khơng nói chuyện
Tơi hiểu rõ lí do vì sao các bản vẽ của học sinh mình chưa hồn chỉnh, để
khắc phục những điều đó tơi đưa ra một số kỹ thuật yêu cầu các em thực hiện trong
quá trình thực hành như sau:
+ Cố định cổ tay
+ Di chuyển cánh tay linh hoạt
+ Thả lỏng tay khi vẽ nhưng không nguệch ngoạc
+ Di chuyển bút với tốc độ chậm và ổn định
Thực tế trong quá trình quan sát học sinh thực hành, giáo viên phải thường
xuyên nhắc nhở những kỹ thuật cơ bản này.
Tôi tiến hành luyện tập bằng cách cho các em nhìn vào ảnh chân dung của
chính mình hoặc có thể cho các em ngồi đối diện nhau hoặc dùng gương và thực
hành trong 3 đến 5 bài tùy vào năng lực của học sinh. Bài thứ nhất các em sẽ vẽ
trong vòng 5 phút và những bài sau giáo viên sẽ tăng lượng thời gian dần lên từ
khoảng 1 đến 3 phút. Việc dùng ảnh ở đây mục đích chính là để tiết kiệm thời gian
trong khoảng thời gian hạn hẹp và bạn không thể chuẩn bị một số lượng gương lớn
và thực ra nhìn vào một hình ảnh cố định cũng dễ dàng quan sát hơn một hình ảnh
động. Và việc bạn giới hạn thời gian vẽ trong bài đầu tiên sau đó tăng dần lượng
thời gian lên sẽ giúp học sinh rèn luyện cách nhìn bao quát tổng thể đến chi tiết
cũng như điều đó sẽ giúp học sinh phản xạ nhanh với đường nét và phối hợp tay
mắt, việc kéo dãn thời gian ra về sau sẽ giúp các em dị tìm kỹ càng hơn với nhiều
đường nét và chi tiết mà vẫn đảm bảo cái tổng thể, sự chuyển động của tay sẽ
chậm và ổn định hơn.
Sau khoảng 3 đến 5 bài thì nên cho học sinh dừng lại và cùng thảo luận về
những trải nghiệm vừa thực hành để rút ra kinh nghiệm đồng thời cũng là để làm
rõ bản chất của vẽ biểu cảm.
Thời gian sau đó, các em tiếp tục luyện tập với vẽ biểu cảm nhưng hoạt
động này tôi không giới hạn thời gian mà tùy vào khả năng của học sinh và đối

diện nhau để quan sát trực tiếp. Đến hoạt động hai tơi gần như rất ít khi phải nhắc
đến các nguyên tắc và kỹ thuật, khi thực hiện trong quá trình quan sát học sinh vẽ

skkn


mà dành nhiều thời gian hơn để xem phản xạ và kết quả của học sinh, nếu như ở
hoạt động một các em vẫn cịn ngượng ngùng thì sang hoạt động hai nó diễn ra tự
nhiên hơn, kết quả trơng thấy rõ ràng hơn. Tôi dành khoảng 15 phút yêu cầu các
bạn chuyển sang vẽ theo quan sát để theo dõi sự biến chuyển phản ứng trong việc
đặt đường nét và chất lượng của nó, sau đó các em lựa chọn màu để vẽ nhằm tăng
tính biểu cảm cho bức tranh.
Tôi nhận thấy rằng để sử dụng phương pháp này thực sự có hiệu quả thì
các em phải ln có thói quen quan sát một cách tập trung và có tính sáng tạo,
hình dung được các nét tự nhiên của vẽ biểu cảm. Ở đây, học sinh cần quan sát
thật tập trung, khi vẽ chủ yếu sử dụng sự kết hợp mắt và tay. các em cố gắng
khơng nhìn vào giấy. Giáo viên chia sẻ ngay từ đầu với học sinh rằng, mục đích
khơng phải vẽ cho giống mẫu mà chúng ta quan sát, ghi nhớ mẫu và truyền cảm
xúc qua tay, thể hiện lên giấy, tạo ra bức vẽ ấn tượng và hài hước. Các em có ý
thức rõ hơn trong việc thể hiện những đặc điểm cơ bản của đối tượng vẽ. Tất nhiên
không phải học sinh nào cũng đạt được mục tiêu mà giáo viên đặt ra mà quan trọng
là các em đã được trải nghiệm như một trò chơi, một phương pháp mới.

