Tìm hiểu kho tàng thơ chữ Nôm và chữ Hán của Nguyễn Trãi để lại cho hậu thế, chúng ta có thể thấy một
nét đặc sắc trong những bài thơ thiên nhiên của ông. Cùng viết về thiên nhiên, nhưng những bài thơ chữ
Hán trong Ức Trai thi tập có sự khác biệt trong đề tài, cảm hứng, chủ đề, tư tưởng cũng như nghệ thuật
ngôn ngữ, xây dựng hình tượng so với thơ chữ Nôm trong Quốc âm thi tập.
Nói đến thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi, trước hết chúng ta cần đặt trong mối quan hệ qui chiếu với
cuộc đời của nhà thơ để giải mã rõ hơn cảm hứng cụ thể trong từng tác phẩm ở hai tập thơ. Đây là vấn đề
đòi hỏi quá trình khảo cứu công
phu và thuộc phạm vi nghiên cứu
của một công trình lớn.
Người viết chỉ xin được so sánh
mảng thơ thiên nhiên của Nguyễn
Trãi ở thơ chữ Hán và thơ chử Nôm
của ông ở những khía cạnh cơ bản
nhất, trên cơ sở phân tích một số
tác phẩm tiêu biểu và tương đối
quen thuộc với chúng ta lâu nay.
Theo một truyền thống thi ca trung
đại “cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ”
(Hồ Chí Minh), những bài thơ của
Nguyễn Trãi dành một số lượng
khá lớn viết về thiên nhiên.
Thiên nhiên gắn với cuộc đời thăng trầm đầy bi kịch của người anh hùng, như cũng soi chiếu tâm tư của
chính nhà thơ trong những hoàn cảnh khác nhau.
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày
Có thuốc trường sinh càng khoẻ thay
Hổ phách phục linh nhìn mấy biết
Dành, còn để trợ dân này
Những câu thơ Nguyễn Trãi viết về Tùng như sự khẳng định nhân cách của chính ông, một con người cả
đời canh cánh nỗi lòng “ưu quốc ái dân”. Nguyễn Trãi tìm về thiên nhiên và để lại hàng trăm bài thơ chữ
Hán và chữ Nôm, hầu như bài thơ nào cũng toát lên vẻ đẹp lồng lộng thanh cao và cứng cỏi như dáng
tùng vững chãi giữa tuyết sương.
Trong buổi đầu của nền thi ca trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi đã tạo dựng nên một kiểu nhà nho – nghệ
sĩ đích thực, khi tâm hồn ông hoà quyện với từng vẻ đẹp đất nước, rung động trước non nước mây trời, cỏ
cây hoa lá để người đời sau hình dung đầy đủ diện mạo của con người có tấm lòng sáng tựa “sao Khuê
buổi sớm” ấy. Lúc làm quan giữa triều, khi về ở ẩn sống đời thanh bần giữa núi rừng, dù ở đâu thiên
nhiên vẫn chiếm một địa vị quan trọng, một người bạn tâm giao để Nguyễn Trãi kí thác nỗi lòng luôn
quặn thắt những ưu tư thời thế:
Non cao non thấp mây thuộc
Cây cứng cây mềm gió hay
Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết
Bui một lòng người cực hiểm thay
Đề tài thiên nhiên trong thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi vô cùng phong phú như phản
chiếu cuộc đời lắm thăng trầm của chính ông. Nếu như trong thơ chữ Hán, ta gặp nhiều địa danh gắn với
quãng đời sôi nổi, với hoài bão « trí quân trạch dân », với tầm nhìn bao quát lịch sử, chiêm nghiệm thời
thế một cách cụ thể thì ở thơ chữ Nôm lại là những cảm xúc tinh lọc thăng hoa trong những đề tài tưởng
như mòn cũ vì ước lệ « tùng, trúc, cúc, mai », « phong, hoa tuyết nguyệt ». Nhưng dù cho đề tài cụ thể
hay trừu tượng thì Nguyễn Trãi đều thể hiện con người đầy cá tính của ông một cách rõ nét trước thiên
nhiên. Cảm hứng bao trùm trong những bài thơ chữ Hán viết về thiên nhiên phải chăng có thể khái quát
trong hai câu thơ này của Nguyễn Trãi :
Kim cổ vô cùng giang mạc mạc
Anh hùng hữu hạn diệp tiêu tiêu
Ngay cả những bài thơ chữ Hán thấm đẫm phong vị trữ tình cũng phảng phất nỗi niềm người anh hùng
trước lẽ hưng phế, đọng lại những hoài niệm về các triều đại đã qua. Dù cho đó là cảnh đã bao nhiêu lần
thưởng ngoạn thì vào thơ, Nguyễn Trãi vẫn tạo được những rung động khác thường. một Dục Thuý sơn
qua cảm xúc của ông hiện rõ là nơi « tiên cảnh trụy trần gian » với vẻ đẹp thật diễm lệ :
Tháp ảnh trâm thanh ngọc
Ba quang kính thúy hoàn
Vẻ diễm kiều như một nàng thiếu nữ của núi Dục Thúy cũng không làm ông nguôi ngoai hoài niệm về
