Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Skkn một số biện pháp dạy từ vựng tiếng anh ở tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.77 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Trang
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ

3

PHẦN II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

3

1.Thực trạng cơng tác dạy học và tính cấp thiết

3-5

2.Biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy từ vựng môn Tiếng Anh

5-7

a.Biện pháp 1

7

b.Biện pháp 2

7

c.Biện pháp 3

7

d.Biện pháp 4



7

3.Thực nghiệm sư phạm

7

a.Mô tả cách thức thực hiện

7-15

b.Kết quả đạt được

16-17

c.Điều chỉnh,bổ sung sau thực nghiệm

15-16

4.Kết luận

17

5.Kiến nghị,đề xuất

17-18

a.Đối với tổ,nhóm chun mơn

17


b.Đối với lãnh đạo nhà trường

17

c.Đối với Phịng GDDT,Sở GDĐT

18

PHẦN III.TÀI LIỆU THAM KHẢO

18

PHẦN IV.MINH CHỨNG VỀ HIỆU QUẢ CỦA GIẢI PHÁP

18-19

PHẦN V.CAM KẾT

19

1

skkn


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ GDĐT

Bộ Giáo Dục Đào Tạo


Sở GDĐT

Sở Giáo Dục Đào Tạo

Phòng GDĐT

Phòng Giáo Dục Đào Tạo

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

HT

Hoàn thành

2

skkn


PHẦN I.ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiếng Anh là công cụ giao tiếp quan trọng trong việc hoà nhập với cộng đồng
quốc tế và khu vực. Đất nước ta đang trên đường đổi mới, chúng ta đang quyết
tâm cơng nghiệp hố hiện đại hoá đất nước, mở rộng quan hệ với nhiều nước

khác. Do vậy việc dạy và học ngoại ngữ nói chung và mơn Tiếng Anh nói riêng
ngày càng được coi là cơng cụ đắc lực cho q trình hội nhập.
Trong q trình học ngoại ngữ, từ vựng có thể xem là phần quan trọng nhất
vì nó là phương tiện dùng để diễn đạt ý tưởng đồng thời đó cũng là cầu nối giữa
các kĩ năng nghe, nói, đọc và viết. Tuy nhiên, việc dạy từ vựng lại không đơn
giản chút nào, nhất là dạy cho trẻ đang ở ngưỡng bắt đầu học ngoại ngữ. Dạy
tiếng Anh nói chung và dạy từ vựng nói riêng cho trẻ địi hỏi ở người giáo viên
khơng chỉ có khả năng ngơn ngữ mà cịn là cách làm thế nào để khiến học sinh
tham gia vào bài học. Để làm được điều đó, giáo viên buộc phải tạo ra sự đa
dạng trong các hoạt động trong giờ học. Đó là lí do tại sao giáo viên cần lựa
chọn và phối hợp các phương pháp và kỹ thuật dạy từ một cách linh hoạt và
uyển chuyển để duy trì khả năng tập trung vốn kém ở học sinh tiểu học. Làm
thế nào có thể tạo ra cho trẻ một khơng khí học tập vui vẻ và thư giãn mà hiệu
quả là điều mà tôi băn khoăn, trăn trở. Với nghiên cứu đề tài này, tôi mong
muốn bước đầu sẽ phần nào giúp mình dần khắc phục những khó khăn trên, từ
đó trao đổi kinh nghiệm của bản thân với các đồng nghiệp, để việc dạy môn
Tiếng Anh trong nhà trường đạt hiệu quả tốt hơn, học sinh tích cực, chủ động
trong việc tiếp thu, lĩnh hội kiến thức của bài học. Đó cũng là lý do tơi chọn
nghiên cứu đề tài này “MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY TỪ VỰNG TIẾNG ANH
Ở TIỂU HỌC’’
PHẦN II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Thực trạng cơng tác dạy học và tính cấp thiết.
Trong dạy và học tiếng Anh, từ vựng là một trong ba thành tố tạo thành hệ thống
kiến thức ngôn ngữ và đóng vai trị là phương tiện, điều kiện hình thành và phát
triển kỹ năng giao tiếp. Trong bất kỳ một ngơn ngữ nào, vai trị của từ vựng
cũng hết sức quan trọng. Có thể thấy một ngơn ngữ là một tập hợp của các từ
vựng. Không thể hiểu ngôn ngữ mà không hiểu biết từ vựng, hoặc qua các đơn
vị từ vựng. Nhưng điều đó khơng đồng nghĩa với việc chỉ hiểu các đơn vị từ
vựng riêng lẻ, độc lập với nhau mà chỉ có thể nắm vững được ngơn ngữ thông
qua mối quan hệ biện chứng giữa các đơn vị từ vựng. Như vậy việc học từ vựng

