Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Skkn một số giải pháp nâng cao năng lực phản biện cho học sinh qua dạy học văn bản lão hạc – ngữ văn 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.66 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ TĨNH
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TX. KỲ ANH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC PHẢN BIỆN CHO HỌC SINH
QUA DẠY HỌC VĂN BẢN LÃO HẠC – NGỮ VĂN 8

Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền
Chức vụ: Giáo Viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Kỳ Phương
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ Văn

Năm học 2021-2022

MỤC LỤC
0

skkn


Mục
A
I
II
III
IV
V
VI
B
I
1


2
II
1
2
III
1
2
3
4
IV
C
I
II

Nội dung
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Giả thiết khoa học của đề tài
Phương pháp nghiên cứu
Những đóng góp mới của đề tài
NỘI DUNG
Cơ sở lí luận
Phản biện và năng lực phản biện
Ý nghĩa của rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh
Cơ sở thực tiễn
Thuận lợi
Khó khăn
Các giải pháp

Tạo tâm thế nhập cuộc bằng tình huống phản biện ngay từ phần
“khởi động”
Sử dụng câu hỏi kích thích tư duy phản biện cho phần hình
thành kiến thức.
Phát huy vai trị nhóm trong phản biện
 Xây dựng hệ thống bài tập củng cố, đề kiểm tra theo định
hướng phát triển năng lực phản biện.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Kết luận
Đề xuất
Tài liệu tham khảo

Trang
3
3
4
4
4
4
5
6
6
6
7
7
7
8
9
9

10
16
17
19
20
20
20
21

A. MỞ ĐẦU
1

skkn


I. Lí do chọn đề tài  
Hiện nay, các nước tiến bộ trên thế giới đều chú trọng xây dựng một nền
giáo dục thực sự dân chủ, đào tạo những con người tồn diện, năng động, sáng tạo,
chủ động, tự tin, có khả năng nhạy bén, linh hoạt ứng biến và thuyết phục
người khác bằng khả năng tư duy và lập luận của mình. Vậy nên việc rèn luyện và
phát huy khả năng tư duy phản biện của học sinh cần thiết hơn bao giờ hết. Trang
bị cho thế hệ trẻ tư duy phản biện cũng có nghĩa là trang bị cho các em khát vọng
đổi mới và khát vọng thành công hơn trong cuộc sống .
Để đáp ứng xu thế hội nhập quốc tế, nền giáo dục Việt Nam những năm gần
đây cũng đã chú trọng tới vấn đề này. Tại Thông tư số 13/2012/TT- BGDĐT, ngày
06/4/2012, chương II, điều 7, mục 2c có viết: “Hướng dẫn học sinh học tập tích
cực, chủ động, sáng tạo và biết phản biện”. Việc đổi mới kiểm tra đánh giá theo
dạng đề mở cũng đã minh chứng rằng, giáo dục của chúng ta đang hướng tới phát
triển kĩ năng phản biện cho học sinh. 
Môn Văn là môn học đặc thù, vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Việc cảm

nhận và đánh giá một vấn đề văn học cũng thay đổi theo thời gian và thị hiếu của
mỗi người, mỗi thời đại. Có những vấn đề hơm nay là đúng nhưng ngày sau chưa
hẳn thế. Có những vấn đề ngày trước bị phê phán kịch liệt nhưng ngày nay người
ta lại đồng tình, đồng cảm. Một vấn đề có thể có nhiều cách hiểu, gây tranh cãi
nhiều thập kỉ mà không tìm ra chân lí . Hơn thế, văn học cũng tn thủ theo quy tắc
riêng của nó. Khơng phải những tác phẩm ra đời sau có thể phủ nhận hoặc đem lại
nhiều giá trị mới mẻ hơn những tác phẩm ra đời trước. Thực tế, người đọc sẽ ln
tìm thấy những giá trị mới mẻ của một tác phẩm văn học (dù là cũ hay mới) nếu họ
có một cách nhìn mới, một điểm nhìn mới. Đó cũng là ngun tắc giúp một tác
phẩm văn học hấp dẫn và bất tử trong lịng bạn đọc mn đời. Vì vậy, trong học
văn, rất cần có cái nhìn mới, cách cảm mới để tìm ra những giá trị mới. HS như
những bạn đọc sáng tạo, bằng tư duy và khả năng lập luận của mình, sẽ đưa ra
được chân lí mới mẻ cho vấn đề. Đây chính là lợi thế để rèn luyện năng lực phản
biện của học sinh trong các giờ đọc hiểu văn bản văn học ở trường THCS.
Nhưng lâu nay, chúng ta vẫn đang dạy học Văn một chiều. Nghĩa là vẫn 
“bắt” học sinh cảm nhận theo cách chúng ta đã hiểu. Trước những lí lẽ mới lạ,
chúng ta vội vàng
phủ nhận hoặc nặng nề hơn là “kết tội” học sinh. Chính điều đó khiến cho mơn
Ngữ Văn ngày càng trở nên nhạt nhẽo trong tâm hồn các em. Và quan trọng hơn là
chúng ta khơng kích thích được nhu cầu tự bộc lộ mình, khơng phát triển được
năng lực tư duy phản biện cần có của học sinh hiện nay. 
Vì những lí do trên nên chúng tơi lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao
năng lực phản biện cho học sinh qua dạy học văn bản Lão Hạc – Ngữ văn 8”. Phát
2

skkn


huy năng lực phản biện cho học sinh qua giờ đọc hiểu văn bản văn học không phải
là vấn đề bây giờ mới được bàn đến song hi vọng với cái nhìn và phạm vi ứng

dụng cụ thể cho bài học về văn bản “Lão Hạc”, tôi sẽ giúp giáo viên và học sinh
đáp ứng những đòi hỏi thiết thực của giáo dục hiện nay.
II. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Đề tài nhằm tìm cách phát huy tối đa năng lực phản biện của người dạy và
người học trong các giờ đọc hiểu văn bản văn học. Đồng thời tạo ra được một
khơng khí dạy học dân chủ, thoải mái, góp phần làm nên sức hấp dẫn cho việc
chiếm lĩnh tri thức văn học trong trường phổ thông.
Để thực hiện được mục đích đó nhiệm vụ của người giáo viên là phải xác
định được cơ sở lý luận về năng lực phản biện và ý nghĩa của rèn luyện năng lực
phản biện cho học sinh. Tìm hiểu thực trạng về năng lực phản biện của học sinh
thông qua các giờ đọc hiểu văn bản trong chương trình ngữ văn 8. Bên cạnh đó
người giáo viên cần phải tổ chức thực nghiệm khoa học về tình hình hứng thú học
tập và kết luận khoa học. Đây là nhiệm vụ cũng là thách thức mà mỗi người giáo
viên cần cố gắng thực hiện mỗi khi lên lớp.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: là học sinh lớp 8C, 8D trường THCS chúng tôi
- Phạm vi nghiên cứu: các văn bản truyện trong chương trình ngữ văn 8. Đặc
biệt các tiết dạy văn bản truyện ngắn “Lão Hạc” của nhà văn Nam Cao.
IV. Giả thiết khoa học của đề tài
Thiết nghĩ nếu đề tài được áp dụng rộng rãi thì chắc chắn sẽ tạo ra sự thay
đổi trong cách học tập môn ngữ văn, với việc đưa dạy học ngữ văn theo định
hướng năng lực sẽ phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình
thành và phát triển năng lực tự học. Học sinh tự mình hồn thành nhiệm vụ dưới sự
hướng dẫn của giáo viên, giáo viên là người tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành
các hoạt động như nhớ lại kiến thức cũ, phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo
kiến thức đã biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn. Tạo ra một
thế hệ học sinh tự tin, có khả năng thuyết trình, phát triển ngôn ngữ,…
V. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu chính
- Phương pháp thể nghiệm.