bậc tài danh tiền bối Trương Hán Siêu, trong mối đồng cảm của người đề thơ núi Thuý. Đó không chỉ là
gặp gỡ của hồn thơ yêu cảnh đẹp, mà còn là nhớ bậc tiền nhân đã cống hiến tài trí phò vua giúp nước :
Hữu hoài Trương Thiếu bảo – Bi khắc tiển hoa ban. Nhiều bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi thường khắc
hoạ những phong cảnh hùng vĩ của đất nước với bút lực cuồn cuộn, với hơi văn dào dạt như thuở Bình
Ngô : một Thần Phù hải khẩu :
Kình phun lãng hống thôi nam bắc
Sóc ủng sơn liên ngọc hậu tiền
Hay một Vân Đồn « thiên khôi địa thiết phó kì quan », một Bạch Đằng hải khẩu :
Sóc phong xuy hải khí lăng lăng
Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng
Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc
Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng
Cảnh ấy, tình ấy gắn với niềm tự hào dân tộc lớn lao, bởi những danh thắng cũng đồng thời gắn với
những anh hùng mà bản thân nhà thơ ngưỡng vọng : Thần Phù là nơi anh hùng Hồ Quí Ly chống sự xâm
lăng của vua Chiêm Chế Bồng Nga, Vân Đồn vang danh chiến công của Trần Khánh Dư và bao triều đại
anh hùng vùi thây quân giặc cướp trên sóng Bạch Đằng. Nhưng đồng thời, Nguyễn Trãi còn nhận ra
những mối tương quan trời đất và con người khi suy ngẫm trước cảnh trời đất vô cùng, để ngậm ngùi cho
mối hận anh hùng, để suy ngẫm về gốc rễ vững bền của đất nước:
Phúc chu thủy tín dân do thuỷ
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật
Anh hùng di hận kỉ thiên niên
(Quan hải)
Có lẽ chưa ai nhìn thiên nhiên đất trời mà luận anh hùng sâu sắc như Nguyễn Trãi, anh hùng là phẩm chất
cá nhân, nhưng muốn thành nghiệp lớn phải gắn với nhân dân như thuyền với nước.
Tiếp xúc với thiên nhiên trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi trong Ức Trai thi tập, chúng ta có thể nhận
thấy ý kiến đánh giá của PSG.TS Lã Nhâm Thìn thật xác đáng: đó là một thiên nhiên kỳ vĩ, hoành tráng
nhưng cũng đồng thời mỹ lệ, thi vị; thiên nhiên gắn với những địa danh như một cuốn nhật kí gắn với
cuộc đời phong phú từng trải của Nguyễn Trãi; qua đó ta nhận ra một tâm hồn cao rộng, khoáng đạt,
phong tình và tinh tế.
Phần lớn những bài thơ của Nguyễn Trãi viết về thiên nhiên bằng chữ Hán đều tuân thủ nghiêm ngặt thể
loại Đường luật nhưng không hề gò bó cảm xúc. Thơ thiên nhiên gắn với tâm hồn trí tuệ của một con
người lừng danh “viết thư, thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời” cũng mang theo cái mạnh mẽ phóng
khoáng của một tấm lòng nặng niềm “ưu ái”, bao giờ cũng phảng phất bóng dáng con người hăm hở gánh
vác giang sơn, trổ tài kinh bang tế thế để thực hiện hoài bão trí quân trạch dân. Bên cạnh đó là một thiên
nhiên chất chứa ưu tư.
Cùng chung cảm hứng này, trong những bài thơ Nôm, Nguyễn Trãi lại có dịp bộc bạch nhiều ưu tư hơn.
Ông tìm thấy trong thiên nhiên những bài học lớn, đặc biệt là thiên nhiên trong chùm thơ Bảo kính cảnh
giới ở Quốc âm thi tập.
Quãng đời lui về ẩn cư quê ngoại Côn Sơn giúp Nguyễn Trãi có dịp hoà nhập với thiên nhiên hết mình
hơn, khi “công danh đã được hợp về nhàn”, những cảm xúc thiên nhiên trong chùm thơ Mạn thuật, Thuật
hứng, những cảm nhận về hoa cỏ trong Hoa mộc môn…cũng bộc lộ con người ông thật bình dị gần gũi.
Ta cũng nhận ra chân dung tâm hồn Nguyễn Trãi sinh động tự nhiên hơn trong những vần thơ dân dã nôm
na.
Thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Trãi là cả một không gian bát ngát tình người, tràn căng sức sống
“thế giới đông lên ngập một bầu”. Điểm khác biệt về cảm hứng giữa thơ chữ Nôm và thơ chữ Hán xuất
phát từ chính những nét đặc biệt trong hoàn cảnh của nhà thơ khi về ẩn cư:
Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then…
(Thuật hứng)
Vẫn là “phong nguyệt yên hà” nhưng có cái mềm mại lung linh trong cảm xúc của một hồn thơ nhạy cảm.