(Em Nguyễn Ngọc Vy, Lớp 3A đang tập trung quan sát- Sản phẩm của em
qua các bước)
2. Khơi gợi lịng ham thích bộ mơn Mĩ thuật, thay đổi suy nghĩ về
cách học cho học sinh
Từ thực tế giảng dạy ở giai đoạn đầu, phần đơng học sinh u thích mơn
học, được vẽ tự do, sáng tạo theo cảm xúc của mình. Tuy nhiên, vẫn có một số em
rất thờ ơ, thậm chí chán nản mỗi khi đến giờ học, điều này khiến cho tiết học trở

nên nhàm chán, khơng mấy hứng thú. Vì vậy, việc khắc phục tâm lý cho học sinh
quả là khó khăn và hết sức cần thiết.
Dựa vào tâm lý của học sinh là thích khen ngợi, động viên và hay tị mị nên
trước thời gian thực hành, tơi thường giới thiệu cho các em một số tác phẩm tiêu
biểu của những hoạ sĩ nhí, của các bạn, những bức tranh dân gian Đông Hồ… hết
sức biểu cảm để các em xem và tự học tập theo cách vẽ, cách thể hiện tranh.
Phân tích cho các em thấy được cái hay, cái đẹp, ngộ nghĩnh, đáng yêu của
quy trình vẽ biểu cảm được thể hiện qua các tác phẩm, khơi gợi lịng ham thích bộ

skkn


mơn Mĩ thuật, động viên các em ai cũng có thể vẽ, có thể bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ
của mình qua bài vẽ

(Giới thiệu tranh dân gian, những bài vẽ có đường nét ngộ nghĩnh, đáng
u, tính biểu cảm nổi bật)
Việc quan trọng của mỗi tiết học là giáo viên phải chuẩn bị đầy đủ đồ dùng
trực quan, trực quan phải đẹp, hấp dẫn, đặc biệt không quá trừu tượng để học sinh
quan sát, để học sinh cảm nhận được cái đẹp, ngộ nghĩnh của quy trình vẽ biểu
cảm và có hứng thú với bài học, muốn được thể hiện.
Ví dụ: Chủ đề: Tĩnh vật (Chủ đê 10 - lớp 4)…Đây là tôi (Chủ đề 3 - lớp 2)

Tĩnh vật (Chủ đê 10 - Lớp 4)

skkn


Đây là tôi (Chủ đề 3- Lớp 2)
Trong mỗi tiết học, giáo viên cần lựa chọn và phối hợp các phương pháp dạy