- Phương pháp khảo sát, thống kê.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
Ở đề tài này chúng tơi tiến hành theo các bước như sau:
Bước 1: Tiến hành khảo sát  năng lực phản biện và hứng thú học tập môn
Ngữ Văn của học sinh ở trường.
Bước 2: Dạy thể nghiệm theo hướng phát triển tư duy phản biện ở các lớp tôi
trực tiếp giảng dạy.
3

skkn


Bước 3: Khảo sát và lấy kết quả sau mỗi tiết học.
Bước 4: Đối chiếu kết quả và kết luận.
VI. Dự báo những đóng góp mới của đề tài
1. Đối với giáo viên:
Với đề tài “Một số giải pháp nâng cao năng lực phản biện cho học sinh qua
dạy học văn bản Lão Hạc – Ngữ văn 8” sẽ giúp giáo viên có thêm những kiến thức
sâu sắc về tác phẩm. Thơng qua nghiên cứu đề tài giáo viên có điều kiện tìm hiểu
rõ hơn về đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho
học sinh. Từ đó trau rồi khả năng tự học, bồi dưỡng chun mơn.
Thơng qua đề tài giáo viên có thêm các phương pháp có thể làm cho bài dạy
ngữ văn thêm phong phú, sinh động, hấp dẫn và lôi cuốn được học sinh tham gia
tìm hiểu, giúp những học văn khơng còn nhàm chán nữa.
2. Đối với học sinh:
Học sinh hứng thú hợp tác với giáo viên trong từng bài, thường xuyên chia
sẻ góp ý với các thành viên trong nhóm về những kiến thức và thơng tin có liên
quan tới chủ đề học. Rèn luyện năng lực phản biện còn giúp học sinh hồn thiện
thêm kĩ năng nói trước đám đơng, kĩ năng thu hút người nghe, kĩ năng trình bày
vấn đề khoa học... Đồng thời góp phần đào tạo những con người năng động, sáng

tạo, chủ động, tự tin, dám nghĩ, dám làm đáp ứng yêu cầu của cuộc sống hiện đại.

B.NỘI DUNG

4

skkn


  
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Phản biện và năng lực phản biện
1.1. Phản biện
Phản biện (Opponency) là dùng lí lẽ và dẫn chứng để lập luận chống lại một
ý kiến, quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá, hành động, việc làm… nhằm thuyết
phục người nghe nhìn nhận, đánh giá vấn đề theo cách khác có sức thuyết phục
hơn, đúng hơn.
Phản biện được xây dựng trên tinh thần đối thoại, do đó, có tính tích cực và
xây dựng. Mục tiêu đầu tiên của phản biện không phải là bác bỏ (như biện bác) hay
đả kích (như chỉ trích) hay tìm khuyết điểm (như trong phê phán) hoặc cả khuyết
điểm lẫn ưu điểm (như trong phê bình). Mục tiêu chính của phản biện là đề xuất
một cách nhìn hay một góc nhìn khác để người bị phản biện phải cố gắng chứng
minh quan điểm của mình là đúng đắn nhất và để mọi người có thể cân nhắc lựa
chọn cái tối ưu. Đồng thời buộc đối tượng bị phản biện phải tăng cường sự thuyết
phục cho các quan điểm của họ. Họ phải chứng minh là họ đúng hơn.
1.2. Tư duy phản biện 
Tư duy phản biện hay là tư duy phân tích là một quá trình tư duy biện
chứng gồm phân tích và đánh giá một thơng tin đã có theo các cách nhìn khác cho
vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề.
Muốn có phản biện trước hết phải có tư duy phản biện. Tư duy phản biện thể

hiện tính tích cực của chủ thể.
Tư duy phản biện không đơn thuần chỉ là những ý kiến “phản biện” như tên
gọi. Những hoạt động trong quá trình tư duy phản biện thường bao gồm: nêu quan
điểm và bảo vệ quan điểm, sử dụng những bằng chứng phù hợp, tạo mối liên hệ
giữa các ý, đánh giá, phân tích, tổng hợp, phân loại, so sánh, chỉ ra khó khăn và
cách khắc phục. Một quá trình tư duy phản biện được coi là tốt khi đạt được những
tiêu chí: rõ ràng, mạch lạc, chính xác, thống nhất, ngắn gọn, phù hợp, có những giải
thích và lý do phù hợp, khách quan, tồn diện và có chiều sâu.
1.3. Năng lực phản biện 
Năng lực phản biện là năng lực nắm bắt, khai minh chân lý; chỉ ra các ngụy
biện/ ngụy tạo, cảnh báo các ngộ nhận, các nguy cơ (nếu có). Nó làm xuất hiện nhu
cầu phản tỉnh, thôi thúc nhận thức lại các đối tượng/ vấn đề trong chuyên môn hoặc
trong sách lược, chiến lược liên quan đến quốc kế, dân sinh, liên quan đến toàn xã
hội. Suy cho cùng, năng lực phản biện, chủ yếu là năng lực phát hiện những điểm
bất cập/ bất hợp lý, bất khả thi, bất khả dụng và cất lên tiếng nói cảnh báo có ý
nghĩa trên cơ sở lật trở vấn đề, quan sát đối tượng từ nhiều phía (nhất là phía
nghịch, mặt trái) để có thể nhận thức lại một cách đúng đắn hơn. Phản biện là hành

5

skkn


động thúc đẩy tái nhận thức, điều chỉnh thái độ, tái kiến tạo giải pháp cho thích
đáng, hiệu quả.
Từ năng lực phản biện sẽ giúp  học sinh hình thành tư duy phản biện. Tư duy
phản biện có tính chủ động, do đó khi  một người có tư duy phản biện họ sẽ tự nảy
ra câu hỏi, tự tìm các thơng tin liên quan, quan sát nhìn nhận, đánh giá vấn đề hơn
là học hỏi thụ động từ người khác. Như vậy việc rèn luyện tư duy phản biện sẽ kích
thích tính chủ động, sáng tạo của học sinh, tạo hứng thú mới cho họ trong quá trình

