Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Skkn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 24 36 tháng tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 19 trang )

BÁO CÁO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“ Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi ”
I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN:
Giáo dục mầm non là ngành học mở đầu trong hệ thống giáo dục quốc
dân, là giai đoạn đầu trong hệ thống của sự phát triển nhân cách, có vị trí quan
trọng trong sự nghiệp giáo dục con người . Như chúng ta đã biết, trẻ em không
chỉ là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình. Mà cịn là tương lai của nhân loại.
chính vì vậy mà mục tiêu chung của ngành học mầm non là tiến hành giáo dục
trẻ theo nhiều nội dung nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện .một trong những nội
dung hết sức cần thiết và quan trọng đó là ;phát triển ngơn ngữ cho trẻ .Ngơn
ngữ giữ vai trị hết sức quan trọng vì ngơn ngữ là công cụ giao tiếp, giáo dục
nhận thức cho trẻ là vũ khí chiếm lĩnh kho tàng kiến thức của dân tộc và của
nhân loại. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản của con người nó là một
nhân tố quan trọng trong sự phát triển nhân cách, xong ngơn ngữ khơng phải là
cái bẩm sinh, mà nó được hình thành và phát triển trong quá trình đứa trẻ sống
và giao lưu với những người xung quanh, và tiếng “mẹ đẻ” là cơ sở phát triển trí
tuệ, là vốn quý của mọi tri thức. Vì vậy việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt cho trẻ
là trang bị cho trẻ nhận thức thế giới xung quanh và mở rộng quan hệ với mọi
người. Mặt khác, ở lứa tuổi nhà trẻ giai đoạn này người ta gọi là giai đoạn tiền
ngôn ngữ vì đặc điểm sinh lý ở lứa tuổi này có vùng ngơn ngữ bắt đầu hình
thành và phát triển mạnh, do đó mà trẻ được tác động mạnh mẽ về ngơn ngữ từ
phía mơi trường xung quanh trẻ, thì vùng ngơn ngữ của trẻ có điều kiện phát
triển nhanh.
 Đối với trẻ nhà trẻ, muốn diễn đạt được những suy nghĩ của mình, trẻ
phải dùng ngơn ngơn ngữ để trao đổi và cũng nhờ ngơn ngữ đó mà người lớn
giúp trẻ có nhận thức đúng đắn, phân biệt được cái tốt, cái xấu,có tình u đối
con người và thiên nhiên. Khơi dậy ở trẻ lòng ham muốn làm những việc tốt và
những ước mơ trong sáng, với thực tế ngôn ngữ có tầm quan trọng rất lớn và
được các trường mầm non chú ý cùng với sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ mới chỉ
là giai đoạn đầu nên vẫn cịn nhiều vấn đề cần được quan tâm. vì thực tế quá
trình khả năng diễn đạt của trẻ chưa trọn vẹn, cịn nói ngọng, nói ấp úng, nói


thiếu câu, diễn đạt cộc.
Ở độ tuổi nhà trẻ ngôn ngữ của trẻ mang tính chất hồn cảnh, tình huống
nghĩa là ngơn ngữ của trẻ gắn liền với sự vật, hoàn cảnh, con người, hiện tượng
đang xảy ra trước mắt trẻ. Thời kỳ này khả năng sử dụng từ khái quát của trẻ
tăng lên rõ rệt. Trẻ đã bắt đầu biết nối kết giữa tình huống hiện tại với quá khứ
thành một "văn cảnh". Vốn từ của trẻ tăng lên không chỉ số lượng từ mà điều
quan trọng là lĩnh hội được các cấu trúc ngữ pháp đơn giản, sử dụng được các
loại câu đơn, câu ghép, câu khẳng định, câu phủ định. Đã hình thành những cảm
xúc ngơn ngữ qua giọng nói, ngữ điệu, âm tiết, điều chỉnh giọng nói phù hợp với

skkn


2

hồn cảnh khi được nhắc nhở. Ngơn ngữ có vai trị rất lớn trong cuộc sống của
con người. Nhờ ngơn ngữ mà con người có thể trao đổi với nhau những hiểu
biết, truyền cho nhau những kinh nghiêm, tâm sự với nhau những điều thầm kín.
Dạy tiếng mẹ đẻ cho trẻ lứa tuổi mầm non đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ 24- 36
tháng tuổi có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ
giúp trẻ nhận thức và giao tiếp tốt phát triển nhân cách cho trẻ. Việc phát triển
ngôn ngữ mạch lạc trong giao tiếp sẽ dễ dàng tiếp cận với các môn khoa học
khác ở độ tuổi mẫu giáo: môi trường xung quanh, làm quen với tốn, âm nhạc,
tạo hình… Mà điều tôi muốn đề cập ở đây là để ngôn ngữ của trẻ phát triển
thuận lợi, một trong những điều kiện quan trọng là trẻ tích lũy được nhiều vốn từ
và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó, trẻ biết sử dụng thạo.
Nhưng trên thực tế, trẻ 24- 36 tháng tuổi ở lớp tôi các cháu dùng từ khơng chính
xác, nói ngọng, nói khơng đủ câu, nói câu khơng trọn nghĩa chiếm một số lượng
khơng nhỏ và rất khó cho việc trẻ tiếp cận các môn học khác sau này bởi trẻ một
phần nghéo nàn về vốn từ, một phần trẻ không biết diễn đạt xuất phát từ những