học phù hợp để luôn luôn tạo được khơng khí học tập vui vẻ, nhẹ nhàng, hấp dẫn,
lơi cuốn học sinh, tránh giờ học tẻ nhạt, khô cứng.
Giáo dục Mĩ thuật kích thích mọi giác quan và kết hợp nhiều trải nghiệm của
học sinh. Những trải nghiệm này chính là các yếu tố khởi đầu trong các quy trình
dạy và học Mĩ thuật. Hình thức giao tiếp thơng qua hình ảnh sẽ giúp học sinh mở
rộng vốn ngơn ngữ của mình, đúng như câu ngạn ngữ Trung Quốc: “Nghe rồi sẽ
qn, nhìn rồi sẽ nhớ, chỉ có tự làm mới hiểu”.
Hiểu về tâm lý học sinh, biết động viên, khuyến khích học sinh cố gắng
trong học tập. Khơng áp đặt, khơng địi hỏi q cao đối với học sinh. Nên lấy động
viên, khích lệ là chính, cố gắng tìm những ưu điểm dù nhỏ nhất ở từng học sinh để
kịp thời động viên, khen ngợi.
Phải hiểu được đặc điểm tâm lý của trẻ, hiểu biết được mức độ cảm nhận
của học sinh về thế giới xung quanh thông qua các bài học, luôn tôn trọng, gần gũi
học sinh, có tính kiên trì trong cơng tác giảng dạy, khéo léo động viên kịp thời đối
với các em. Đặc biệt không nên chê các em trước mặt các bạn trong lớp.
3. Rèn cho học sinh thói quen quan sát, kỹ năng vẽ biểu cảm
Tôi nhận thấy rằng để sử dụng phương pháp này thực sự có hiệu quả thì các
em phải ln có thói quen quan sát một cách tập trung và có tính sáng tạo, hình
dung được các nét tự nhiên của vẽ biểu cảm. Ở đây, học sinh cần quan sát thật tập
trung, khi vẽ chủ yếu sử dụng sự kết hợp mắt và tay, các em cố gắng khơng nhìn
vào giấy. Giáo viên chia sẻ ngay từ đầu với học sinh rằng, mục đích khơng phải vẽ
cho giống mẫu mà chúng ta quan sát, ghi nhớ mẫu và truyền cảm xúc qua tay, thể
hiện lên giấy, tạo ra bức vẽ ấn tượng và hài hước.

skkn


Học sinh quan sát tập trung khi vẽ
Giáo viên hướng dẫn học sinh cách quan sát các vật mẫu như thế nào để
giúp các em có thể ghi nhớ trong đầu mình những hình ảnh chính. Mắt của các em

nhìn tới đâu thì tay cầm bút vẽ trên giấy theo các bộ phận mắt quan sát. Các em cố
gắng không nhìn vào giấy và đưa nét liền mạch khi vẽ. Học sinh rất thích thú với
hoạt động này và tham gia một cách hăng say.
Trong khơng khí làm việc tập trung và đầy háo hức, các em đã thể hiện hết
khả năng quan sát và trí tưởng tượng phong phú của mình, cùng với sự hỗ trợ kịp
thời của cơ giáo khi các em gặp khó khăn. Ví dụ: Trong Chủ đề 3: Đây là tôi (Lớp
2) hoặc Chủ đề 4: Chân dung biểu cảm (Lớp 3). Trước khi bắt đầu vẽ biểu cảm, tôi
sẽ cho học sinh nhận xét một số nét biểu cảm trên gương mặt bạn như: vui, bất
ngờ, buồn, giận dữ... để các em thấy được các các bộ phận trên khuôn mặt thay đổi
khi biểu lộ sắc thái tình cảm. Sau đó cho các em cùng thể hiện biểu cảm theo
nhóm, các em quan sát và cùng chia sẻ.

Biểu cảm: Vui - Buồn - Ngạc nhiên

skkn


4. Chuẩn bị và tổ chức hoạt động học tập hiệu quả
Việc đầu tiên là chuẩn bị cho tiết dạy, giáo viên phải xác định rõ mục tiêu
bài học, soạn giáo án kĩ lưỡng cho từng hoạt động, đảm bảo tất cả các học sinh đều
hứng thú tham gia các hoạt động học tập.
Giáo viên trực tiếp thao tác vẽ lên bảng cho cả lớp cùng quan sát, nắm được
các bước thực hiện một cách cụ thể nhất. Để học sinh hiểu được thế nào là vẽ biểu
cảm, đòi hỏi người giáo viên phải thực hành thị phạm cho học sinh quan sát. Trong
tiết dạy tôi thường kết hợp vừa vẽ vừa hướng dẫn cho các em hiểu, chỉ cho các em
biết cách đặt bút vẽ ở đâu, bắt đầu quan sát và vẽ như thế nào, đặt ra những câu hỏi
gợi mở hướng các em tự suy nghĩ, tìm ra cách giải quyết vấn đề.
Ví dụ: Trong Chủ đề 4: Chân dung biểu cảm (lớp 3): Trước khi vẽ lên bảng
cho học sinh quan sát tôi sẽ gọi một học sinh lên làm mẫu, hướng dẫn cho các em
biết tôi sẽ quan sát bạn như thế nào, mặt bạn có hình dáng ra sao, tóc dài hay ngắn,