tìm kiếm, chiếm lĩnh tri thức.
2. Ý nghĩa của rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh
Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh là giúp học sinh vượt ra khỏi
cách suy nghĩ theo khn mẫu, thói quen, truyền thống có sẵn đã định hình từ bậc
TH, cố gắng tìm tịi những cái mới trong khoa học, thoát ra  những rào cản của lối
mịn tư duy, kích thích hứng thú học tập của học sinh các em.
Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh cũng chính là rèn luyện cho các
em khả năng tư duy độc lập, tích cực, chủ động, sáng tạo trong q trình tìm hiểu
kiến thức. Nó giúp các em tránh được tình trạng đồng thuận dễ dãi, hời hợt xi
chiều trong khoa học, ngăn chặn tình trạng học vẹt, đọc vẹt.
Rèn luyện năng lực phản biện giúp học sinh có ý thức rõ ràng hơn trong việc
lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác trong lúc tranh luận. Đồng thời đây cũng
là cơ hội học sinh cập nhật, chắt lọc được thơng tin cần thiết, có giá trị, bổ ích để
bù đắp những lỗ hổng kiến thức cho bản thân hoặc xác lập mục tiêu học tập mới.
Rèn luyện năng lực phản biện còn giúp học sinh hồn thiện thêm kĩ năng nói
trước đám đơng, kĩ năng thu hút người nghe, kĩ năng trình bày vấn đề khoa học...
Đồng thời góp phần đào tạo những con người năng động, sáng tạo, đáp ứng yêu
cầu của cuộc sống hiện đại.
Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh cịn giúp các giáo viên thu được
những thơng tin phản hồi hữu ích để điều chỉnh phương pháp dạy học của mình.
Thơng qua việc phản biện của trị, người dạy sẽ phân loại được đối tượng. Qua đó
có sự điều chỉnh dạy học phù hợp cho mỗi đối tượng khác nhau.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Thuận lợi
1.1. Về phía học sinh
Học sinh THCS ngày nay đã có sự phát triển khá tồn diện về trí tuệ. Các em
có cách nhìn nhận vấn đề khá mới mẻ, dù nhiều khi “hồn nhiên”, nhưng rất thú vị.
Trong quá trình giảng dạy Ngữ văn tại trường, tơi phát hiện học sinh của mình
cũng có khả năng tư duy độc lập, có nhu cầu bộc lộ mình và có ý thức bảo vệ quan
điểm của mình.

Chẳng hạn, trong giờ đọc – hiểu truyện “Cơ bé bán diêm”, khi được hỏi về
cái kết của truyện, tôi đã nhận được nhiều ý kiến khác nhau:
6

skkn


Có học sinh khẳng định: “Cái chết của em bé là một bi kịch đau lịng khơng
có hậu. Vì đó là một em bé hiền lành đáng thương với tuổi thơ đầy bất hạnh. Lẽ ra
em sẽ được mọi người yêu thương đùm bọc”. Em HS còn mạnh dạn đề xuất một kết
thúc khác:

Cũng có học sinh lại phản biện lại: “Cái chết của em bé là một kết thúc có
hậu. Vì cái chết giúp em thốt khỏi những bất hạnh, khơng cịn đói, rét, hay khổ
đau . Em được sống vui vẻ bình yên trong tình yêu thương của người bà”.
Nhưng cũng có học sinh lại kiên quyết: “Truyện kết thúc như vậy là hợp lý.
Mặc dù cái chết của em bé là một bi kịch nhưng cũng phần nào có hậu, có bi
nhưng khơng lụy. Em chết vì đói vì rét vì sự vơ cảm của người đời…nhưng đôi má
hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đang rất hạnh phúc và bình yên bên người bà
yêu dấu trên thiên đàng - ở đó chẳng cịn đói rét đau buồn nào đe dọa họ nữa. Đó
chính là tấm lịng nhân đạo mà tác giả giành cho cơ bé”.
Rõ ràng những ý kiến đó của học sinh cho thấy, các em ln có nhu cầu và
khả năng thể hiện quan điểm, cách nhìn nhận của mình về một vấn đề.
1.2. Về chương trình
Chương trình mơn Ngữ văn THCS được xây dựng trên tinh thần mở: phong
phú về nội dung, thể loại và kiểu bài học. Đặc biệt là sự bổ sung của kiểu bài Nghị
luận xã hội, kiểu bài khơng chỉ u cầu học sinh có kiến thức về xã hội mà cịn
phải có quan điểm, cách nhìn nhận đánh giá về vấn đề xã hội.
Tinh thần mở của chương trình cịn thể hiện ở việc đổi mới kiểm tra, đánh
giá của môn Ngữ văn. Học sinh được thoải mái bộc lộ quan điểm riêng của mình

mà khơng sợ “lệch” ý thầy cơ. Tiêu chí đúng, sai được thay thế bằng lập luận có
thuyết phục hay khơng. Đây chính là cơ hội để học sinh được phát huy khả năng
học tập, năng lực hiểu biết và lập luận của chính mình.
7

skkn


Đặt trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, mục tiêu đào tạo con người
toàn diện, năng động, sáng tạo trong cơng việc thì việc phát huy khả năng phản
biện của HS cần thiết hơn bao giờ hết. Trang bị cho thế hệ trẻ tư duy phản biện
cũng có nghĩa là trang bị cho các em khát vọng đổi mới và khát vọng thành cơng
trong cuộc sống.
2. Khó khăn
2.1. Về phía học sinh
Tuy nhiên, thực tế, việc học sinh chủ động và thường xuyên trình bày quan
điểm, suy nghĩ và nhận thức của mình cũng như bảo vệ quan điểm ý kiến của mình
là rất hạn chế và khơng phổ biến.
Qua quan sát trong các tiết dạy của bản thân và trao đổi với các đồng nghiệp,
tôi nhận thấy các em học sinh luôn luôn học tập theo cách chỉ tiếp thu những gì mà
giáo viên truyền thụ theo kiểu một chiều. Học sinh ít khi thắc mắc hoặc trình bày
chính kiến của mình trước những vấn đề mà giáo viên truyền thụ hay đặt ra.
Những nguyên nhân của tình trạng này có thể là do giáo viên ít có những câu
hỏi kích thích tư duy của người học, học sinh lười suy nghĩ, khơng động não vì
khơng có động cơ học tập rõ ràng, học sinh có thắc mắc, nêu ý kiến nhưng giáo
viên không giải đáp hoặc giải đáp không thỏa đáng, bài giảng của giáo viên chưa
phong phú hấp dẫn khiến cho học sinh khơng có hứng thú học tập...
2.2.Về phía giáo viên
Một bộ phận giáo viên Ngữ văn trường tôi hiện nay chưa sẵn sàng chấp nhận
học sinh phản biện. Một phần vì uy tín, danh dự, một phần vì năng lực chun mơn

hạn chế,…Thậm chí đã có giáo viên coi việc phản biện của học sinh là hành vi vô
lễ (cãi lại).
Hơn thế, lối dạy truyền thụ vẫn đang ăn sâu trong tâm lí của một bộ phận
không nhỏ giáo viên Ngữ văn trường tôi. Phần lớn thời gian của tiết học, giáo viên
thao thao thuyết giảng. Rất hay. Nghe rất hấp dẫn. Nhưng kết quả học sinh thu lại
chẳng đáng là bao so với những gì giáo viên nói.
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Tạo tâm thế nhập cuộc bằng tình huống phản biện ngay từ phần “khởi
động”
Tạo được tâm thế nhập cuộc là tạo được những tình huống sư phạm đặc thù
mà giáo viên thiết kế để khơi dậy trong học sinh hứng thú tiềm tàng và động cơ học
tập tích cực, khơi dậy khát khao  giao cảm với thế giới nghệ thuật, khơi dậy nhu
cầu giao tiếp và  đối thoại với nhà văn một cách tự nhiên, nhu cầu tự bộc lộ của bản
thân, và  năng lực sáng tạo trong quá  trình tiếp nhận.
Thơng thường các giáo viên sẽ có nhiều cách khởi động khác nhau để kéo
học sinh nhập cuộc. Phần khởi động càng hấp dẫn, mới mẻ, sáng tạo càng có khả
năng nhanh chóng xác định tâm thế sư phạm cho học sinh tập trung chú ý và có ý
8