Trong cuộc sống của vị hưu quan, vẫn còn ắp đầy những hoài bão hướng về cuộc đời trăn trở niềm “tiên
ưu”. Cuộc sống thanh bình của dân gian cũng tạo nên niềm vui giúp ông vượt lên nỗi niềm riêng:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp đòi phương
(Bảo kính cảnh giới, 43)
Thiên nhiên đến với nhà thơ trong tư cách “Núi láng giềng, chim bầu bạn, mây khách khức, nguyệt anh
tam”, nên ông cũng thả lòng mình thật tự nhiên không rào đón. Nếu như đọc thơ chữ Hán, ta đã gặp một
Nguyễn Trãi với Côn Sơn ca thật tiêu dao:
Côn Sơn hữu tuyền
Kỳ thanh linh linh nhiên
Ngô dĩ vi cầm huyền
Côn Sơn hữu thạch
Vũ tẩy đài phô bích
Ngô dĩ vi đạm tịch
Nham trung hữu tùng
Vạn cái thuý đồng đồng
Ngô ư thị hồ yển tức kỳ trung…
Thì trong thơ chữ Nôm, ông còn thoải mái viết những câu vượt ra khỏi mọi ràng buộc câu thúc lễ nghi để
thật sự hoà đồng cùng cây cỏ đất trời:
Già chơi dầu có của no dùng,
Chén rượu câu thơ ấy hứng nồng.
Ngỏ tênh hênh nằm cửa trúc,
Say lểu thểu đứng đường thông…
(Thuật hứng, 16)
Ta nhận ra một Nguyễn Trãi thật tự do phóng khoáng giữa đất trời, thật táo bạo với những từ ngữ thuần
Việt đắt giá “tênh hênh”, “lểu thểu” mà vẫn không suồng sã, tưởng khó thành thơ mà vẫn lộ rõ cốt cách
thanh cao nhưng giản dị của Nguyễn Trãi. Thơ chữ Nôm Nguyễn Trãi thường nói về cảnh nhàn, cuộc
sống nhàn rỗi bất đắc dĩ nhưng không vì thế làm mất đi vẻ thư thái tự tin của nhà thơ: “Quét trúc bước
qua lòng suối – Thưởng mai về đạp bóng trăng”. Bên cạnh những bài thơ vịnh cảnh theo truyền thống với
những biểu tượng thiên nhiên gắn với người quân tử như “tùng trúc cúc mai” còn là những loài hoa cỏ
bình thường nhưng lại toả ra phẩm chất thi nhân của Nguyễn Trãi tinh tế nhất. Thưởng thức lại những vần
thơ cô đọng mà thấm đượm vẻ tình tứ trong bài Cây chuối, ta mới thấy Nguyễn Trãi đã vượt trước thời
đại mình biết bao nhiêu:
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm
Đầy buồng lạ mầu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín
Gió nơi đâu gượng mở xem
Hồn thơ ấy cũng không gò bó câu thúc trong khuôn khổ thơ luật Đường mà tìm cách thể hiện cá tính của
mình trong những phá cách lục ngôn. Nghiêm cẩn trong thơ chữ Hán bao nhiêu thì ông lại phóng túng
trong thơ chữ Nôm bấy nhiêu, đó cũng là dấu ấn đặc sắc của Nguyễn Trãi trong Quốc âm thi tập. Người
đọc có thể hình dung một Nguyễn Trãi “Cơm ăn chẳng quản dưa muối – Áo mặc nài chi gấm thêu” giữa
một thiên nhiên rất giàu cảm xúc và đậm nét đời thường:
Quê cũ nhà ta thiếu của nào,
Rau trong nội, cá trong ao.
Cách song mai tỉnh hồn Cô Dịch ,
Kề nước cầm đưa tiếng Cửu Cao
Khách đến vườn còn hoa lạc,
Thơ nên cửa thấy nguyệt vào.
Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào
(Mạn thuật, 35)
Bản thân nhà thơ dẫu chán ngán cảnh quan trường, nhưng không hề run sợ khuất phục trước cường
quyền, không phải lánh đời theo triết lý “độc thiện kỳ thân” mà chính thiên nhiên tiếp cho ông sức mạnh,
tìm ra cách ứng xử với bọn quyền thần một cách đầy dũng khí. Thiên nhiên ấy hun đúc nên một Nguyễn
Trãi đầy khí phách:
Mai chăng bẻ thương cành ngọc,
Trúc nhặt vun tiếc cháu rồng
Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Ðêm ngày cuồn cuộn nước triều đông.
(Ngôn chí, 50)
Qua những bài thơ viết về thiên nhiên của Nguyễn Trãi, ta có thể nhận ra đầy đủ về chân dung một con
người hội tụ “khí phách của dân tộc, tinh hoa của thời đại”. Thiên nhiên mà ông tìm đến cũng là một thiên
nhiên đầy sức sống, thanh cao như tâm hồn ông luôn cuồn cuộn hoài bão lo cho dân cho nước. Trong bất
kỳ hoàn cảnh nào, những vần thơ của ông vẫn toát lên vẻ đẹp của con người chân chính và “tài năng làm
hay làm đẹp cho nước xưa nay chưa từng thấy” đúng như những lời ca ngợi hậu thế dành cho ông.