những bộ phận trên khn mặt bạn nằm ở vị trí nào trên khn mặt…? Tiếp đó tơi
sẽ hướng dẫn các em nên đặt bút ở đâu trong khung giấy, tập trung sự chú ý của
các em khi quan sát giáo viên thị phạm, mắt nhìn đến đâu tay vẽ đến đó, lưu ý là
nét vẽ liền mạch. Đặt câu hỏi gợi mở, để học sinh biết cách vẽ thêm nét làm cho
hình vẽ trở nên sinh động và bộc lộ rõ tình cảm như: “Em đốn xem nhân vật trong
hình vui hay buồn? Làm sao để thể hiện rõ cảm xúc của nhân vật..”
Hướng dẫn học sinh cách vẽ màu chú trọng đến những mảng màu tương
phản, cường điệu về đường nét có tính chuyển động (nhiều nét cong lượn).

Giáo viên đang minh họa vẽ chân dung biểu cảm

skkn


Một số bài vẽ màu của học sinh
Tiết kiệm giấy vẽ, tận dụng những đồ dùng có sẵn. Vì điều kiện học sinh
trong trường cịn nhiều khó khăn, do đó việc chuẩn bị đồ dùng của các em đơi khi
cịn chưa đầy đủ, nếu thực hiện theo đúng hướng dẫn, mỗi tiết học vẽ biểu cảm mỗi
học sinh cần dùng 3 - 5 tờ giấy để trải nghiệm vẽ không nhìn giấy sẽ gặp khơng ít
khó khăn, để khắc phục điều đó, tơi thường cho học sinh tận dụng vẽ trên bảng
con, giấy lịch cũ, giấy nháp, vẽ lần lượt bằng nhiều màu khác nhau trên một tờ
giấy. Như vậy các em vừa trải nghiệm được hoạt động, vừa tiết kiệm được giấy vẽ.

Học sinh vẽ trên bảng con
5. Tạo khơng khí sơi động trong hoạt động trưng bày, nhận xét bài vẽ
Giáo viên nên sử dụng kĩ thuật phòng tranh để học sinh trưng bày sản phẩm,
điều này sẽ giúp học sinh có thêm kinh nghiệm thực tế và hứng thú, u thích tác
phẩm của mình và học hỏi từ sản phẩm của bạn. Học sinh thưởng thức, thảo luận
và nhận xét, đánh giá kết quả học tập của nhau, trong quá trình nhận xét đánh giá,
giáo viên khuyến khích sự giao lưu, trao đổi và gợi mở những ý tưởng tiếp theo

cho bài học sau của học sinh.
Giáo viên có thể hướng dẫn làm khung tranh để học sinh trang trí, tạo thành
bức tranh đẹp để tặng bạn bè, người thân, trưng bày góc học tập,…

skkn


Học sinh làm khung tranh - Chủ đề 4: Chân dung biểu cảm (tiết 2 – lớp 3)
Sau khi giáo viên cho học sinh trưng bày sản phẩm lên bảng, có thể cho 2
học sinh lên giới thiệu sản phẩm như ở buổi triển lãm tranh. Như vậy học sinh sẽ
được thoải mái hỏi – đáp về những “tác phẩm”. Tiếp đó giáo viên tổ chức cho các
em bình chọn những tác phẩm được thể hiện có cảm xúc, đường nét, màu sắc ấn
tượng…