skkn


thức huy động hứng thú cá nhân vào các bài học. Nếu trong phần mở đầu tạo nên
tình huống phản biện cho học sinh  thì nó sẽ vừa kích thích được sự tị mị vừa khơi
dậy tính hiếu thắng trong  tâm lí học sinh. Vì vậy các em sẽ thốt nhanh ra khỏi ức
chế ban đầu và tiếp nhận yêu cầu mới. Phần này tôi tổ chức tranh luận giữa học
sinh với học sinh, học sinh với giáo viên. Mỗi em sẽ có những ý kiến, quan điểm
đúng hoặc sai nhưng qua đó giáo viên cũng có thể thấy được sự hiểu biết, hứng thú
của mỗi em học sinh trong lớp đối với bài dạy. Giáo viên hướng dẫn cho các em
đọc trước bài ở nhà, tìm hiểu thêm về hồn cảnh nhân vật, tình huống truyện, số

phận, vẻ đẹp nhân cách của nhân vật trong bài, trong quá trình giảng dạy giáo viên
khuyến khích các em thể hiện quan điểm, lập trường của mình, bảo vệ ý kiến của
bản thân trước vấn đề giáo viên đưa ra.
Với tác phẩm Lão Hạc (Nam Cao), tơi đã đặt ra tình huống trong phần khởi
động như sau: Đầu tiên giáo viên yêu cầu các em quan sát các bức tranh về đời
sống của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng tám 1945 và rút ra
nhận xét. Sau khi một vài em nêu nhận xét của mình tơi tiếp tục đặt ra tình huống
thế này:
Cùng phải đối diện với những đau khổ bất hạnh của cuộc đời nhưng mỗi
nhân vật lại có cách ứng xử khác nhau: Cậu bé Hồng(Trong lịng mẹ - Nguyên
Hồng) mặc dù còn nhỏ tuổi lại thiếu thốn tình u thương, ln khao khát được
gặp mẹ nhưngcậu vẫn kiên quyết từ chối gặp mẹ khi người cô hỏi: “Hồng! Mày có
muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không?”. Chị Dậu (Tắt đèn – Ngô Tất Tố)
phải bán con để có tiền nộp sưu cho chồng và em chồng (đã chết). Hay cô bé bán
diêm trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Đan Mạch An-đéc-xen phải dò dẫm bán
diêm trong đêm giao thừa rét buốt. Em khơng dám về nhà vì sợ người cha nghiện
ngập đánh mắng để rồi chết cóng bên vệ đường. Lão Hạc (Lão Hạc – Nam Cao)
phải bán cậu Vàng – đứa con tinh thần của lão – để có tiền dành dụm cho con.
Theo em nhân vật nào khổ nhất?
Trước tình huống đặt ra, tơi ln khuyến khích HS thể hiện quan điểm suy
nghĩ của mình. Từ đó để đi đến kết luận: Để có được những kết luận đầy đủ và
chính xác, chúng ta đi vào khám phá tác phẩm Lão Hạc của nhà văn Nam Cao.
Với cách mở bài này, mặc dù mỗi em một ý kiến, một quan điểm, dù cách
giải thích chưa thực sự thấu đáo, song điều quan trọng là tôi đã tạo được cho các
em một khơng khí thoải mái để bắt đầu vào tiết học.
2. Sử dụng câu hỏi kích thích tư duy phản biện cho phần hình thành kiến
thức.
Tư duy phản biện có tính chủ động, do đó khi một người có tư duy phản biện
họ sẽ tự nảy ra câu hỏi, tự đi tìm các thơng tin liên quan, quan sát, nhìn nhận, đánh
giá vấn đề hơn là học hỏi thụ động từ người khác. Cách đặt câu hỏi để kích hoạt tư

duy phản biện cũng chính là khả năng kích hoạt, mở rộng tư duy, từ đó có thể vận
9

skkn


dụng các kiến thức vào việc giải thích, phân tích, đánh giá, tổng hợp và cuối cùng
là áp dụng.
Đối với học sinh phổ thông, việc chủ động đặt ra câu hỏi phản biện là rất hạn
chế, vì vậy, trong quá trình thiết kế bài dạy của giáo viên phải thiết kế được những
câu hỏi tình huống, những câu hỏi có vấn đề để thúc đẩy học sinh suy nghĩ theo lối
phản biện, khêu gợi trong học sinh sự mong muốn tìm hiểu sự thật và trình bày
quan điểm của mình.
Để có thể sử dụng câu hỏi kích hoạt tư duy phản biện, tôi đã tiến hành qua
các bước sau:
Bước 1. Xác định vấn đề phản biện
Để phát huy được năng lực phản biện của học sinh thì vấn đề đưa ra phản
biện phải thực sự hấp dẫn, mới mẻ, có tính phát hiện. Cụ thể:
- Những vấn đề đưa ra phản biện phải là những vấn đề gây tranh cãi, có
những ý kiến trái chiều, hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau.
- Những vấn đề đưa ra phản biện phải phát huy được khả năng huy động
kiến thức cũng như khả năng lập luận, lí giải, biện minh của học sinh.
Chẳng hạn, sau khi học xong văn bản “ Cô bé bán diêm” tơi đặt ra tình
huống. Nếu chẳng may rơi vào tình huống như cơ bé bán diêm em sẽ làm gì? Hoặc
khi dạy đến câu thơ thứ hai trong bài tức cảnh Pác Bó “Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn
sàng” tôi nêu ra hai ý kiến: Một là dù phải ăn uống kham khổ(cháo bẹ, rau măng)
nhưng tinh thần cách mạng vẫn sẵn sàng. Hai là những thức ăn đạm bạc như cháo
bẹ, rau măng lúc nào cũng sẵn có. Và đặt câu hỏi em cho rằng cách hiểu nào hợp
lý hơn? Vì sao? Hay như khi dạy bài thơ “đi đường” có 2 bạn tranh luận: đây là
bài thơ tức cảnh, tập trung miêu tả cảnh đi đường. Không, đây là bài thơ chủ yếu

thiên về triết lý, suy ngẫm…
Đối với văn bản “Lão Hạc” của Nam Cao, có rất nhiều vấn đề có thể sử dụng
kĩ năng phản biện, song tôi chủ yếu tập trung vào các vấn đề sau: Nhan đề của
truyện ngắn, tình huống lão Hạc bán chó và cái chết của Lão Hạc.
Bước 2. Thiết kế câu hỏi kích hoạt phản biện
Trong quá trình tư duy, câu hỏi kích hoạt phản biện rất quan trọng, có vai trị
thúc đẩy, kích thích suy nghĩ, khám phá theo những hướng rất riêng và cũng nhờ
đó thơi thúc chúng ta tìm câu trả lời bằng cách nghiên cứu, khám phá và mở rộng
tri thức. Vì vậy câu hỏi kích hoạt phản biện phải là những câu hỏi có vấn đề, kích
thích được khả năng tư duy, khơi gợi được hứng thú, sự mong muốn được tìm hiểu
của học sinh. Trong quá trình thiết kế câu hỏi phản biện cho bài dạy “Lão Hạc”
(Nam Cao), tôi đã chú ý sử dụng những dạng câu hỏi sau:
2.1.Câu hỏi phản biện mang tính phân tích
Những câu hỏi dạng này yêu cầu học sinh phải đọc kĩ văn bản, tìm tịi các
thơng tin có liên quan đến vấn đề và tiến hành phân tích từng khía cạnh của vấn đề.
10

skkn


Khi đó, học sinh sẽ có thể nhìn nhận một cách khách quan về bản chất và hiện
trạng của thông tin có được.
Trong dạng câu hỏi này chúng tơi đã đưa vào các từ khóa như: phân tích, so
sánh, tại sao, phân loại, nguyên nhân chính, mối quan hệ, phân biệt, đặc trưng, …
Dạng câu hỏi này tôi đã áp dụng khi phân tích ý nghĩa nhan đề và tình huống
truyện
* Nhan đề là một tín hiệu nghệ thuật quan trọng, là yếu tố đầu tiên của tác
phẩm mà người đọc được tiếp xúc, là một trong những yếu tố thể hiện tập trung cô
đọng nhất dụng ý nghệ thuật của tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm.
Để giúp học sinh nhìn nhận rõ được ý nghĩa nhan đề của truyện ngắn Lão