3

skkn


và rèn luyện kĩ năng sử dụng từ vựng là yếu tố hàng đầu trong việc truyền thụ và
tiếp thu một ngơn ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng. Vì từ vựng là một đơn
vị ngơn ngữ nên nó được thể hiện dưới hai hình thức: Lời nói và chữ viết. Muốn
sử dụng được ngơn ngữ đó, tức là phải nắm vững hình thức biểu đạt của từ bằng
lời nói và chữ viết. Song do có mối liên quan của từ vựng với các yếu tố khác
trong ngôn ngữ (ngữ pháp, ngữ âm, ngữ điệu ...) hoặc trong tình huống giao tiếp.
Nếu khơng có một vốn từ vựng cần thiết thì người học khơng thể sử dụng các
cấu trúc câu và các chức năng ngôn ngữ trong giao tiếp. Tuy nhiên, các quan
điểm dạy và học từ vựng trong tiếng Anh không ngừng biến đổi dẫn đến các
phương pháp dạy và học từ vựng cũng đã có nhiều đổi thay. Do đó, việc lựa
chọn phương pháp dạy hoc như thế nào để phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, tư duy sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng năng lực tự học, khả năng thực
hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên cho học sinh là điều mà tất cả giáo
viên dạy Tiếng Anh quan tâm.
Trong đề án ngoại ngữ 2008-2020 của Bộ GDĐT, mục tiêu cụ thể của
chương trình Tiếng Anh tiểu học là sau khi kết thúc cấp học, học sinh có thể:
-Có vốn từ vựng khoảng 500-700 từ gồm cả khẩu ngữ và bút ngữ.
-Học sinh có thể vận dụng vốn từ vựng đã học trong các tình huống giao tiếp
đơn giản thơng qua bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết trong đó chủ yếu là hai kĩ
năng nghe, nói.
-Có kiến thức tối thiểu về ngôn ngữ tiếng Anh, và thông qua Tiếng Anh có
những hiểu biết ban đầu về đất nước, văn hóa và con người của các nước nói
Tiếng Anh.
-Có thái độ tích cực đối với việc học Tiếng Anh.
-Hình thành các cách học tiếng Anh một cách có hiệu quả, tạo cơ sở cho việc

học ngoại ngữ khác trong tương lai.
Để đạt được mục tiêu trên thật không hề đơn giản bởi nhiều lẽ:
-Việc dạy và học tiếng Anh trong nhà trường diễn ra trong môi trường giao
tiếp của thầy và trị cịn có rất nhiều hạn chế: Dạy học trong một tập thể lớn,
trình độ nhận thức có nhiều cấp độ khác nhau, phương tiện hỗ trợ giảng dạy
4

skkn


chưa đồng bộ. Những điều này làm phân tán sự tập chung của học sinh, tác động
rất lớn đến việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh, làm chậm quá trình tiếp thu kiến
thức của học sinh và sự phân bố thời gian cho từng phần nội dung bài sao cho
phù hợp với từng loại bài giảng (thực hành, kĩ năng) cũng là một tác động tới
việc lựa chọn, nghiên cứu và áp dụng kĩ năng dạy từ vựng sao cho thích hợp.
-Ngồi ra, cịn những yếu tố khác làm ảnh hưởng đến quá trình làm giàu vốn
từ của học sinh Tiểu học như:
+Cảm giác không thoải mái, căng thẳng hay phân tán tư tưởng, bối rối vì
những khái niệm trừu tượng khó hiểu về nguyên tắc ngữ pháp cũng như cách áp
dụng chúng.
+Những hoạt động đòi hỏi chúng phải tập trung chú ý trong một thời gian dài.
+ Sự nhàm chán.
+ Việc giáo viên chữa lỗi quá nhiều.
Hơn nữa:
-Do đa số học sinh còn nhút nhát, thiếu tự tin, ngại phát âm, thực hành giao tiếp.
Thêm vào đó, cấu tạo âm tiết của ngoại ngữ có nhiều khác biệt, do đó khả năng
ghi nhớ từ, cấu trúc câu .. của các em còn hạn chế.
- Học sinh tiểu học rất hiếu động, dễ mất tập trung nên việc dạy ngơn ngữ mới
cho các em gặp khơng ít khó khăn.
-Thiếu nhiều nguồn tài liệu cần thiết để giúp các em hiểu thêm văn hóa của các

nước nói Tiếng Anh.
-Thiếu mơi trường thực tế để học sinh có thể tham gia vào các hoạt động giao
tiếp có ý nghĩa bằng Tiếng Anh.
-Thiếu nguồn kinh phí để làm thêm đồ dùng học tập.
-Nhiều phụ huynh đặc biệt phụ huynh ở vùng nông thôn chưa thấy được tầm
quan trọng của việc học ngoại ngữ nên chưa quan tâm đến môn học này.
Tuy nhiên, hiện nay trong nhà trường tiểu học việc dạy và học tiếng Anh
đang diễn ra cùng với sự đổi mới phương pháp giáo dục, nhằm làm phù hợp
với nhận thức của học sinh, giúp cho học sinh được tiếp cận với các nội dung,
kiến  thức hiện đại. Vốn từ vựng tiếng Anh trong chương trình học cũng được
5

skkn


sử dụng phù hợp với sự phát triển chung của xã hội và đặc điểm tâm lí của
học sinh. Do học sinh tiểu học đang hình thành và phát triển năng lực nhận
thức trên cơ sở tư duy cụ thể nên việc dạy từ vựng cần bắt nguồn từ hệ thống
chủ điểm, chủ đề thú vị, gần gũi với trải nghiệm của các em để quá trình học
tập diễn ra tự nhiên. Ở độ tuổi này học sinh vận dụng từ vựng tốt nhất khi
được tham gia tích cực vào các hoạt động giao tiếp thơng qua các tình huống
cụ thể, các chủ đề quen thuộc. Điều này đòi hỏi mỗi giáo viên phải vận dụng,
linh hoạt, mềm dẻo các phương pháp và kỹ thuật dạy từ nhằm đáp ứng nhu
cầu và điều kiện dạy học khác nhau ở các địa phương. Hơn nữa việc cung cấp
vốn từ cho học sinh phải đảm bảo tính liên thơng giữa các cấp học, tính tích
hợp giữa các chủ đề, chủ điểm. Làm thế nào để cung cấp cho học sinh vốn từ
vựng phong phú và qua đó giúp các em hình thành và phát triển năng lực sử
dụng Tiếng Anh như một cơng cụ giao tiếp? đó là câu hỏi lớn cần được giải
đáp để nâng cao chất lượng học từ vựng của học sinh Tiểu học.
2.Biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy từ vựng mơn Tiếng Anh