lý do trên mà tôi chọn đề tài: “ Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ
nhà trẻ 24-36 tháng tuổi” làm đề tài nghiên cứu.
Qua các năm tôi được phân công dạy lớp nhà trẻ 24-36 tháng tuổi, tơi thấy
trẻ vẫn cịn nói ngọng, nói lắp, nói trống khơng, nói chưa đủ câu, diễn đạt chưa
đủ ý, tiếp thu bài còn gặp nhiều khó khăn, tơi phải thường xun chú ý đến trẻ
đó nhiều hơn. Đặc biệt, một số trẻ vẫn còn nhút nhát, rụt rè, chưa tự tin… nên
cũng ảnh hưởng đến q trình phát triển ngơn ngữ.
Ngồi ra, các bậc phụ huynh lớp tôi phụ trách dù đã quan tâm đến việc
học tập của con, nhưng việc giúp trẻ nâng cao khả năng phát triển ngôn ngữ
chưa được tốt, ảnh hưởng đến sự phát triển tồn diện của trẻ. 
Từ những khó khăn trên, tơi ln đặt câu hỏi mình phải làm thế nào để trẻ trong
lớp khơng cịn nói ngọng, nói lắp, biết mạnh dạn tự tin diễn đạt đủ ý, tham gia
hoạt động có hứng thú. Chính vì thế, tơi thấy mình cần có những biện pháp cụ
thể nhằm giúp trẻ phát huy hết mọi khả năng phát triển ngôn ngữ cho trẻ một
cách hữu hiệu nhất. Đó là những điều kiện hồn cảnh để tơi chọn đề tài: “ Một
số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi ”
II. MƠ TẢ GIẢI PHÁP:
1. Mơ tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:
Ở trường mầm non, phát triển ngôn ngữ cho trẻ được xem là một trong 
những nhiệm vụ quan trọng nhất. Hoạt động này vừa có thể giúp trẻ hình 
thành và phát triển năng lực về ngơn ngữ như nghe, nói, tập viết và tập đọc, 
mà vừa có thể giúp trẻ phát triển các khả năng nhận thức, tư duy, tình cảm,… 
Quá trình phát triển ngơn ngữ của trẻ có những đặc điểm khác nhau, tùy thuộc 
vào từng giai đoạn của trẻ. Việc nắm vững những đặc điểm này sẽ giúp cho 

skkn


3


người giáo viên có được những kiến thức và kĩ năng tốt nhất trong quá trình 
hỗ trợ trẻ phát triển ngôn ngữ, đặt ra những phương pháp linh hoạt và phù hợp 
để đạt được những kết quả tốt cho giai đoạn nền móng này. 
Trẻ giai đoạn từ 18 tháng tuổi đến 5 tuổi là giai đoạn quan trọng trong 
sự phát triển của trẻ. Việc khám phá và tìm hiểu những nhu cầu phát triển của 
trẻ qua ngơn ngữ có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy, điều chỉnh và 
mang lại cho trẻ sự phát triển toàn diện cả về trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và đạo 
đức và trong tương lai. 
Ngôn ngữ của trẻ tiến bộ nhanh hay chậm tùy thuộc vào điều kiện sống,
quan hệ giao tiếp với những người xung quanh. Đây là giai đoạn trẻ đang bắt
chước người lớn, chính thời điểm này cơ giáo sẽ dạy trẻ, uốn nắn cho trẻ cách
nói rõ câu, phát âm rõ ràng. Muốn làm được điều đó giáo viên phải có ý thức
trau dồi ngơn ngữ, tự học, tự rèn luyện.
Trong cuộc sống của chúng ta, ai ai cũng phải sử dụng ngôn ngữ để giao
tiếp với những người xung quanh. Đối với trẻ mầm non, thì qua giao tiếp bằng
ngôn ngữ và tư duy sẽ cung cấp những kiến thức, trí thức về thế giới xung quanh
, mở rộng hiểu biết và tích luỹ vốn kinh nghiệm cá nhân, làm giàu vốn từ, phát
triển ngơn ngữ giàu hình tượng, giàu sức biểu cảm, đồng thời rèn luyện khả
năng tri giác đối tượng, khả năng trình bày ngơn ngữ một cách mạch lạc, logic,
có trình tự chính xác, giáo dục thái độ cách ứng xử cho trẻ thông qua các bài
học, dạy trẻ biết yêu quê hương, đất nước, yêu thiên nhiên và con người . Thông
qua hoạt động hàng ngày như chơi, hát, đọc thơ, kể chuyện giúp trẻ phát triển
vốn từ, luyện phát âm và nói đúng ngữ pháp, trẻ nói đủ câu, trọn nghĩa, vốn từ
phát triển rõ rệt, trẻ nói rõ ràng, diển đạt mạch lạc, đọc thơ, kể chuyện diễn cảm.
Vì vậy phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng là việc
làm cần thiết trong chương trình giáo dục toàn diện trẻ.
* Thuận lợi:
- Từ khi ra trường đến nay tơi đã có nhiều năm dạy lớp 24-36 tháng tuổi, với
đặc điểm tâm lý của trẻ 24-36 tháng tuổi, thích tìm hiểu, quan sát, khám phá
những điều mới lạ. Tôi luôn nhận được sự quan tâm, hướng dẫn chỉ đạo của các

cấp lãnh đạo, của Ban giám hiệu nhà trường và các bạn đồng nghiệp, trường lớp
cũng được đầu tư về cơ sở vật chất như: tivi, đầu đĩa, đàn, đài…
– Đồ dùng phục vụ cho việc phát triển vốn từ cho trẻ phong phú về hình  ảnh,
màu sắc hấp dẫn
- Luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của BGH nhà trường
– Giáo viên nắm vững phương pháp giảng dạy bộ môn, được bồi dưỡng 
thường xuyên và tham gia học tập tại các lớp chuyên đề do sở, phịng tổ chức.
– Giáo viên nhiệt tình, sáng tạo làm đồ dùng phục vụ cho việc cung cấp và 
phát triển vốn từ cho trẻ

skkn


4

kể truyền cảm, nhẹ nhàng, không ngọng… luôn hấp dẫn, thu hút trẻ. Trong công
tác không ngừng tự học, tự bồi dưỡng, luôn được quán triệt, được  bồi dưỡng nội
dung kế hoạch các chuyên đề một cách đầy đủ và đồng bộ về chương trình.
- Bản thân tích cực làm đồ dùng đồ chơi, tự trang bị các thiết bị phục vụ cho
việc dạy học như máy tính, loa, micro trợ giảng…
- Trẻ ở lớp ngoan, hứng thú với các hoạt động.
  - Hội phụ huynh luôn quan tâm, giúp đỡ trong các hoạt động của lớp.
* Khó khăn:
 