Hạc, tôi đã đặt vấn đề để kích thích tư duy phản biện của các em như sau:
Các nhà văn có rất nhiều cách đặt nhan đề cho tác phẩm của mình: Nhan đề
thường bộc lộ rõ cái nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư hoặc nhấn mạnh cảm xúc
nhân vật như “Những ngày thơ ấu”, có thể lấy câu tục ngữ thành ngữ để khái quát
chủ đề như “sống chết mặc bay” hay “tức nước vỡ bờ”. Có nhan đề hé mở một
phần nội dung câu chuyện như “đánh nhau với cối xay gió”, có thể đặt tên theo
hình tượng nghệ thuật như “chiếc lá cuối cùng”. Tại sao tác giả lại đặt tên cho
truyện ngắn là “Lão Hạc”? Nếu được đặt tên cho truyện ngắn này em sẽ đặt như
thế nào?
Với dạng câu hỏi này, HS biết cách trình bày quan điểm của mình theo tư
duy phân tích. Từ chỗ phân tích được ý nghĩa của nhan đề truyện ngắn các em có
thể tự nghĩ ra những nhan đề phù hợp.
Lão Hạc là nhân vật trung tâm của câu chuyện. Mọi tình tiết, sự kiện đều
xoay quanh số phận bi kịch của nhân vật này: bi kịch của một lão nông lương thiện
nhưng cô độc và bất hạnh: vợ chết, con trai duy nhất bỏ đi, tuổi già thui thủi bầu
bạn với Cậu Vàng nhưng rồi cũng phải bán, bi kịch vì già nua, ốm đau, mất mùa
đói kém...Rồi lão kết thúc tất cả tấn bi kịch đời mình bằng cái chết đau dớn dữ dội.
Đặt nhan đề “Lão Hạc”, mọi sự chú ý sẽ tập trung vào nhân vật hơn. Vì vậy chủ đề
của truyện sẽ sáng rõ hơn.
Từ đó, tơi kết luận: Nhan đề của một tác phẩm bao giờ cũng phải chở được
nội dung cơ bản nhất của tác phẩm, thể hiện được dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
Và “Lão Hạc” là một lựa chọn đúng đắn của nhà văn nhân tài Nam Cao.
* Tình huống nghệ thuật là một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất của
tác phẩm tự sự. Chi tiết trong tác phẩm tự sự có sức nặng như “nhãn tự” trong một
bài thơ tứ tuyệt. Vì vậy, khi phân tích tác phẩm tự sự theo đặc trưng thể loại, tìm
được những chi tiết đắt giá chúng ta đã có trong tay chìa khóa để mở ra thế giới
nghệ thuật của tác phẩm. Tuy nhiên, cảm nhận được ý nghĩa của chi tiết nghệ thuật
đòi hỏi HS khơng chỉ phát hiện ra chi tiết mà cịn phải có hứng thú với chi tiết đó,
có năng lực tìm hiểu, khám phá nó và cảm nhận được nó.
11


skkn


Khi hướng dẫn HS khám phá truyện ngắn “Lão Hạc”, trong tình huống Lão
Hạc bán chó, để phát huy năng lực phản biện của HS, sau khi phân tích diễn biến
tâm trạng của lão Hạc xung quanh việc bán chó. tôi đã hỏi HS như sau:
- “Lão Hạc” của Nam Cao là một truyện ngắn tiêu biểu trong cách xây
dựng tình thế. Nhà văn đã đặt lão Hạc vào những tình thế lựa chọn khá quyết liệt
trước khi đi đến quyết định dứt khốt. Tình thế đầu tiên là lão phải lựa chọn giữa
việc bán hay khơng bán“cậu Vàng”. Tình thế ấy khiến lão Hạc đau khổ, dày vò,
tâm trạng nặng trĩu nhưng lão vẫn quyết định bán. Theo em nguyên nhân quan
trọng nhất khiến lão phải bán chó là gì? Nếu em là lão Hạc em sẽ lựa chọn như thế
nào?
Và tơi đã nhận được phản hồi từ phía học sinh:
HS1: Quyết đinh bán Cậu Vàng khiến lão Hạc đau khổ, dày vị, tâm trạng
nặng trĩu. Đó là kỷ vật của cậu con trai để lại, hơn nữa có cậu Vàng làm bạn lão
vơi đi nỗi cô đơn tuổi già. Nhưng vì cậu Vàng làm lão “tốn kém” q. Nó ăn khỏe
hơn cả lão mỗi ngày hết hào rưỡi, hai hào lận. Lão Hạc già rồi làm không đủ ăn
chứ đừng nói ni chó. Nếu là em em cũng bán thơi.
HS2: Theo em nếu khơng vì trận bão phá sạch rau màu của lão cùng với
trận ốm khiến lão phải tiêu lạm vào tiền dành giụm thì khơng bao giờ lão bán chó.
Lão đã ni nó bao nhiêu năm với lại lão thương con chó thế cơ mà. Em thấy trên
ti vi có nhiều chú chó rất thơng minh và trung thành với chủ nên nếu là em thì thà
em đi ăn xin chứ khơng bán.
HS3: Có nhiều ngun nhân khiến lão phải bán chó nhưng theo em ngun
nhân chính là vì lão thương con, lão khơng muốn tiêu lạm vào tiền của con. Vì con
lão sẵn sàng chấp nhận cả cái chết chứ đừng nói phải bán chó. Em đồng tình với
lựa chọn của lão.
HS4: Em thấy từ khi vợ lão chết, con trai lão bỏ đi, lão dồn hết tình cảm của

mình cho con chó. Bây giờ lão ốm yếu không làm được cái ăn nên mới bán. Như
vậy chắc là vì lão thương con chó q , lão sợ nếu ni nó sẽ làm nó đói nên mới
bán. Nếu em mà thương con chó như thế thì em sẽ khơng bán mà em sẽ tìm cách
khác...
Như vậy mặc dù mỗi em có một sự lựa chọn khác nhau nhưng điều quan trọng là
các em dám nêu ra quan điểm của mình và đưa ra những lý lẽ để bảo vệ ý kiến đó.
Từ dó giáo viên hướng dẫn học sinh kết luận dù vì lí do gì đi nữa thì qua tình
huống này những phẩm chất tốt đẹp của lão Hạc được bộc lộ rõ nhất: một người
nông dân hiền lành chất phác, nhân hậu; một người cha hết mực yêu thương con,
âm thầm hi sinh vì con.
2.2. Câu hỏi phản biện mang tính đánh giá
Những câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải xây dựng các lập luận để bảo vệ
cho những quan điểm của mình trước những phê phán, chỉ trích. Các lập luận này
12