Mặc dù rất khó khăn song chúng ta phải nhận thấy rằng việc học Tiếng Anh
ở thời điểm này là sự khởi đầu cho việc xây dựng nền móng tri thức cơ bản cho
học sinh, Là điều kiện cần thiết để các em tiến bước đến các bậc học cao hơn.
Do vậy việc dạy và học Tiếng Anh ở tiểu học là vấn đề rất đáng quan tâm. Để
giải quyết vấn đề đó, giáo viên cần tạo ra những hình thức dạy học phong phú,
đa dạng. Trong đó việc vận dụng tốt các kỹ thuật và phương pháp dạy từ là một
trong những hình thức thu hút được nhiều học sinh tham gia học tập và mang
lại hiệu quả cao trong việc làm tăng vốn từ cho các em.
Để học sinh có hứng thú học tập, chủ động tích cực chiếm lĩnh tri thức thì trong
dạy học giáo viên ln cố gắng đảm bảo quy tắc 4 L (Learn – Live – Love –
Laugh). (Học- sống - yêu- cười). Thật vậy khi dạy cho học sinh tiểu học chúng
ta cần đảm bảo nguyên tắc: Học mà chơi- chơi mà học. Để tạo cho học sinh
cảm giác thoải mái, nhẹ nhàng, GV cố gắng rút ngắn khoảng cách giữa thầy và
trị, xóa bớt mặc cảm tâm lí “sợ cơ”, cơ và trị cùng học cùng vui chơi như
những người bạn. Không nhồi nhét hay biến học sinh thành người thụ động mà
6

skkn


trái lại phát huy tính tích cực trong mỗi cá nhân. Để làm được điều đó bản thân
tơi đã áp dụng một số biện pháp dạy từ vựng sau:
a.Biện pháp 1: Chọn từ để dạy
b.Biện pháp 2:Thực hiện tốt các bước dạy từ
c.Biện pháp 3:Áp dụng các kỹ thuật làm rõ nghĩa của từ
d.Biện pháp 4: Sử dụng biện pháp chống quên ở học sinh tiểu học
3.Thực nghiệm sư phạm
a.Mô tả cách thức thực hiện
a.Biện pháp 1: Chọn từ để dạy
Tiếng Anh có hằng trăm ngàn từ, vì thế việc dạy từ mới quả là một nhiệm vụ

không hề dễ dàng đối với các giáo viên ngoại ngữ. Tuy nhiên cần nhớ là trung
bình một  người nói tiếng bản ngữ chỉ dùng khoảng năm nghìn từ trong giao tiếp
hằng ngày. Hơn nữa, học sinh khơng cần phải dùng chính xác tất cả những từ đã
học vì đơi lúc các em chỉ cần nhận ra và hiểu được thông điệp mà những từ đó
chuyển tải. Vì thế, việc chọn từ để dạy dựa vào tần suất sử dụng và công dụng
của từ theo nhu cầu của học sinh là rất quan trọng.
Ở mơi trường tiểu học hiện nay, khi nói đến ngữ liệu mới là chủ yếu nói
đến ngữ pháp và từ vựng, từ vựng và ngữ pháp ln có mối quan hệ khắng khít
với nhau, ln được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên dạy và
giới thiệu từ vựng là vấn đề cụ thể cần xem xét theo mục đích của đề tài mà tơi
chọn. Thơng thường trong một bài học luôn xuất hiện những từ mới, xong
không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy. Để chọn từ cần dạy, giáo viên
cần xem xét những vấn đề:
-Từ chủ động (active vocabulary)
-Từ bị động (passive vocabulary)
Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên
quan đến bốn kỹ năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại từ này giáo viên
cần đầu tư thời gian để giới thiệu và cho học sinh luyện tập nhiều hơn.

7

skkn


Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời
gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định
xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động.
- Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là:
+ Form.
+ Meaning.

+ Use.
Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ
điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên
cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết phát âm
đúng những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ.
-Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ của
học sinh. Khơng bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ khơng có đủ thời gian thực
hiện các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học ở tiểu học theo tôi chỉ
nên dạy tối đa là 6 từ.
- Trong khi lựa chọn từ để dạy, tôi xem xét đến hai điều kiện sau:
+ Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản khơng ?
+ Từ đó có khó so với trình độ học sinh khơng ?
- Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của
học sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó ta phải dạy cho học sinh nắm
vững với những biện pháp cụ thể tôi sẽ nêu bên dưới.
- Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ của
học sinh, thì nó khơng thuộc nhóm từ tích cực, do đó ta nên giải thích rồi cho
học sinh hiểu nghĩa từ đó ngay.
- Nếu từ đó khơng cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng khơng khó lắm thì
bạn nên yêu cầu học sinh đoán.
b.Biện pháp 2:Thực hiện tốt bước dạy từ
Bước giới thiệu bài, giới thiệu chủ đề: đây là bước khá quan trọng trong
việc dạy từ vựng. Bước này sẽ quyết định sự thành công của tiết học, nó sẽ gợi