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn cịn một số khó khăn:
- Trẻ 24- 36 tháng tuổi do tôi phụ trách là độ tuổi còn non nớt, các cháu
bắt  đầu đi học còn khóc nhiều, chưa quen với các cơ và các bạn, chưa thích nghi
với điều kiên sinh hoạt và các hoạt động ở lớp, các cháu không cùng tháng tuổi.
Qua việc giảng dạy trẻ 24-36 tháng tuổi, bản thân tôi nhận thấy ngôn ngữ của trẻ
không đồng đều, khi giao tiếp trẻ chưa thể hiện đúng ngữ điệu, cử chỉ của lời

nói, phát âm cịn ngọng, dùng từ chưa chính xác, câu từ chưa lưu lốt, trẻ cịn
nói ngọng, nói lắp, vì vậy cơ cần phải tìm hiểu rõ ngun dân dẫn đến để từ đó
có biện pháp khắc phục kịp thời.
- Trí nhớ của trẻ cịn nhiều hạn chế, trẻ chưa biết hết khối lượng các âm
tiếp thu cũng như trật tự các từ khi nhắc lại câu của người lớn
- 85% kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức cịn hạn chế
dẫn đến trẻ dùng từ khơng chính xác
- 60% trẻ nói phát âm sai do ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn xung
quanh
- Ở lớp nhà trẻ, thời gian chăm sóc trẻ chiếm đa số nên việc giáo viên chú
ý phát triển vốn từ cho trẻ còn gặp nhiều khó khăn
- Những trẻ nhút nhát, ít tiếp xúc với bạn trong lớp, ngại giao tiếp với những
người xung quanh dẫn đến trẻ kém hiếu động, vì vốn từ giao tiếp ít, nghèo nàn.
- Ở gia đình, bố mẹ bận rộn, không quan tâm, chú trọng đến việc phát
triển ngơn ngữ cho trẻ, trẻ nói trống khơng, câu  không đầy đủ chủ ngữ , vị ngữ.
Đa số phụ huynh đều bận cơng việc hoặc có những lý do khách quan nào  đó ít
có thời gian trị chuyện với trẻ và nghe trẻ nói.
VD: Trẻ chỉ cần chỉ, cần nhìn vào những gì mình thích thì được đáp ứng 
ngay mà không cần phải dùng lời để yêu cầu hoặc xin. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân trẻ ít nói
* Qua khảo sát thực của trẻ trong lớp tơi, kết quả đạt được trước khi thực hiện
sáng kiến kinh nghiệm như sau:

skkn


5

Nội dung


Số trẻ

Tỷ lệ
%

Trẻ phát âm chính xác từ ngữ, ít sử dụng ngôn ngữ địa 19/32
phương.
Trẻ mạnh dạn, tự tin.
18/32 
Trẻ nói đủ câu và câu có nghĩa
17/32

59.3% 

Trẻ đọc thơ rõ ràng, đúng ngữ pháp

18/32

56,2% 

Trẻ kể chuyện rõ ràng, đúng ngữ pháp

15/32 

46.8%

Khả năng nghe và hiểu ngôn ngữ

20/32


62.5%

56,2%
53,1%

2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
Trên đây là những căn cứ xác thực để tôi nghiên cứu và đưa ra  giải pháp
sau đây:
Phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động vui chơi;
Tạo môi trường học tập cho trẻ;
Xây dựng kế hoạch hợp với khả năng ngôn ngữ  của trẻ;
Phát triển ngôn ngữ qua hoạt động học;
Thông qua các hoạt động khác;
Phối kết hợp phụ huynh.
2.1. Giải pháp 1: . Phát triển ngơn ngữ qua hoạt động vui chơi:
Đây có thể coi là một trong những hình thức quan trọng nhất. Bởi giờ
chơi  có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hóa vốn
từ cho trẻ. Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ,
là thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong quá trình chơi trẻ được sử dụng
các loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung rất khác
nhau.
Đối với trẻ lứa tuổi này trẻ học mà chơi, chơi mà học, trong giờ vui chơi trẻ
được thực hành trải nghiệm nhiều vào vai chơi khác trong cuộc sống của con
người , tôi tiến hành lồng ghép ngôn ngữ vào vui chơi, qua đó trẻ được đối thoại
bằng những ngôn ngữ để giao tiếp với bạn chơi , muốn chơi tốt các vai thì vốn
từ giao tiếp của trẻ phải thật phong phú, đa dạng. Qua đó giúp trẻ hình thành
thói quen hành vi văn minh, trẻ mạnh dạn , thành thạo dần trong giao tiếp, ứng
xử, biết chào hỏi đối với mọi người xung quanh mình. Ngồi ra khi chơi, giáo
dục trẻ biết đoàn kết với bạn bè, khơng tranh dành đồ chơi với bạn.
Trong q trình chơi, trẻ được thực hiện nhiều hành động khác nhau với đồ chơi

như vậy trẻ phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và phát triển lời nói cho trẻ.

skkn


6

Ví dụ: Đức ơi! Con đang xếp gì? / Con xếp đồn tàu
Con xếp đồn tàu bằng những hình gì? (Hình vng, hình chữ nhật, hình trịn
ạ)
Như vậy trị chơi sáng tạo cũng góp phần phát triển ngơn ngữ cho trẻ.
Trong quá trình chơi trẻ bắt buộc phải giao tiếp với nhau do vậy vốn từ của trẻ
được phát triển ngày một phong phú.
Vídụ
Trị chơi bế  em, cơ nhập vai làm mẹ cho búp bê bú, cho búp bê ăn, búp bê  ngủ
trẻ sẽ bắt chước những lời cơ nói như : ” Con của mẹ ngoan q!”
Ngồi trị chơi, phản ánh sinh hoạt, trong giờ chơi, cô tổ chức cho trẻ chơi
những trò chơi học tập nhằm phát triển vốn từ cho trẻ.
Hoạt động vui chơi có tầm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ.
Thông qua trị chơi việc tiếp thu ngơn ngữ, cách trẻ học ngơn ngữ trở nên dễ
dàng, lí thú hơn rất nhiều. Bởi trò chơi là con đường tự nhiên nhất đưa đứa trẻ
đến với ngơn ngữ trong q trình giao tiếp. Trẻ khơng cảm thấy bị áp lực  khi
nói chuyện, trao đổi, thể hiện suy nghĩ tình cảm bằng lời nói. Trẻ học được cách
giao tiếp coa văn hóa với ngơn từ trong sáng, giàu hình ảnh phù hợp với lứa tuổi
của mình.
Đối với trẻ lứa tuổi này trẻ học mà chơi, chơi mà học, trong giờ vui chơi
trẻ được thực hành trải nghiệm nhiều vào vai chơi khác trong cuộc sống của con
người , tôi tiến hành lồng ghép ngơn ngữ vào vui chơi, qua đó trẻ được đối thoại
bằng những ngôn ngữ để giao tiếp với bạn chơi , muốn chơi tốt các vai thì vốn
từ giao tiếp của trẻ phải thật phong phú, đa dạng. Qua đó giúp trẻ hình thành