skkn


phải dựa trên các tiêu chí đánh giá rõ ràng, phù hợp với góc nhìn khách quan nhất.
Trong dạng câu hỏi này, có thể đưa vào các từ khóa như: đánh giá, kết luận, quan
điểm, quyết định, nhận thấy…
  Khi phân tích nhân vật Lão Hạc, tơi định hướng cho HS tìm hiểu về nguyên
nhân cái chết của nhân vật Lão Hạc. Về cơ bản, các em đề xuất mấy nguyên nhân:
do quá nghèo khổ, không muốn phiền lụy đến ai, do mất đi người bạn tâm sự là cậu
Vàng, do không muốn tiêu lạm vào tiền dành giụm cho con... Các em đã tập trung
phân tích khá kĩ những nguyên nhân trên.
Tuy nhiên một học sinh xin phép có ý kiến thêm rằng: “Theo em, Lão hạc
chết là do sự manh động và tiêu cực của lão”.
Và HS đã thuyết phục về quan điểm của mình như sau:
Thứ nhất lão có tiền bán chó và nếu bán mảnh vườn lão có thể sống cả đời

mà khơng cần phải lo lắng. Ai biết anh con trai lão có về hay khơng bởi người ta
thường nói “cao su đi dễ khó về…” vả lại lão chẳng từng tâm sự với ông giáo rằng
hơn một năm nay khơng có tin gì của anh con trai đó sao. Lão chết vì muốn để tiền
và mảnh vườn cho anh con trai nhưng lỡ anh con trai khơng về thì chẳng phải vơ
ích sao.
Thứ hai lão có thể cậy nhờ hàng xóm để sống qua ngày cơ mà, dân gian
chẳng đã từng nói "hàng xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau". Hơn thế, lão cịn
có một hàng xóm rất tốt bụng – ơng giáo thỉnh thoảng vẫn ngấm ngầm giúp lão
cịn gì.
Hoặc nếu cùng đường lão cũng có thể theo gót Binh Tư để có cái ăn. Thậm
chí lão có thể đi xin ăn…
Đây thực sự là một phát hiện mới theo điểm nhìn của học sinh. Tuy nhiên
giáo viên cũng cần định hướng cái chết của lão Hạc không phải là sự manh động,
tiêu cực. Lão đã rất bền bỉ, đã gắng để sống: "Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ
ăn khoai. Rồi thì khoai cũng hết. Bắt đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn món
ấy. Hơm thì lão ăn củ chuối, hơm thì lão ăn sung luộc, hơm thì ăn rau má, với thỉnh
thoảng một vài củ ráy hay bữa trai, bữa ốc" mà không được. Bi kịch là thế đấy. Nếu
khơng muốn sống thì lão đã khơng phải cố duy trì sự sống bằng mọi cách như thế.
Lão có thể tự sát ngay sau khi ủy thác cho ông giáo mảnh vườn và tiền làm tang.
Dường như, trong mịn mỏi, lão vẫn cố chờ điều gì... Chờ con trai trở về. Biết đâu
trong những ngày gắng sống ấy nó trở về! Khơng thể chờ thêm được nữa, cuối
cùng (tận đến cuối cùng) thì lão Hạc phải chấp nhận một sự thật của chính mình, để
lão khơng vi phạm lẽ sống của lão: muốn sống mà vẫn tự chết. Tại sao lão tự trọng
đến "hách dịch" như thế cơ chứ? Đến ngay tiền làm ma cho mình lão cịn khơng
động đến nữa là cậy nhờ! Thế mới là lão Hạc – con chim hạc nhỏ bé, lương thiện,
trong sạch và thanh cao. Và đó cũng là yếu tố tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc của
tác phẩm.
13

skkn



2.3. Câu hỏi mang tính ứng dụng
Đây là dạng câu hỏi yêu cầu học sinh nắm chắc kiến thức đã biết và có thể
ứng dụng, sử dụng kiến thức đã có vào những tình huống cụ thể, đặc biệt là trong
một ngữ cảnh mới. Trong dạng câu hỏi này, có thể đưa vào các từ khóa như: áp
dụng, ứng dụng, giả sử, đề xuất, dự đốn,…
Chẳng hạn, khi phân tích cái chết đau đớn của Lão Hạc, để giúp học sinh
hiểu được giá trị nhân đạo sâu sắc trong ngòi bút của nhà văn Nam Cao, giáo viên
có thể đặt ra một tình huống để kích hoạt năng lực phản biện của học sinh để có thể
áp dụng vào thực tế. Cụ thể:
Cũng là chọn cái chết tại sao lão Hạc không chọn chết một cách êm dịu hơn,
thi vị hơn?
Hoặc là, theo em nếu Lão Hạc muốn sống có thể chọn cách nào để tiếp tục
sống? Hãy thử đề xuất một kết thúc khác cho nhân vật?
Trong trường hợp này, học sinh được tự do trình bày suy nghĩ của mình và
tranh luận.
Cứ tương tự như vậy, tơi đã tạo cho lớp học một khơng khí dân chủ thoải
mái, và học sinh cũng thấy được quan điểm, suy nghĩ của mình được tơn trọng,
được lắng nghe.
2.4 Câu hỏi phản biện mang tính củng cố, nâng cao
Sau khi học xong văn bản Lão Hạc (Nam Cao), tơi có hỏi: trong hai nhân
vật lão Hạc và chị Dậu theo em nhân vật nào đáng thương nhất.Vì sao?
Thật bất ngờ khi nhận được rất nhiều câu trả lời khác nhau:
Ý kiến 1: Lão Hạc đáng thương nhất
Ý kiến 2: Chị Dậu đáng thương nhất.
Ý kiến 3: Ai cũng đáng thương
Trước những luồng ý kiến khác nhau đó, chúng tơi đã tổ chức phản biện theo
hình thức hợp tác nhóm.
Bước 3: Tổ chức cho học sinh tranh luận, phản biện

Đây là khâu quan trọng nhất của giờ học theo hướng phát triển năng lực
phản biện. Lúc này học sinh sẽ trình bày quan điểm của mình trước tập thể và quan
trọng hơn là các em trực tiếp đối thoại với các bạn học sinh khác để bảo vệ quan
điểm của mình. Học sinh sẽ đưa ra hàng loạt những lí lẽ, dẫn chứng và  sắp xếp
chúng theo một trật tự hợp lí để thuyết phục những người khác tán đồng quan điểm
với mình. Cũng trong hoạt  động này, học sinh có thể sẽ phải trả lời những câu hỏi
do các bạn khác đặt ra. Điều này địi hỏi các em phải có một thói quen tư duy biện
chứng rõ ràng, khả năng ứng biến mau lẹ trước các tình huống phát sinh, và tất
nhiên là phải hiểu về tác phẩm văn học một cách tường tận. Hơn thế học sinh còn
cần phải biết cách quan sát, đánh giá thái độ của  những người nghe xung quanh
mình để điều chỉnh ngữ điệu, thái độ, lời văn... cho phù hợp. Thiết nghĩ con đường
14

skkn


này sẽ cho học sinh nhiều bài học để trưởng thành hơn cả về trong tri thức lẫn cuộc
sống.
Trong quá trình tổ chức học sinh phản biện, giáo viên phải làm tốt vai trò là
người tham dự - chia sẻ hoặc có khi phải làm trọng tài nếu cuộc “khẩu chiến” vượt
ra khỏi khuôn khổ quy định. Trên thực tế đây là lúc giáo viên thu nhận được nhiều
thông tin phản hồi nhất. Giáo viên vừa có thể nắm bắt được mức  độ hiểu bài của
học sinh  để xem xét các biểu hiện lệch lạc nhằm kịp thời uốn nắn, vừa quan sát
được thái độ, hứng thú học tập của các em.
Việc tổ chức tranh luận này không nhất thiết là hình thức tranh luận theo
nhóm. Có thể sử dụng cách tranh luận giữa các cá nhân học sinh với nhau, hoặc
tranh luận giữa giáo viên và học sinh. Chẳng hạn trong quá trình học tập, lĩnh hội
tri thức của bài học, ở một trường hợp nào đó, giáo viên khéo léo, cố ý nói sai vấn
đề, hoặc dẫn một ý kiến nào đó chưa thỏa đáng để học sinh phát hiện ra và tranh
luận. Nếu một lần học sinh chưa phát hiện ra thì có thể cố tình nhấn mạnh điểm sai