8

skkn


mở cho học sinh liên tưởng đến những từ sắp học qua chủ điểm vừa mới được

giới thiệu.
Điều quan trọng nhất trong giới thiệu từ mới là phải thực hiện theo trình tự:
nghe, nói, đọc, viết. Đừng bao giờ bắt đầu từ hoạt động nào khác “nghe”. Hãy
nhớ lại quá trình học tiếng mẹ đẻ của chúng ta, bao giờ cũng bắt đầu bằng nghe,
bắt chước phát âm rồi mới tới những hoạt động khác. Hãy giúp cho học sinh của
bạn có một thói quen học từ mới một cách tốt nhất:
-Bước 1: “nghe”, cho học sinh nghe từ mới bằng cách đọc mẫu hoặc dùng CD
giọng bản ngữ là tốt nhất.
-Bước 2: “nói”,sau khi học sinh đã nghe được ba lần bạn mới yêu cầu học sinh
nhắc lại. Khi cho học sinh nhắc lại, cần chú ý cho cả lớp nhắc lại trước, sau đó
mới gọi cá nhân để kiểm tra và sửa lỗi ngay lập tức cho các em.
-Bước 3: “đọc”,viết từ đó lên bảng và cho học sinh nhìn vào đó để đọc. Cho
học sinh đọc cả lớp, rồi đọc cá nhân và sửa lỗi cho học sinh.
-Bước 4: “viết”,sau khi học sinh đã đọc từ đó một cách chính xác rồi bạn mới
yêu cầu học sinh viết từ đó vào vở.
-Bước 5: Xác định xem học sinh có hiểu nghĩa của từ khơng.
-Bước 6: Đánh trọng âm từ: phát âm lại từ và yêu cầu học sinh nhận diện âm
tiết có trọng âm và đánh dấu.
-Bước 7: Cho câu mẫu và yêu cầu học sinh xác định từ loại của từ mới học.
c.Biện pháp 3: Áp dụng các kỹ thuật làm rõ nghĩa của từ
Trong Tiếng Anh mỗi từ thường có hai mặt: nghĩa của từ và cách sử dụng.
Nghĩa của từ và cách chúng được dùng như thế nào là hai vấn đề khác nhau. Có
nhiều trường hợp khi tra từ điển chúng ta có thể hiểu được nghĩa của từ, song
không phải như vậy là đã biết cách sử dụng từ đó. Cách sử dụng của một từ phụ
thuộc vào chức năng của từ trong câu, ngữ cảnh, thói quen của người sử dụng và
các mối quan hệ của họ với môi trường văn hóa và xã hội. Sau đây là những thủ
thuật làm rõ nghĩa từ mà tôi đã áp dụng:

9


skkn


c.1/ Dùng trực quan: đồ vật thật trên lớp, tranh ảnh, hình vẽ phác hoạ (hình
que), hình cắt dán từ tạp chí, cử chỉ điệu bộ v.v. Có tác dụng mạnh mẽ đến hứng
thú học tập của học sinh và giúp học sinh ghi nhớ nhanh hơn, lâu hơn.
+ Dùng vật thật để dạy về chủ đề đồ dùng học tập ( School things), trang phục
(clothes)

+ Phác họa những hình ảnh đơn giản để dạy hình (shapes), số đếm (numbers),
+ Dùng bảng màu để dạy về màu sắc ( colour)
+ Dùng lịch để dạy các thứ trong tuần (days in a week), các tháng trong năm
(months of the year)
+ Dùng các bộ phận của cơ thể dể dạy về chủ đề cơ thể ( Parts of body)
+ Dùng hoạt động để làm rõ nghĩa các động từ chỉ hoạt động (actions)
+ Bắt chước các động tác, cử chỉ, nét mặt: bản thân GV và HS luôn là nguồn
trực quan sinh động mà khéo vận dụng sẽ mang laị hiệu quả tích cực.
c.2/  Dùng ngôn ngữ đã học:
10

skkn


-Định nghĩa, miêu tả: Học sinh sẽ dựa vào từ đã học và hiểu biết cơ bản để
đoán ra nghĩa của từ qua định nghĩa của giáo viên. Thủ thuật này tạo cho học
sinh sự tị mị và có nhu cầu tham gia vào quá trình học tập đồng thời rèn kỹ
năng nghe cho học sinh.
+ T: It is very big and it has a long nose. What is it?
Ss : Is it an elephant?
T: Yes!