thói quen hành vi văn minh, trẻ mạnh dạn , thành thạo dần trong giao tiếp, ứng
xử, biết chào hỏi đối với mọi người xung quanh mình. Ngoài ra khi chơi, giáo
dục trẻ biết đoàn kết với bạn bè, khơng tranh dành đồ chơi với bạn.
Ví dụ:  Qua trò chơi “ Bán hàng”-“ Xây dựng “
Yêu cầu Trẻ (người mua hàng, và người bán hàng) phải nói đủ câu, đúng từ mới
tham gia vào trò chơi
+ Các bác mua mua gì ạ? + Bán cho tơi bó rau. Bó rau này bao nhiêu tiền ạ ?.
+ Bác đang xây gì đấy ? Chúng tơi đang xây vườn rau ạ…!

skkn


7

(Hình ảnh trẻ chơi hoạt động góc)
> Qua hoạt động dạo chơi ngồi trời:
Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát cây nhãn. Tôi đặt cái câu hỏi “ Đây là cây gì? Lá cây
nhãn có màu gì?.Nhưng những lần quan sát sau tơi đã tích cực lời nói của trẻ và
đưa ra các câu hỏi khác như “ Hoa gì có nhiều cánh”, “ Hoa gì có nhiều cánh
màu trắng”.. trẻ có thể vận dụng linh hoạt những kinh nghiệm trước và trả lời
câu hỏi mạch lạc, logic bằng vốn ngơn ngữ của bản thân.
> Qua các trị chơi dân gian:
Trị chơi dân gian khơng chỉ nâng cánh cho tâm hồn trẻ, giúp trẻ phát triển
khả năng tư duy sáng tạo, khéo léo mà cịn phát triển khả năng ngơn ngữ, những
bài đồng dao, bài vè sẽ giúp trẻ mở rộng vốn từ ngữ, khả năng đọc mạch lạc, lưu
loát và thể hiện được cường độ, sắc thái tình cảm của ngơn ngữ khi giao tiếp.
Ví dụ: Khi tổ chức chơi Trò chơi dân gian “ Dung dăng dung dẻ” trẻ không
những được chơi thoải mái sau giờ học căng thẳng, mà thông qua bài đồng dao “
Dung dăng dung dẻ” ngôn ngữ của trẻ được phát triển, trẻ vừa đọc bài đồng dao
vừa chơi.

2.2. Giải pháp 2: Tạo môi trường học tập cho trẻ:
 
Môi trường cho trẻ hoạt động là nơi cung cấp nguồn thơng tin phong phú,
khuyến khích tính độc lập và hoạt động tích cực của trẻ. Mơi trường giúp trẻ tìm
tịi, khám phá và phát hiện những điều mới lạ hấp dẫn trong cuộc sống, đồng

skkn


8

thời các kiến thức và kĩ năng của trẻ được củng cố và bổ sung. Một môi trường
đẹp, phong phú và phù hợp sẽ gây hứng thú cho trẻ, trẻ sẽ chú ý và ghi nhớ có
chủ định. Chính vì vậy cần tạo cho trẻ môi trường lớp học phong phú, sáng tạo. 
Môi trường học tập là yếu tố không thể thiếu trong q trình hình thành và
phát triển ngơn ngữ cho trẻ. Môi trường trong nhà trường theo phương châm lấy
trẻ làm trung tâm, để trẻ có thể tự mình khám phá, trải nghiệm, và giao tiếp với
bạn. Để từ đó trẻ có thế tự tin, mạnh dạn sử dụng những hiểu biết, khả năng
ngơn ngữ của mình để giao tiếp với bạn và giải quyết vấn đề. Trường, lớp học
an tồn, sạch sẽ, thống mát, đủ ánh sáng, đủ đồ dùng, đồ chơi phù hợp với lứa
tuổi …là những điều kiện thuận lợi giúp trẻ hoạt động. Thiết kế, bố trí tạo khơng
gian hợp lý ở các góc chơi, xây dựng nội dung chơi cụ thể ở các góc theo từng
chủ điểm, đặt tên góc sao cho dễ hiểu nhưng lại hấp dẫn như “ Siêu thị mini”…
Sau mỗi chủ điểm tơi thay đổi cách trang trí và hoạt động ở các góc để tạo cảm
giác mới lạ hấp dẫn trẻ. Ở mỗi góc cơ đều trang trí những hình ảnh gần gũi,
quen thuộc với trẻ có tính sáng tạo... tạo cơ hội cho trẻ hoạt động mọi lúc mọi
nơi.
 Về cơ sở vật chất không gian trong lớp học: Tơi ln tận dụng diện tích
phịng học, chú ý bố trí sắp xếp các đồ dùng, đồ chơi, tổ chức các hình thức học
tập để tạo mơi trường học tập tốt nhất và thoải mái cho trẻ. Chú ý đến các điều

kiện học tập cho trẻ: Như ánh sáng trong phịng học đủ độ sáng theo quy định,
khơng gian thoáng mát, thiết bị học tập, phương tiện giảng dạy, đồ dùng đồ chơi
đảm bảo đủ, an toàn tuyệt đối cho trẻ. Tận dụng nguyên vận liệu phế thải, sáng
tạo không gian đọc sách truyện, bàn ghế chỗ ngồi cho trẻ xem tranh truyện.
Ngồi ra, tơi cịn sưu tầm các sách văn học, họa báo, tạp chí, lịch cũ, nguyên liệu
cho trẻ tự làm sách để xây dựng “Góc thư viện xanh” mang nội dung văn học ở
ngoài lớp học để thay đổi khơng khí tránh nhàm chán khi ở trong lớp.
Về mơi trường ngồi lớp học: Nhằm tạo cơ hội tốt nhất cho trẻ được phát
triển ngôn ngữ qua hoạt động nghe, nói ở mọi lúc, mọi nơi, ngay từ đầu năm học
tơi đã tích cực tham mưu với ban giám hiệu nhà trường tận dụng khơng gian
ngồi lớp học xây dựng các góc thư viện xanh, thư viên cộng đồng dành cho trẻ,
dành cho phụ huynh học sinh; đầu tư trang thiết bị cho lớp như: mua nhiều
truyện tranh, tạp chí...