thêm lần nữa. Nếu vài ba lần học sinh vẫn chưa phát hiện được thì giáo viên gợi
khéo: hình như có vấn đề gì đó chưa ổn ở đây, các em có thấy thế khơng? Như thế
sẽ lơi kéo học sinh phát hiện vấn đề. Khi học sinh phản biện đúng, có sức thuyết
phục thì cơng nhận, bổ sung vào bài học, coi đó như là cơng lao, phát hiện mới mẻ,
sáng tạo của học sinh.
Trong quá trình tổ chức phản biện sẽ có nhiều tình huống nảy sinh, vì vậy
trong quá trình thiết kế bài dạy, giáo viên nên có sự dự kiến tình huống và cách xử
lí, tránh để rơi vào tình trạng bị động. Giáo viên cũng cần phải có kiến thức vững
vàng để lí giải những khúc mắc cho học sinh một cách thấu đáo. Nhất là phải có
quan điểm rõ ràng: đồng tình hay phản đối, đúng hay sai...
Và điều quan trọng là sau mỗi lần phản biện GV nên chốt lại ý trọng tâm để
học sinh ghi nhớ, khắc sâu kiến thức.
3. Phát huy vai trị nhóm trong phản biện
Đây là biện pháp tơi sử dụng kết hợp với hình thức câu hỏi mang tính củng
cố, khái quát, nâng cao vấn để đã được nhắc đến ở mục 2.4. Cụ thể:
Bước 1: Hình thành nhóm. Nhóm này bao gồm những em có cùng quan điểm. Giáo
viên tuyệt đối không lựa chọn mà để các em tự quyết định mình.
Bước 2: Làm việc theo nhóm: các em thảo luận, làm việc cùng nhau để tìm ra các ý
phản biện và sắp xếp chúng theo một trật tự lôgic. Ở bước này các em không chỉ
học tập kiến thức, ghi nhớ bài học mà cịn học tập được phương pháp làm việc theo
nhóm sao cho hiệu quả nhất. Tất nhiên, giáo viên sẽ phải quan sát tổng thể quá
trình làm việc của từng em, nếu khơng sẽ xảy ra tình trạng chỉ có một vài học sinh
khá trong nhóm làm việc, số cịn lại thì “ngồi chơi xơi nước”.

15

skkn


Bước 3: Trình bày phản biện: Các nhóm cử đại diện trình bày vấn đề mà mình đã

chọn. Sau khi trình bày, các bạn trong nhóm khác có thể nêu câu hỏi yêu cầu được
giải đáp.
Bước 4: Giáo viên và học sinh cùng chốt lại vấn đề trọng tâm.
Và đây là kết quả chúng tôi đã nhận được sau khi cho HS thảo luận và tranh
luận:
Nhóm 1: - Lão Hạc đáng thương nhất, bởi theo bạn: "Chị Dậu khổ nhưng
bên cạnh chị vẫn còn con, còn chồng để lo để thương, để chăm sóc.Cịn lão Hạc,
lão chẳng có gì ngồi nỗi cơ đơn bủa vây và đói nghèo cay đắng. Đến cả cậu
Vàng, là người bạn tâm tình duy nhất cũng phải rời xa lão. Lão sống trong cực
khổ, chết trong đớn đau. Cuộc đời chưa từng một giây phút n bình. Như vậy
chẳng phải khổ nhất hay sao?"
Nhóm 2: - Chị Dậu là người khổ nhất, đáng thương nhất, Vì lão Hạc chết rồi
sẽ được giải thốt, nếu con lão về thì vẫn được tiền lão để lại. Cịn chị Dậu chết sẽ
khơng có ai ni chồng con, vì thế mà khơng thể chết được.
Nhóm 3: - Ai cũng đáng thương, họ đều là những người nông dân phải sống
trong xã hội phong kiến đầy bất công, đau khổ. Mỗi người đều có một hồn cảnh
khác nhau, một nỗi khổ khác nhau.
Từ những ý kiến của học sinh, tôi đã định hướng cho các em: Khó có thể
khẳng định được rằng ai là người khổ nhất trong 2 nhân vật. Mỗi người có một nỗi
khổ riêng, gộp 2 hồn cảnh lại chúng ta có thể nhìn thấy được thực trạng xã hội
thực dân nửa phong kiến của nước ta giai đoạn 1930 - 1945. Hãy đặt mình vào
hồn cảnh của từng nhân vật để thấu hiểu nỗi khổ, suy nghĩ và tâm trạng của từng
nhân vật để tìm ra câu trả lời cho riêng mình.
4. Xây dựng hệ thống bài tập củng cố, đề kiểm tra theo định hướng phát triển
năng lực phản biện.
Năng lực phản biện khơng thể có ngay lập tức mà cần đến một quá trình. Vì
vậy cần cho học sinh thường xuyên luyện tập. Với hệ thống bài tập về nhà hoặc đổi
mới hình thức kiểm tra, việc rèn luyện và phát triển năng lực phản biện cho học
sinh sẽ có kết quả cao hơn. Việc chuẩn bị bài của học sinh hiện nay còn mang tính
đối phó. Các em thường chép theo các sách hướng dẫn học bài, thậm chí khơng cần

đọc văn bản mà vẫn có thể soạn bài. Vì vậy giáo viên nên có một số bài tập cho cả
2 giai đoạn, trước và sau khi đọc hiểu văn bản. Giáo viên cũng có thể dựa vào
những câu trả lời của học sinh để so sánh mức độ hiểu bài của các em ở những giai
đoạn khác nhau. Hệ thống bài tập không cần nhiều, có khi chỉ cần một vài bài với
các dạng thức khác nhau như: bài tập trình bày một vấn đề, giải thích một vấn đề,
tìm dẫn chứng cho luận điểm, sắp xếp các ý...
Đổi mới kiểm tra, đánh giá là yêu cầu bức thiết hiện  nay. Mấy năm gần đây
ln  có những dạng đề mới khích thích hứng thú sáng tạo và khả năng phản biện
16

skkn


của học sinh. Vì vậy, sau khi tổ chức HS tiếp nhận kiến thức trên lớp, tôi luôn chú
trọng thiết kế các dạng bài tập nhằm củng cố, nâng cao năng lực cũng như kĩ năng
phản biện cho HS.
Đối với văn bản “Lão Hạc”, tôi đã thiết kế một số dạng bài tập sau:
3.1 Bài tập phản biện ở cấp độ chi tiết
Ở cấp độ này, đề bài yêu cầu cảm nhận và đánh giá về một hoặc hoặc vài chi
tiết hay, đặc sắc trong tác phẩm văn học, thường là tác phẩm văn xi. Trong đó,
có trình bày ý kiến riêng, có tham gia tranh luận với những ý kiến khác, phản biện
vấn đề nhằm đưa ra giá trị thực sự của chi tiết nghệ thuật. Bài tập này sẽ làm tại lớp
dưới dạng viết đoạn văn ngắn.
Ví dụ: Cho tình huống sau: Mấy năm sau khi lão Hạc chết, anh con trai lão
trở về. Nếu là nhân vật “tơi”, em sẽ nói gì với con trai Lão Hạc?
3.2 Bài tập phản biện ở cấp độ hình tượng
Ở cấp độ này, đề bài yêu cầu cảm nhận và đánh giá về một hoặc hoặc vài
hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học. Trong đó, có trình bày ý kiến riêng,
có tham gia tranh luận với những ý kiến khác, phản biện vấn đề nhằm đưa ra giá trị
thực sự của hình tượng nghệ thuật. Với dạng bài này