-Dùng từ đồng nghĩa (synonym), từ trái nghĩa (antonym)
Tôi sử dụng từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa để làm rõ nghĩa của một từ khi học
sinh đã biết nghĩa của một từ trong cặp từ đồng nghĩa, trái nghĩa.
- Tạo tình huống: Giáo viên thiết lập tình huống thật đơn giản, dễ hiểu bằng
Tiếng Anh, học sinh đốn nghĩa qua tình huống, có thể bắt chước, sử dụng từ
vào ngữ cảnh giao tiếp và rèn kĩ năng nghe.
-Đưa ra ví dụ giúp học sinh hiểu rõ nghĩa từ:
Bananas, apples, pears, grapes are fruit.
-Dịch sang tiếng mẹ đẻ. (Translation ): Giáo viên dùng những từ tương đương
trong tiếng Việt để giảng nghĩa từ trong tiếng Anh. Giáo viên chỉ sử dụng thủ
thuật này khi khơng cịn cách nào khác, thủ thuật này thường được dùng để dạy
từ trừu tượng, hoặc để giải quyết một số lượng từ nhiều nhưng thời gian không
cho phép, Giáo viên gợi ý học sinh tự dịch từ đó.
c.4. Phối hợp nhiều kỹ thuật trong dạy từ vựng:
Trong quá trình giới thiệu từ mới giáo viên nên phối hợp các kỹ thuật với
nhau. Chẳng hạn giáo viên thiết lập tình huống bằng Tiếng Anh, học sinh sẽ cố
gắng nghe và đoán từ trong ngữ cảnh, kết hợp thể hiện bằng động tác, điệu bộ.
VD sự phối hợp giữa các kỹ thuật sau để dạy từ “run”
- Cho HS xem tranh
- GV thực hiện động tác
- HS bắt chước động tác
- Đưa ra ví dụ
- Dịch sang Tiếng Việt
11

skkn


d.Biện pháp 4: Sử dụng biện pháp chống quên từ ở học sinh Tiểu học
Quên từ mới là một căn bệnh phổ biến ở học sinh tiểu học. Nhiều học sinh

phàn nàn rằng mặc dù đã nhắc đi nhắc lại một từ mới nào đó rất nhiều lần, thậm
chí khi các em cảm thấy đã nhớ được từ mới ấy nhưng lên lớp, nó lại biến đi
đâu mất. Một số nhà nghiên cứu cho rằng căn nguyên của việc quên thông tin là
do chúng ta không sử dụng thông tin được lưu trong trí nhớ thường xuyên và
dần dần chúng biến mất khỏi bộ nhớ. Vì vậy giáo viên cần vận dụng hiểu biết về
cách thức lưu giữ thông tin của não bộ để nâng cao chất lượng học từ vựng của
học sinh.
d.1 Làm cho bài học dễ ghi nhớ
Có rất nhiều cách để làm cho bài giảng dễ dàng đi vào bộ nhớ của học
sinh như dùng tranh ảnh; lồng từ mới vào những ngữ cảnh sử dụng thực tế, thú
vị; kể những câu chuyện tiếng Anh có những từ mà học sinh cần học. Bên cạnh
đó, giáo viên có thể tạo điều kiện để học sinh có thể sử dụng những từ mới học
ấy theo cách riêng của từng em để hoàn thành những nhiệm vụ học tập thực sự
hữu ích cho các em trong cuộc sống.
d.2. Tạo điều kiện để học sinh được thường xuyên sử dụng những từ đã học
Chìa khố để dạy học thành cơng là lặp lại theo những cách thức khác
nhau, sử dụng các kỹ năng khác nhau. Nhằm giúp học sinh nhớ ngay được các
từ vựng hay cấu trúc, chúng ta có thể sử dụng cách lặp lại đơn giản bằng trò chơi
vui nhộn, nó có thể xua tan sự buồn tẻ của giờ học thay vào đó là tạo ra mơi
trường học tập vui vẻ làm tăng sự hứng thú của học sinh đối với việc học, khiến
các em luôn sẵn sàng tham gia giờ học.Sau đây là những trò chơi nhằm củng cố
và tăng vốn từ cho học sinh mà tôi đã áp dụng:
d.2.1. Bingo:
+ Giáo viên cho một số từ đã học.
+ Mỗi học sinh chọn 6 hoặc 9 từ trong số các từ đó và viết vào vở.
+ Giáo viên đọc các từ không theo trật tự.
+ Học sinh đánh dấu  vào từ đã chọn khi nghe giáo viên đọc từ đó.

12


skkn


+ Học sinh nào đánh dấu được 3, 4, hoặc 5 ô vuông theo hàng ngang, hoặc
trên xuống , hoặc theo đường chéo thì nói “ Bingo” và học sinh đó thắng cuộc.
d.2.2 Crossword: ( Trị chơi ơ chữ)
Để kiểm tra vốn từ của các em tôi cũng thường xuyên cho các em chơi trị chơi ơ
chữ: thơng qua hình ảnh gợi ý, các em đốn các chữ cần tìm, nếu đội nào đốn
được nhiều ơ chữ đúng sẽ thắng cuộc.
d.2.3.Matching:
Đây cũng là một họat động rất phổ biến trong tiết dạy từ vựng, HS phải nối từ
với nghĩa của nó và ngược lại, hoặc cũng có thể là nối cặp từ trái nghĩa, số ít với
số nhiều... tùy theo nội dung hay chủ ý của GV.
- Chia lớp làm nhiều nhóm nhỏ
- Phát wordsheet cho các nhóm
- Yêu cầu thực hiện theo nhóm
- Các nhóm kiểm tra chéo kết quả bài làm của nhau
- Thưởng cho nhóm đạt kết qủa cao nhất
d.2.4. Slap the board
+ Giáo viên viết từ mới hoặc đính tranh lên bảng.
+ Gọi hai nhóm lên bảng, mỗi nhóm 6 học sinh
+ Yêu cầu các nhóm đứng cách nhau một khoảng bằng nhau.
+ Giáo viên đọc to một từ Tiếng Anh
+ Lần lượt học sinh ở hai nhóm chạy lên bảng, vỗ vào tranh hoặc từ được gọi.
+ Học sinh thuộc nhóm nào làm đúng và nhanh hơn thì nhóm đó ghi điểm.
+ Nhóm nào ghi được nhiều điểm hơn thì thắng cuộc.
d.2.5.Charades ( trị chơi đố chữ)
Trò chơi này giúp các em biết cách dùng cử chỉ để diễn tả nghĩa của từ.
Giáo viên đặt phiếu từ úp mặt xuống thành từng chồng. Một học sinh nhặt
phiếu trên cùng, dùng cử chỉ để diễn tả nghĩa của từ ấy, cả lớp đoán từ, viêt