Trưng bày sản phẩm
6. Hệ thống câu hỏi phải kích thích học sinh
Khơng chỉ ở quy trình vẽ biểu cảm hay môn học Mĩ thuật mà ở tất cả các
mơn học, thì người giáo viên phải chủ động lựa chọn những câu hỏi sao cho phù
hợp với đối tượng học sinh, câu hỏi phải có tính hệ thống từ thấp đến cao, có sự
logic cho từng hoạt động, khuyến khích các em tư duy...
Nếu là vẽ chân dung biểu cảm, khi học sinh quan sát, thảo luận giáo viên cần
gây chú ý bằng cách đặt các câu hỏi gợi mở như:
+ Em nhìn thấy cái gì?
+ Em quan sát đường nét của bộ phận nào? Miệng, mắt, mũi, cằm hay má?
+ Em có nhận thấy đường nét của mái tóc khơng?
+ Đường nét của cổ gặp đường nét khuôn mặt ở chỗ nào?
+ Cổ, vai, ngực nối với nhau ra sao?

skkn



+ Các em nhận thấy đường nét quần áo quanh cổ và vai không?...
Và muốn học sinh chia sẻ kinh nghiệm sau khi vẽ không quan sát, nhận biết
được đặc điểm đặc trưng của hình vẽ, hiểu về đường nét, ảnh hưởng của đường nét
tới biểu cảm tôi đưa ra một số gợi ý:
+ Chúng ta vừa làm gì? Các em có thích bài tập này khơng? Vì sao?
+ Các em vẽ có giống mẫu khơng?
+ Em nhận thấy trạng thái tình cảm nào trong bức tranh?
+ Em nhận ra những ý nghĩa gì trong bức tranh?...
Sau đó, giáo viên nên đi và quan sát cả lớp, đặt câu hỏi để giúp các em lựa
chọn được màu sắc và nội dung đạt chất lượng:
+ Em muốn thể hiện điều gì và em thể hiện nội dung đó như thế nào trong
bức tranh này?
+ Tại sao em sử dụng màu đó ở chỗ này?
+ Hình ảnh trong tranh của em có theo những gì em muốn thể hiện khơng?
+ Trong bức “Vẽ khơng nhìn giấy” của mình, em muốn thêm hay bỏ chi tiết
nào? Lí do?
+ Nhân vật trong bức vẽ thể hiện trạng thái tình cảm gì? Biểu hiện ở điểm
nào?...
Qua sáu giải pháp vận dụng vào Quy trình Vẽ biểu cảm giúp học sinh có khả
năng khám phá ra năng lực của mình thơng qua các phương tiện khác nhau cũng
như trải nghiệm những niềm vui khi tạo ra những sản phẩm, những biểu đạt mang
lại tính độc lập và đặc sắc của mình. Điều này giúp học sinh có thể sử dụng và ứng
dụng ngơn ngữ Mĩ thuật để có thể biểu đạt kinh nghiệm và thái độ của các em bằng
nhiều cách khác nhau.
Tóm lại: Trong quy trình Mĩ thuật sáng tạo này, giáo viên phải ln chỉ ra
cho học sinh thấy rằng sẽ có vơ vàn cách thức biểu đạt khác nhau chứ khơng phải
chỉ có một cách duy nhất.
V. Hiệu quả của sáng kiến
Qua thời gian giảng dạy được áp dụng những phương pháp mới trong soạn và

giảng, với sáng tạo của thầy và họat động tích cực của học sinh cùng với một số
phương pháp tổ chức hợp lý, bản thân tôi nhận thấy kết quả đạt được một cách rất
tích cực với tỷ lệ học sinh u thích mơn học Mĩ thuật, tự tin thể hiện, bộc lộ được
cảm xúc qua tranh vẽ, hoàn thành được bài vẽ ngay tại lớp, thúc đẩy hứng thú học
tập đạt những yêu cầu cụ thể là rất khả quan, điều đó chứng tỏ thành tích đạt được
qua trải nghiệm hồn tồn có sức thuyết phục. Những con số biểu hiện trong bảng
thống kê dưới đây đã nói rất rõ điều đó:

skkn


Khố
i lớp

TSHS được
đánh giá

Tự tin thể hiện, thể hiện
được cảm xúc, hồn thành
bài tại lớp
SL

%

2

117

117


100

3

133

133

100

4

71

71

100

5

92

92

100

Vẽ rập khn, thiếu tự tin,
chưa hoàn thành bài tại lớp
SL


%

VI. Bài học kinh nghiệm
Sau khi áp dụng các giải pháp trên vào thực tế giảng dạy. Kết quả thu được thật
đáng khích lệ, khơng cịn học sinh xếp loại chưa hoàn thành nữa, mà tỷ lệ ở mức
hoàn thành và hoàn thành tốt rất cao. Đạt 100% vượt chỉ tiêu nhà trường giao.
Với kết quả như trên, tôi thấy việc dạy học Mĩ thuật muốn có kết quả giảng
dạy cao thì người giáo viên phải khơng ngừng tìm tịi và đổi mới phương pháp dạy
học. Để tạo được cách dạy lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên chỉ đóng vai trị là
những người thúc đẩy, biết cần phải thêm chất xúc tác gì vào nước tưới để giúp
những cây non đó phát triển. Thơng qua môn Mĩ thuật, sẽ trang bị cho các em một
số kiến thức, kĩ năng cơ bản về hội họa, tiếp thu những tinh hoa của nền Mĩ thuật
dân tộc. Từ đó, phát huy óc sáng tạo và tính thẩm mĩ góp phần phát triển năng
khiếu, phát hiện tài năng và bồi dưỡng nhân tài cho thế hệ tương lai.
Có thể nói với kết quả này, mỗi chúng ta cũng khơng lấy đó làm bằng lịng
để rồi dừng lại ở đó, mà theo tơi đã là giáo viên thì việc học hỏi, tìm tịi và sáng tạo
trong cách dạy là một nhiệm vụ mỗi ngày của người thầy, hoạt động đó phải được
diễn ra thường xuyên có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao đối với
môn Mĩ thuật và đặc biệt có thể tạo điều kiện cho học sinh vững vàng bước vào
chương trình Mĩ thuật ở bậc Trung học cơ sở.
PHẦN III. KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm
Sau khi áp dụng các biện pháp trên vào thực tế giảng dạy. Kết quả thu được
thật đáng khích lệ, khơng cịn học sinh xếp loại chưa hoàn thành nữa, mà tỷ lệ ở
mức hoàn thành và hoàn thành tốt rất cao.
Ngoài những kết quả trên, điều làm tôi cảm thấy thành công nhất là sự hứng
thú học tập, sự tích cực, đặc biệt là sự tự tin khi tham gia các hoạt động và nụ cười
rạng rỡ của các em khi hoàn thành sản phẩm.

skkn



2. Kiến nghị, đề xuất
Để cho việc dạy và học mơn Mĩ thuật được tốt hơn, tơi có một số kiến nghị
như sau:
- Bộ GD & ĐT cần có một số đồ dùng dạy môn Mĩ thuật theo phương pháp
Đan Mạch cụ thể hơn, có chiều sâu hơn.
- Phịng, Sở GD & ĐT cần tổ chức lớp học nâng cao việc giảng dạy môn Mĩ
thuật.
- Nhà trường, chuyên môn cần duy trì và tiếp tục tạo điều kiện tăng trưởng
cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học và thực hiện dạy học theo chủ đề.
- Phụ huynh cần quan tâm đến con em mình nhiều hơn, sát thực hơn đối với
việc học Mĩ thuật của các em, cụ thể là đồ dùng học tập.
- Giáo viên phải có lịng nhiệt tình, tâm huyết với chun mơn. Phải thường
xun sưu tầm, học hỏi kinh nghiệm cũng như mạnh dạn áp dụng những phương
pháp mới.
Trên đây là một số biện pháp nhằm giúp học sinh Tiểu học tự tin hơn với
quy trình vẽ biểu cảm mà tôi đã mạnh dạn áp dụng và có kết quả cao. Đây chính là
những biện pháp để đồng nghiệp bộ môn cùng tham khảo và vận dụng. Chắc chắn
sẽ cịn nhiều điều thiếu sót, chưa cụ thể hố hoặc vẫn cịn bỡ ngỡ. Mong rằng các
cấp lãnh đạo, đồng nghiệp cùng chung sức góp ý xây dựng để sáng kiến kinh
nghiệm này hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn !

skkn



×