skkn


9

(Cho trẻ làm quen với sách truyện tại góc thư viện xanh)

(Tận dụng khơng gian ngồi lớp học xây dựng góc thư viện cộng đồng)

skkn


10

Giáo viên cần chuẩn bị môi trường cho trẻ hoạt động nhằm giúp ngôn 
ngữ của trẻ phát triển đạt kết quả cao. Mơi trường có phong phú, đa dạng và 

phù hợp thì mới gây được sự chú ý và thu hút đối với trẻ. Đây là một trong 
những nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện học 
sinh tích cực” mà Bộ Giáo Dục, Sở GD và ĐT, ngành Giáo Dục Mầm Non đã 
tiến hành triển khai. Xây dựng nên môi trường cho trẻ phát triển ngơn ngữ là 
một việc làm hữu ích và giúp nâng cao chất lượng của Chương trình GDMN, 
đáp ứng nhu cầu phát triển của trẻ theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung 
tâm. 
2.3. Giải pháp 3:  Xây dựng kế hoạch phù hợp với khả năng ngôn ngữ của
trẻ.
Trước khi xây dựng kế hoạch đầu năm tơi tìm hiểu khả năng ngơn ngữ
của từng trẻ ở trong lớp. Dựa vào tình hình của trẻ, trên cơ sở kế hoạch năm,
tháng của nhà trường, tôi đã xây dựng kế hoạch năm, tháng , tuần phù hợp với
đặc điểm nhóm lớp. Kết thúc từng chủ đề, tôi đánh giá lại những việc làm được
và chưa làm được, từ đó rút kinh nghiệm cho những chủ đề sau. Trong quá trình
xây dựng kế hoạch, tôi chú ý đến việc giáo dục trẻ về phát triển ngôn ngữ mạch
lạc, bồi dưỡng thêm cho trẻ đọc thơ, kể chuyện theo tranh vào các buổi chiều
hoặc mọi lúc mọi nơi. Lên kế hoạch trò chuyện với trẻ hàng ngày, chú ý quan
tâm nội dung của các buổi trị chuyện đó.
Ví dụ: Qua bài thơ “Cây bắp cải ” Cô muốn cung cấp cho trẻ từ ” Sắp vịng
quanh”
Cơ có thể cho trẻ quan sát vật thật. Cho trẻ được xem,được sờ… các lá bắp  cải
sắp vòng quanh như thế nào?Cơ vừa giải thích vừa chỉ cho trẻ xem và cho trẻ
cùng làm động tác mô phỏng các là được xếp vòng quanh với nhau tạo thành
cây bắp cải xanh. Bên cạnh đó cơ cũng chuẩn bị một hệ thống câu hỏi:
+ Cơ vừa đọc cho chúng mình nghe bài thơ gì? Bắp cải xanh
+ Cây bắp cải trong bài thơ được tác giả miêu tả đẹp như thế nào ? ( Xanh  man
mát
)
+  Lá bắp cải trong bài thơ được tác giả miêu tả như thế nào ? ( Sắp vịng quanh)
Trong những giờ đón - trả trẻ: Tơi trị chuyện với trẻ về nội dung đã học trong

tuần phù hợp với chủ đề. 
Khi thực hiện kế hoạch tơi ln bám sát chương trình dạy, nhằm theo dõi
rèn luyện những trẻ cá biệt. Đặc biệt chú ý rèn cho những trẻ thiếu mạnh dạn, tự
tin trong giao tiếp, trẻ nói ngọng , nói lắp,…
2.4. Giải pháp 4: Phát triển ngôn ngữ qua hoat động học.
Phát triển vốn từ cho trẻ ở trường Mầm Non là công tác giáo dục có kế 
hoạch, có mục đích, có tổ chức và phải mang tính hệ thống nhằm phát triển ngơn

skkn


11

ngữ cho trẻ như một phương tiện giao tiếp quan trọng vì thế chúng ta phải dạy
cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi, trên những tiết học cụ thể, trong đó phát triển ngơn
ngữ, vốn từ phải được đặt lên vị trí hàng đầu. Thơng qua giờ nhận biết tập nói:
Đây là mơn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp  từ
vựng cho trẻ
Trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng tuồi đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa  hồn
chỉnh, vì vậy trẻ thường nói một từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong tiết học
cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ.
Bên cạnh đó cơ cũng phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng , ngắn gọn,
trong khi trẻ trả lời cơ hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu, khơng nói câu cụt lủn
hoặc cộc lốc
Ví dụ; Trong bài nhận biết quả dứa, quả cam, quả đu đủ ” Cô muốn cung cấp từ
“ Mắt dứa” cho trẻ   Cô phải chuẩn bị đầy đủ các loại quả thật, để trẻ sử dụng
các giác quan: sờ, nhìn, nếm, ngửi,… nhằm phát huy được tính tích cực của tư
duy, rèn khả năng ghi nhớ.
Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát, cô cần đưa ra một hệ
thống câu hỏi:

Đây là quả gì? Đây là quả dứa ạ
Quả dứa có màu gì? Màu vàng ạ
Như vậy nhờ có sự giao tiếp giữa cô và trẻ đã giúp trẻ phát huy được tính  tích
cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ, phát triển năng lực quan sát, phát triển các
giác quan, kích thích lịng ham hiểu biết tìm tịi khám phá về những điều bí ẩn
của các sự vật xung quanh.Qua đó củng cố, mở rộng vốn hiểu biết, làm giầu vốn
từ cho trẻ
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các tiết học đã giúp khả năng ngôn
ngữ ở lớp tôi tăng lên rõ rệt, trẻ biết sử dụng ngôn ngữ trẻ trả lời các câu hỏi của
cơ, vận dụng linh hoạt vào trị chơi.
+ Đối với hoạt động âm nhạc: Âm nhạc có tác động lớn đến thế giới nội tâm của
con người. Hoạt động âm nhạc vừa giúp trẻ rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ, vừa
giúp trẻ tương tác với nhau. Chính vì thế, trong giờ hoạt động âm nhạc tơi ln
khuyến khích trẻ biểu diễn vừa giúp trẻ phát triển ngôn ngữ vừa giúp trẻ mạnh
dạn tự tin.

skkn


12

Trẻ mạnh dạn, tự tin biểu diễn văn nghệ cuối chủ đề
+ Đối với hoạt động kể chuyện và thơ: Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ
thuật, cần giúp trẻ nhận biết các mối quan hệ giữa hoàn cảnh, trạng thái, tình
huống và nhân vật; giữa lời kể, lời thuật, lời bạch trữ tình và ngơn ngữ nhân vật;
giữa khơng khí, âm sắc, giọng điệu chung của tác phẩm văn học. Trẻ được nghe
nhiều lần, được đọc thơ theo cá nhân, theo nhóm, luyện tập cho trẻ cách đọc thơ
diễn cảm. Giáo viên cần giới thiệu cho trẻ biết tên bài thơ, tác giả của bài thơ
hay câu chuyện, cách thức đọc thơ, ngữ điệu ngắt nghỉ như thế nào, âm sắc khi
trầm, khi bổng như thế nào là phù hợp.

Đặc biệt một số trẻ phát âm chưa rõ ràng, cịn nói lắp, nói ngọng, vốn từ
cịn nghèo nàn, chủ yếu là phát âm theo cô, sự sáng tạo ra các tác phẩm chưa có.
Để bồi dưỡng khả năng đọc thơ, kể chuyện của trẻ chúng ta cần tạo mơi trường,
cơ hội cho trẻ tri giác, tìm kiếm, khám phá thế giới xung quanh; rèn luyện phát
âm chuẩn, chính xác, khả năng tư duy sáng tạo cho trẻ. 
Tơi đã tăng cường cho trẻ luyện tập các kĩ năng nói, phát âm rõ trịn vành;
giọng đọc, giọng kể rõ ràng, mạch lạc, tự tin; cử chỉ, âm sắc, nét mặt, điệu bộ
phù hợp. Tập cho trẻ biết tự điều chỉnh nhịp độ, cường độ, giọng đọc, giọng kể
phù hợp với nhân vật, hoàn cảnh.
Như chúng ta đã biết, ở lứa tuổi này thì hoạt động vui chơi là chủ
đạo. Việc thay đổi hình thức kể chuyện và đọc thơ là rất cần thiết. Vì vậy, tơi
ln thiết kế giờ dạy một cách hợp lý, linh hoạt, sáng tạo và thu hút trẻ nghe kể
chuyện, đọc thơ mang lại hiệu quả.

skkn


13

Trẻ lắng nghe cô kể chuyện một cách hứng thú
Khi dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện diễn cảm, tôi sử dụng rất nhiều phương
pháp và hình thức tổ chức học tập khác nhau như: Dạy trẻ học cách đọc, cách kể
từ cô, bắt chước theo cô; dạy trẻ học từ bạn bè; học bắt chước theo băng đĩa kết
hợp với tranh ảnh đồ dùng trực quan; dạy trẻ tự sáng tạo theo cách riêng của
mình. Để gây hứng thú giúp trẻ nhanh chóng hiểu nội dung truyện, nhớ truyện,
thuộc truyện và đọc kể diễn cảm, kể chuyện sáng tạo, tôi thay đổi các hình thức
tổ chức hoạt động. Mỗi câu chuyện, bài thơ tôi lại thiết kế một cách khác để phát
huy tính tị mị, ham hiểu biết thế giới xung quanh của trẻ, giúp trẻ hứng thu
trong hoạt động đọc thơ, kể chuyện diễn cảm.
Đây là hoạt động mà làm tăng khả năng ngôn ngữ mạch lạc của trẻ. Do

vậy khi tổ chức hoạt động này, tôi xây dựng các câu hỏi đàm thoại có hệ thống,
từ cụ thể đến khái quát hoặc từ khái quát đến cụ thể để nhằm giúp trẻ trình bày
sự hiểu biết của mình và trẻ biết định hướng khi trả lời,
Bên cạnh , tôi chú ý quan sát khả năng diễn đạt của trẻ, đồng thời tập cho trẻ nói
trọn câu, nói rõ từ, những từ mà trẻ chưa nói được tơi cho trẻ nhắc lại, có thể tơi
đọc trước cho trẻ nghe sau đó cho trẻ đọc theo.
2.5. Giải pháp 5: Thơng qua các hoạt động khác:

skkn


14

Cung cấp vốn từ cho trẻ thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày.
* Trong giờ ăn:
Trẻ tiếp nhận được số lượng những từ ngữ mới góp phần làm giầu vốn từ cho
trẻ.
Ví dụ :Cơ giới thiệu món ăn, hỏi trẻ những chất dinh dưỡng có trong thức ăn.
Cơ  mời cả lớp ăn cơm. Trẻ mời lại.
* Trong giờ ngủ: Cô hát những ca khúc thân thương để hiểu những quy tắc trong
giờ ngủ.
Ví dụ: Cơ hát bài ” Giờ đi ngủ” Khi lắng nghe cơ hát thì trẻ nằm đúng tư thế,
khơng nói chuyện, khơng nằm sấp.
* Dạo chơi thăm quan: là loại tiết học đặc biệt nhằm phát triển vốn từ cho 
trẻ.Trong giờ dạo chơi, thăm quan, trẻ được trực tiếp quan sát các sự vật hiện
tượng phong phú của cuộc sống.Mục đích của dạo chơi, tham quan là mở rộng
tầm hiểu biết cho trẻ, trên cơ sở đó cung cấp, củng cố một số lượng lớn vốn từ
cho trẻ.
Để dạo chơi, thàm quan có hiệu quả, cơ giáo cần phải chuẩn bị tốt nội dung cho
trẻ quan sát, những từ, câu cần dạy trẻ. Những câu hỏi yêu cầu trẻ trả lời, những