vào bảng con.
d.2.6. Jumble words
+GV viết một số từ có các chữ bị xáo trộn lên bảng.
13

skkn


+Yêu cầu HS sắp xếp lại các chữ cái thành từ có nghĩa.
d.2.7.The Alphabet Game:
+ Chia lớp làm ba đội.
+ Giáo viên nói 1 chữ cái. Học sinh tìm các từ bắt đầu bằng chữ cái đó và ghi
vào giấy.
+ Nhóm nào ghi được nhiều từ hơn thì được ghi điểm.
d.2.8. Kim’s game:
+Chia lớp làm 3 đội chơi.
+Quan sát lần lượt 6 bức tranh.
+Các đội chơi nhớ và ghi lại tên các bức tranh đó bằng Tiếng Anh trong thời
gian 1 phút. Ghi đúng mỗi bức tranh đội chơi sẽ được 10 điểm.
d.2.9.A letter ladder
Giáo viên viết lên bảng một từ ngắn. Các em sẽ phải viết một từ mới bắt đầu
bắng chữ cái đầu tiên của một từ đã cho và dài hơn từ đã cho một chữ cái.
d.2.10.Where are the vowels?
+GV viết từ mà nguyên âm bị bỏ trống.
+Đại diện các nhóm viết lại các từ cho đúng lên bảng.
d.3. Ơn từ vựng qua bài hát
Giáo viên ln phải giới thiệu và cho luyện tập từ vựng trong một ngữ
cảnh cụ thể để làm rõ nghĩa hơn và để những trải nghiệm trở nên đáng nhớ hơn.
Các bài hội thoại, truyện ngắn, bài hát đều là những cách hữu hiệu nhằm ngữ
cảnh hố ngơn ngữ để chúng dễ hiểu và dễ nhớ hơn. Công cụ tốt nhất chúng ta

có thể sử dụng trong lớp học là sự dí dỏm; do đó, hãy tìm kiếm những tài liệu có
khả năng gây cười cho học sinh.
Trong lớp học tiếng Anh, từ vựng được ghi nhớ hiệu quả nhất qua các bài
hát có nhiều đoạn lặp lại với nhịp điệu khoẻ và giai điệu dễ nhớ. Thực ra, giáo
viên có thể tự sáng tạo ra một giai điệu đều đều cho hầu hết các cấu trúc hay
chuỗi từ định dạy. Miễn là đảm bảo nhấn đúng trọng âm, thì việc hát những cụm
từ ngắn, hay thậm chí cả những câu hỏi và câu trả lời đơn giản sẽ kích thích học
sinh phát âm và lưu ngôn ngữ vào bộ nhớ.
14

skkn


d.4. Giúp “lưu” ngôn ngữ
Khi học sinh đã “luyện tập” một nhóm các từ hay một cấu trúc cụ thể, phải
đảm bảo những gì có trong trí nhớ ngắn hạn chuyển hố được sang trí nhớ dài
hạn. Để làm được việc này, giáo viên cần tạo ra nhiều cơ hội tái sử dụng và ôn
tập.Lập một ngân hàng những tấm các từ mới cũng là một ý kiến rất hay giúp
học sinh ơn tập những gì đã học.Chia lớp thành những nhóm nhỏ khoảng 4 hoặc
5 em.Cuối mỗi buổi học/ tuần học,yêu cầu học sinh viết lại tất cả những từ mới
đã học lên bảng và yêu cầu các nhóm viết những từ này vào những tấm thẻ rồi
nộp lại.Mỗi giờ học giáo viên mang những tấm thẻ đến lớp để các thành viên
trong nhóm có thể tự kiểm tra nhau hoặc kiểm tra chéo các bạn trong nhóm
khác.Giáo viên yêu cầu học sinh tự chia từ đã học vào những nhóm thích hợp,
thậm chí xây dựng nên một câu chuyện bằng cách trao đổi những tấm thẻ và viết
thêm những câu sử dụng từ được ghi trên mỗi tấm thẻ từ.Bằng cách khuyến
khích học sinh nhớ lại những từ đã học trong những tiết trước và luôn tạo điều
kiện để chúng liên tục tiếp xúc với những từ đó trong những bài học tiếp theo,
giáo viên hồn tồn có thể trị được căn bệnh “học trước quên sau” khi học từ
mới.

d.5. Dạy học sinh phương pháp tự học
Học sinh mới là đối tượng cần phải học từ mới và giáo viên không thể làm thay
các em được. Bởi vậy, muốn trị tận gốc căn bệnh ‘học trước quên sau’, việc dạy
học sinh phương pháp học là rất quan trọng. Ngay khi bắt đầu năm học hãy dành
thời gian giúp học sinh hiểu rõ những khó khăn mà học sinh sẽ gặp phải khi ghi
nhớ thông tin mới và dạy các em phương pháp học sao cho hiệu quả như:
     -Tìm những từ vựng mà học sinh đang cố gắng ghi nhớ khi đọc hay nghe
Tiếng Anh.
     -Viết những câu sử dụng những từ mới học nói về những gì gần gũi với bản
thân.
     -Nhắc học sinh rằng việc ôn tập một cách đều đặn là cách tốt nhất để các em
nâng cao vốn từ vựng mà khơng qn mất những gì đã học.