Ví dụ 1:
Đánh giá về truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao, có ý kiến cho
rằng: “Truyện ngắn Lão Hạc là bức tranh hiện thực về số phận con người và chan
chứa tinh thần nhân đạo”.
Bằng những hiểu biết về tác phẩm Lão Hạc em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Ví dụ 2:
Nhận xét về truyện ngắn Lão Hạc nhà phê bình văn học Văn Giá cho rằng từ
việc miêu tả hoạt động của các nhân vật Nam Cao đã gián tiếp đưa ra tình thế lựa
chọn đối với lão Hạc. Đó là một sự lựa chọn tột cùng đau đớn của nhân vật con
của thân phận con người. Ý nghĩa câu chuyện chủ yếu được phát sáng từ điểm then
chốt này. Qua truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao em hãy làm sáng tỏ
những tình thế lựa chọn ấy.
Để giúp HS thể hiện được quan điểm, chính kiến của mình, hay nói cách
khác là phát huy được năng lực phản biện trong bài tập làm văn, khâu đầu tiên là
HS phải định hướng được trọng tâm của đề và xây dựng được dàn ý cho bài viết.
Tóm lại, trong dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng, thường
xun đặt câu hỏi, kích hoạt tư duy phản biện phản biện của HS, sẽ giúp HS không
ngừng vận động, khám phá tri thức để giải quyết một cách thấu đáo, khoa học các
vấn đề trong học tập cũng như trong cuộc sống.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Sau một thời gian tiến hành nhiều phương pháp dạy học khác nhau để phát
triển năng lực phản biện cho học sinh ở đơn vị công tác, bước đầu tơi đã có những
17

skkn


kết quả khả quan. Giáo viên đã không phải làm việc hết cơng suất. Trong khi các
em HS có cơ hội được bày tỏ quan điểm, suy nghĩ, cảm nhận của mình đối với tác
phẩm. Khả năng giao tiếp, trình bày của các em có sự tiến bộ rõ rệt. Khả năng lập

luận của các em càng ngày càng chặt chẽ cdxác lí lẽ cũng sắc sảo hơn. Kết quả của
những bài kiểm tra ở dạng đề nhằm phát huy năng lực phản biện cho học sinh ngày
một nâng lên. Đặc biệt là khơng khí các giờ học văn ln rất hào hứng, sôi nổi.
Ngay cả một số em nhút nhát, ít nói thì nay cũng có phần mạnh dạn hơn. Đây là
một tín hiệu vui cho dạy học văn hiện nay.
Để kiểm nghiệm hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã tiến hành dạy
bài Lão Hạc ở hai lớp, một lớp có sử dụng phương pháp nhằm nâng cao năng lực
phản biện cho HS, một lớp không dùng. Và kết quả tôi nhận được như sau:
Bảng so sánh hứng thú học tập của học sinh:
Lớp 8D – Không sử dụng phương pháp nâng cao năng lực phản biện
Mức độ
Khơng hứng thú
Có hứng thú
Rất hứng thú
Lớp
SL
%
SL
%
SL
%
8D
10
33,3
15
50
5
16,6
Lớp 8C– Sử dụng phương pháp nâng cao năng lực phản biện
Mức độ

Không hứng thú
Có hứng thú
Lớp
SL
%
SL
%
8C
5
14,2
20
57,14

Rất hứng thú
SL
%
10
28,57

Bảng so sánh kết quả học tập trong hai năm học:
Lớp 8D – Không sử dụng phương pháp nâng cao năng lực phản biện
M. độ
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
Lớp
SL
%

SL
%
SL
%
SL % SL
%
8D
1
3,33 9
30
16 53,33 3 10
1
3,33
Lớp 8C – Sử dụng phương pháp nâng cao năng lực phản biện
M. độ
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Lớp
SL
%
SL
%
SL
%
SL %
8C
7
20

23 65,71
5
14,28 0
0

Kém
SL %
0
0

C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
18

skkn


I. Kết luận
Sau khi sử dụng một số giải pháp để nâng cao năng lực phản biện cho học
sinh, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1. Văn học bắt rễ từ đời thực, được phản ánh qua lăng kính chủ quan của
người cầm bút. Và khi bước ra cuộc đời, tác phẩm văn học lại được tiếp nhận qua
nhiều góc độ khác nhau với những thế giới quan, nhân sinh quan khác biệt. Chính
vì vậy, đơi khi giá trị của tác phẩm vượt ra ngồi tầm kiểm sốt của chính nhà văn.
Mỗi người có một cách nhìn nhận, đánh giá, bình luận, cảm thụ riêng.
2. Rèn luyện năng lực phản biện cho học sinh qua giờ đọc hiểu văn bản văn
học là điều cấp thiết và khả thi. Phản biện là năng lực mang lại nhiều lợi ích trong
các lĩnh vực chuyên môn học thuật và ứng dụng cuộc sống. Năng lực phản biện
khơng phải tự nhiên mà có, mà là kết quả của quá trình học tập, rèn luyện. Nhà
trường thông qua các môn học, nhất là môn Ngữ Văn, tích cực rèn luyện kĩ năng
này cho học sinh để các em chuẩn bị tốt hành trang cho cấp học cao hơn.

3. Rèn luyện năng lực phản biện cho HS qua giờ đọc hiểu văn bản văn học là
góp một phần quan trọng vào việc đổi mới phương pháp dạy học đối với bộ mơn
Ngữ văn nói riêng và cải tiến nền giáo dục của nước nhà nói chung. Đồng thời, đào
tạo những con người năng động, sáng tạo, chủ động, tự tin, dám nghĩ, dám làm,
dám thể hiện mình.
II. Đề xuất
Để phát huy tốt những giải pháp nhằm nâng cao năng lực phản biện cho học
sinh qua giờ học Ngữ văn, tôi xin đề xuất một số ý kiến sau:
1. Đối với nhà trường:
Nên đa dạng hóa các hoạt động học tập: tổ chức các sân chơi, các hoạt động
ngoại khóa,các cuộc thi,… để học sinh có cơ hội được thể hiện năng lực của mình.
2. Đối với giáo viên
- Năng lực phản biện cần được rèn luyện có phương pháp, kĩ thuật. Giáo
viên nên áp dụng linh hoạt và kết hợp chúng cùng các phương pháp, kĩ thuật dạy
học hiện đại khác để đem lại hiệu quả tốt nhất.
- Phải thiết kế được câu hỏi phản biện khoa học, có tính ứng dụng cao, khai
thác được khả năng tư duy của học sinh.
- Cần có suy nghĩ và cách nhìn mới về khả năng phản biện của học sinh
(kiên nhẫn lắng nghe, khơng cau có, khó chịu, quan trọng là phải tôn trọng sự khác
biệt)
- Để phát huy được năng lực phản biện của HS, GV cần phải xem việc rèn
luyện kĩ năng phản biện cho HS là việc làm thường xuyên, không được làm nửa
vời.

19

skkn




×