phương pháp, biện pháp cần tích cực hóa ngơn ngữ cho trẻ.
Cơ phải chọn được vị trí để con gà trống cho mọi trẻ đều quan sát được.
Bên cạnh đó cơ cũng cần chuẩn bị một số hệ thống câu hỏi như:
+ Đây là con gì ?
+ Các con nhìn thấy con gà trống đang làm gì?
+ Con gà trống đang ăn gì đấy?
+ Con gà trống có dáng đi như thế nào?
Thường sau một thời gian đi thăm quan về, cô tổ chức đàm thoại về nội dung
thăm quan nhằm củng cố kiến thức thu được trong buổi thăm quan,củng cố và
tích cực hóa vốn từ cho trẻ.
Bên cạnh đó cơ ln sửa sai câu nói của trẻ ở mọi lúc mọi nơi đề giúp trẻ có một
nguồn vốn từ phong phú, đa dạng.
2.6. Giải pháp 6:  Phối hợp với phụ huynh:
Để vốn từ của trẻ phát triển tốt điều không thể thiếu được đó là nhờ sự 
đóng góp của gia đình .Cơ thường xun gặp gỡ nói chuyện về tình hình hoạt
động của trẻ trong  lớp qua đó phụ huynh nắm bắt được các nội dung chương
trình giáo dục hiện hành đồng thời hàng ngày cô cũng trao đổi với phụ huynh
về  ý nghĩa của việc phát triển vốn từ cho trẻ. Đề phối hợp cùng giáo viên trong
việc phát triển vốn từ cho trẻ thì phụ huynh hàng ngày dành thời gian thường
xuyên trò chuyện cùng trẻ cho trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với các sự vật hiện
tượng xung quanh, lắng nnghe và trả lời các câu hỏi của trẻ. Cụ thể, qua những
lúc đón trẻ , trả trẻ, những buổi họp phụ huynh đầu năm, họp cuối năm, tôi luôn

skkn


15

trao đổi với phụ huynh về tầm quan trọng của việc phát triển ngơn ngữ mạch lạc
cho trẻ. Nếu có điều kiện tôi sẽ mời phụ huynh tham gia dự giờ, động viên phụ

huynh cố gắng dành thời gian để tâm sự với trẻ và lắng nghe trẻ nói, khi trị
chuyện với trẻ phải nói rõ ràng mạch lạc, tốc độ vừa phải để trẻ nghe cho rõ, cha
mẹ người thân phải cố gắng phát âm đúng cho trẻ bắt chước. Tuyên truyền để
ông bà, bố mẹ, người thân của trẻ thường xuyên đọc thơ, kể chuyện cho trẻ nghe
hàng ngày, dành thời gian kể chuyện, đọc truyện, đọc thơ cho trẻ nghe trước khi
đi ngủ, lắng nghe trò chuyện, giải thích với trẻ những từ, những điều trẻ cịn thắc
mắc, chưa hiểu rõ để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc, trôi chạy, bổ sung
vốn từ cho trẻ. Từ đó nhận ra sự phát triển ngơn ngữ, tình cảm cũng như khả
năng nhận thức của trẻ Khuyến khích phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống
cho trẻ. Tránh , hạn chế khơng nói tiếng địa phương, cần tránh cho trẻ nghe
những hình thức ngơn ngữ khơng chính xác.
Vận động phụ huynh sưu tầm thêm tranh ảnh, tạp chí, rất nhiều mẫu
chuyện, bài thơ , đồng dao, ca dao hay, mới lạ trong các chủ đề. Các nguyên vật
liệu như len, vải vụn, xốp, nguyên vật liệu phế thải như bìa cứng, lịch củ, tạp
chí, lon bia, chai nhựa để tơi có thể làm rối, đồ đùng, đồ chơi phục vụ cho trẻ.
III.  Hiệu quả do sáng kiến đem lại:
1. Hiệu quả kinh tế:
Tôi nhận thấy việc rèn luyện và phát triển vốn từ cho trẻ là cả quá trình liên tục
và có hệ thống địi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bì, khắc phục khó khăn để tìm
ra phương tiện, điều kiên cần thiết cho sự phát triển tồn diện của các cháu, hơn
nữa cơ giáo là người gương mẫu để trẻ noi theo, Giáo viên luôn tạo khơng khí
vui tươi, thoải mái cho trẻ, động viên trẻ đi học đều, tạo điều kiện quan tâm đến
những trẻ nhút nhát,dành thời gian gần gũi,  trị chuyện vói trẻ để trẻ mạnh dạn,
tự tin tham gia các hoạt động tập thể giúp trẻ dược giao tiếp nhiều hơn đồng thời
bản thân tôi luôn nhận được sự quan tâm giúp đở của tập thể sư phạm nhà
trường, sự khích lệ động viên của Ban giám hiệu và đặc biệt là sự quan tâm ủng
hộ của các bậc phụ huynh. Phụ huynh tích cực phối hợp cùng với cơ giáo trong
việc phát triển ngơn ngữ cho trẻ, giảm chi phí mua đồ dùng đồ chơi bằng cách:
sưu tầm thêm tranh ảnh, tạp chí, rất nhiều mẫu chuyện, bài thơ , đồng dao, ca
dao hay, mới lạ trong các chủ đề. Các nguyên vật liệu như len, vải vụn, xốp,

nguyên vật liệu phế thải như bìa cứng, lịch cũ, tạp chí, lon bia, chai nhựa để tơi
có thể làm rối, đồ đùng, đồ chơi phục vụ cho trẻ. Bên cạnh đó làm phong phú đồ
dùng, đồ chơi trong lớp học.
2. Hiệu quả về mặt xã hội:

skkn


16

+  Đối với trẻ: Trải qua quá trình thực hiện bền bỉ, liên tục, trẻ lớp tơi đã có
những chuyển  biến rõ rệt, phần lớn số trẻ trong lớp đã có một số vốn từ rất khá,
các cháu nói năng mạch lạc, rõ ràng, biết cách diễn đạt ý muốn của mình, mạnh
dạn, tự tin hơn trong giao tiếp, vốn từ của trẻ đã phong phú hơn rất nhiều so với
kết quả đầu năm tơi đã khảo
 Bên cạnh đó ở lớp tơi có một số cháu đã sử dụng vốn từ các cơ cung cấp
+ Trong giờ hoạt động ngồi trời, cô cho trẻ quan sát vườn hoa, nhiều cháu đã
phát hiện ra bơng hoa hồng nhung có cánh hoa ” sắp vòng quanh”. Cách hiểu
của các cháu tuy còn nhiều hạn chế nhưng cháu đã biết sử dụng từ ” Sắp vòng
quanh” trong giờ văn học để ứng dụng vào cuộc sống hàng ngày..
Trẻ hứng thú, mạnh dạn tự tin tham gia vào các hoạt động. Trẻ nói đúng câu,
đúng ngữ pháp, vốn từ được mở rộng, và thể hiện được thái độ, cử chỉ trong lời
nói khi giao tiếp.
- Kết quả trên trẻ:
Nội dung
Số trẻ Tỷ lệ
%
Trẻ phát âm chính xác từ ngữ, ít sử dụng ngơn ngữ địa 25/32 78 % 
phương.
Trẻ mạnh dạn, tự tin.

26/32  81 %
Trẻ nói đủ câu và câu có nghĩa

23/32

71.8 %

Trẻ đọc thơ rõ ràng, đúng ngữ pháp

25/32

78% 

Trẻ kể chuyện rõ ràng, đúng ngữ pháp

20/32 

62.5%

Khả năng nghe và hiểu ngôn ngữ

26/32
81%
+ Đối với phụ huynh: Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, tôi
thấy phụ huynh rất phấn khởi khi thấy con mình đã tiến bộ hơn rất nhiều, vốn từ
của trẻ phong phú hơn, trẻ thích được nghe kể chuyện, thuộc nhiều bài thơ ca
dao, đồng dao; trẻ mạnh dạn trong giao tiếp, nói rõ ràng khơng ngọng lắp, đọc
to, diễn cảm…
Đa số phụ huynh đã hiểu được ý nghĩa của việc phát huy ngôn ngữ mạch
lạc cho trẻ. Đồng thời phụ huynh cũng đã cùng phối hợp với cô giáo ở lớp để rèn

thêm ngôn ngữ cho trẻ ở nhà. Ngồi ra phụ huynh cịn hưởng ứng tích cực trong
việc làm đồ dùng và sưu tầm tranh ảnh phù hợp với chủ đề, góp phần phát triển
ngơn ngữ mạch lạc cho trẻ giúp trẻ hứng thú .
+ Đối với giáo viên: Giáo viên linh hoạt, sáng tạo khơng bị gị bó khi tổ
chức các hoạt động cho trẻ nhất là hoạt động chung có mục đích học tập và hoạt
động góc. Bản thân cũng đã biết lập kế hoạch thực hiện phù hợp với độ tuổi
mình phụ trách, nắm vững được đặc điểm tâm lý, đặc điểm ngôn ngữ của từng

skkn


17

trẻ để từ đó đưa ra những biện pháp giáo dục ngơn ngữ mạch lạc cho trẻ thích
hợp hơn.
Với sáng kiến kinh nghiệm đã thực hiện và kết quả nêu trên bản thân tôi
tự rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
 Ngay từ đầu năm học người giáo viên phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý
của trẻ để có những phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ ngay từ đầu một cách
hợp lý.
Thường xuyên luyện giọng đọc, giọng kể diễn cảm, thể hiện được nét mặt,
cử chỉ, điệu bộ của các nhân vật trong truyện.
Tích cực ứng dụng cơng nghệ thông tin vào giảng dạy.
Tham mưu tốt với phụ huynh hỗ trợ thêm một số tranh truyện, sách báo...
Biết tích hợp lồng ghép nhẹ nhàng chuyên đề vào các hoạt động ở mọi lúc,
mọi nơi.
Bản thân luôn tự học hỏi để nâng cao trình độ chun đề thơng qua dự giờ
đồng nghiệp và việc tiếp thu chuyên đề do nhà trường tổ chức.
Tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động tập thể mang tính nghệ thuật: ngày
hội, ngày lễ, hoạt động sân khấu…

3. Khả năng áp dụng và nhân rộng:
             Với kết quả nghiên cứu được đánh giá tương đối chính xác, sát và phù
hợp với thực tiễn, tâm lý của trẻ. Theo đánh giá chủ quan của cá nhân tôi, đề tài
này không chỉ vận dụng cho việc dạy dỗ và giáo dục trẻ lứa tuổi  24-36 tháng
tuổi mà cịn có thể áp dụng cho mọi lứa tuổi trẻ ở trong các trường Mầm Non.
IV.Cam kết không sao chép vi phạm bản quyền
Tôi xin cam đoan nội dung báo cao sáng kiến trên không sao chép
 
Mặc dù đã được những kết quả đáng kể trên nhưng bản thân tơi vẫn
khơng ngừng bồi dưỡng chun mơn cho mình và tiếp tục phát huy những gì đã
đạt được, đã làm được, những gì cịn tồn tại thì cần phải khắc phục để chất
lượng giáo dục trong trường ngày càng tốt hơn.
Trên đây là một số biện pháp của tôi trong việc tổ chức“ Một số biện
pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi ”. Rất mong được sự
đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo để bản sáng kiến
của tôi đạt kết quả cao.
Xin chân thành cảm ơn!
     Nghĩa Lợi, ngày 07 tháng 4 năm 2021
                                                                         TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
  
                                                            
                                                                     
Phạm Thị Oanh

skkn


18

CƠ QUAN ĐƠN VỊ

ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
(Xác nhận, đánh giá, xếp loại)
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

PHÒNG GD & ĐT HUYỆN NGHĨA HƯNG
(Xác nhận, đánh giá, xếp loại)
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………

skkn


19

skkn



×