15

skkn


Tuy nhiên, khơng có phương pháp nào là tốt nhất trong số những phương pháp
đã nêu vì mỗi phương pháp lại giúp học sinh học từ vựng theo một cách khác nhau.
Khi học từ vựng, học sinh thường phải sử dụng rất nhiều phương pháp khác nhau mà
có khi chính các em cũng không nhận thấy. Hiệu quả của việc tự học từ vựng phụ
thuộc rất nhiều vào việc học sinh kết hợp những phương pháp học đơn lẻ như thế nào.
Nhiệm vụ của giáo viên trong trường hợp này là tạo ra những hoạt động và nhiệm vụ
học tập (trên lớp và về nhà) để giúp học sinh làm giàu vốn từ vựng và nắm vững
những phương pháp tự học từ vựng. Nhờ đó học sinh sẽ có cơ hội trải nghiệm, đánh
giá hiệu quả và sau đó quyết định chọn lựa phương pháp tự học hiệu quả nhất.

b.Kết quả đạt được
Có thể thấy việc áp dụng áp đúng đắn và linh hoạt các phương pháp và

kỹ thuật dạy từ vựng như trên cho học sinh tiểu không chỉ mang lại kết quả mỹ
mãn cho người dạy lẫn người học, mà nó cịn tác động rất lớn đến mơi trường
học tập. Tơi nhận thấy khơng khí lớp học trở nên sôi động hẳn lên. Các em học
sinh sôi nổi, hăng say hoạt động, làm việc tích cực hơn, đơi khi các em hồi hộp,
bồn chồn khi chờ đợi kiểm nghiệm thành quả, rồi vỡ òa ra trong sự vui sướng
khi thấy những kết quả mình đạt là một ngân hàng từ vựng phong phú, dồi dào.
Hịa trong khơng khí đó, giáo viên chúng ta cũng sẽ cảm thấy yêu nghề hơn, tự
thấy mình phải có trách nhiệm hơn, nghiêm túc hơn, nhiệt tình hơn trước ánh
mắt khát khao kiến thức mới của học sinh.
Qua khảo sát chất lượng sau khi áp dụng đề tài này tôi nhận ra rằng học
sinh có chuyển biến rõ rệt. Nhìn chung học sinh rất u thích mơn học hơn. Hiểu
bài và nắm bài tốt. Việc rèn luyện bốn kỹ năng ở mức độ khá tốt. Khả năng vận
dụng ngôn ngữ khá.
Năm học 2019-2020 tôi được phân công giảng dạy Tiếng Anh lớp
4B,4C,4D,4E và kết quả đạt được như sau :
Lớp

Số HS

HT tốt

HT

4B

44

19

25


4C

44

20

24

4D

43

19

24

Chưa HT

16

skkn


4E

45

21


24

c.Điều chỉnh,bổ sung sau thực nghiệm
Để có một tiết dạy Tiếng Anh thành cơng thì việc giới thiệu từ vựng, và giúp
học sinh học từ vựng, sử dụng được từ vựng là rất quan trọng. Giáo viên cần xác
định dạy tốt từ vựng Tiếng Anh là giúp cho học sinh bổ sung tốt cho các kỹ
năng: nghe,nói, đọc, viết. Học sinh phát triển được vốn từ vựng, có khả năng lựa
chọn, sắp xếp câu, ý rõ ràng. Rèn luyện khả năng tư duy trí tưởng tượng phong
phú và khả năng dùng từ của học sinh. Qua đó giúp học sinh tự tin, có khả năng
ứng xử, giao tiếp linh hoạt và khả năng sử dụng Tiếng Anh trong sinh hoạt và
trong cuộc sống hàng ngày.Vì vậy sau thực nghiệm tơi đã có sự điều chỉnh trong
giờ dạy của mình:
-Trước khi vào bài mới, giáo viên phải xác định rõ nội dung chính, nắm rõ mục
đích, yêu cầu của bài học để từ đó lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp.
-Tạo giờ học thoải mái, sinh động, hợp tác tin cậy lẫn nhau giữa thầy và trị phát
huy tốt tính tích cực tư duy của học sinh. Giáo viên nên dùng những thuật ngữ
đơn giản, dễ hiểu trong khi giảng bài.
-Giáo viên phải có tác phong đàng hồng, mẫu mực, ứng xử khéo léo, nhiệt tình
với cơng việc.
-Cập nhập thơng tin liên quan đến phương pháp giảng dạy Tiếng Anh trong
trường tiểu học.
-Nắm rõ đặc điểm về tâm lý của học sinh ở từng độ tuổi.
-Bản thân tôi luôn luôn tự học tự rèn, liên hệ trao đổi với đồng nghiệp những
kinh nghiệm trong giảng dạy. Thường xuyên sử dụng đồ dùng dạy học, các trang
thiết bị trong phòng Tiếng Anh.
4. Kết luận
Là một giáo viên Tiếng Anh Tiểu học tôi luôn trăn trở làm thể nào để dạy cho
học sinh hiểu và nắm chắc kiến thức mà các em khơng cảm thấy áp lực. Chính
vì vậy tơi thiết nghĩ việc trau dồi phương pháp không phải là của riêng ai mà là
vấn đề chung cho mọi giáo viên. Cùng một vấn đề song người thầy phải làm thế

nào để nó đơn giản nhất, dễ hiểu nhất , gây hứng thú nhất khi truyền đạt cho các
em, giúp các em hiểu và khắc sâu kiến thức. Trong các phương pháp dạy học
hay của các bạn đồng nghiệp mà tôi đã học hỏi và qua thực tiễn dạy học tơi
muốn góp phần cơng sức nhỏ bé của mình trong phương pháp dạy từ vựng
Tiếng Anh Tiểu học .Rất mong sự đón nhận và đóng góp ý kiến của các cấp lãnh
đạo, Ban giám khảo và anh chị em đồng nghiệp để các biện pháp của tôi được
đầy đủ và hiệu quả hơn. Tôi xin trân trọng cảm ơn!
5.Kiến nghị,đề xuất
a.Đối với tổ/ nhóm chun mơn
17

skkn


-Tổ chun mơn nên có nhiều giờ dạy mẫu để cho giáo viên học hỏi thêm kinh
nghiệm giảng dạy.
b.Đối với lãnh đạo nhà trường
- Các thiết bị hỏng hóc trong phòng Tiếng Anh cần được khắc phục và sửa chữa
kịp thời.
-Hệ thống điện cần phải được tu sửa để đảm bảo tính hữu dụng và an tồn khi sử
dụng.
c.Đối với Phòng GDĐT,Sở GDĐT
-Đề nghị Sở tăng cường các lớp bồi dưỡng về phương pháp dạy học Tiếng Anh
cho giáo viên.
-Phòng GDĐT tổ chức nhiều hơn các buổi tập huấn, chia sẻ kinh nghiệm giảng
dạy bộ mơn để chúng tơi có điều kiện trao đổi, học hỏi, đúc rút kinh nghiệm
trong quá trình giảng dạy.
PHẦN III. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Teaching English to children. A.Scott, Wendy & H.Ytreberg, Lisbeth (2004).
UK: Longman

Teaching languages to young learners. Cameron, L. (2005), Cambridge
University Press.
How to use games in language teaching. Rixon, S. (1984), HongKong:
Macmillan Publishers Ltd.
Teach English. Adrian Doff. Cambridge University Press.
500 Activities for the Primary classroom. Carol Read. Macmillan books for
Teacher.
English for Primary Teachers. Marry Slattery & Jane Willis. Oxford
University Press.
PHẦN IV. MINH CHỨNG VỀ HIỆU QUẢ CỦA GIẢI PHÁP
Có thể thấy việc áp dụng áp đúng đắn và linh hoạt các phương pháp và kỹ thuật
dạy từ vựng như trên cho học sinh tiểu không chỉ mang lại hiệu quả cho người
dạy lẫn người học, mà nó cịn tác động rất lớn đến mơi trường học tập. Tơi nhận
thấy khơng khí lớp học trở nên sôi động hẳn lên. Các em học sinh sôi nổi, hăng
say hoạt động, làm việc tích cực hơn, đơi khi các em hồi hộp, bồn chồn khi chờ
đợi kiểm nghiệm thành quả, rồi vỡ òa trong sự vui sướng khi thấy kết quả mình
đạt được là một ngân hàng từ vựng phong phú, dồi dào. Nhìn chung học sinh
yêu thích mơn học hơn. Hiểu bài và nắm bài tốt. Việc rèn luyện bốn kỹ năng ở
mức độ khá tốt. Khả năng vận dụng ngôn ngữ khá, kết quả học tập của các em
đều nâng lên rõ rệt. Học sinh các lớp ham mê, hào hứng hơn trong các tiết học.
18

skkn


Học sinh tự tin hơn khi trình bày quan điểm trước lớp.Thích nói tiếng Anh khi
chào hỏi ,u cầu , nhờ bạn một việc gì đó và xin phép. Phản ứng nhanh hơn,
nhớ được từ nhiều hơn. Hát thành thạo các bài tiếng Anh trong chương trình. Số
lượng tham gia xây dựng bài ngày càng tăng, có khả năng thực hành tốt các u
cầu của giáo viên.

Hịa trong khơng khí đó, tơi cũng sẽ cảm thấy u nghề hơn, tự thấy mình
phải có trách nhiệm hơn, nghiêm túc hơn, nhiệt tình hơn trước ánh mắt khát
khao kiến thức mới của học sinh.
Qua khảo sát chất lượng sau khi áp dụng các biện pháp này tơi nhận ra
rằng học sinh có chuyển biến rõ rệt. Kết quả đạt được rất khả quan.
Bảng đối chiếu kết quả trước thực nghiệm

Lớp

Số HS

HT tốt

HT

Chưa HT

4B

44

18

23

3

4C

44


19

23

2

4D

43

17

23

3

4E

45

19

24

2

HT tốt

HT


và sau thực nghiệm

Lớp

Số HS

4B

44

19

25

4C

44

20

24

4D

43

19

24


4E

45

21

24

Chưa HT

PHẦN V.CAM KẾT
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến giải pháp của bản thân tôi, không sao chép
nội dung của người khác,các biện pháp đã triển khai thực hiện và minh chứng về
sự tiến bộ của học sinh là trung thực.
Phố Mới, ngày 9
tháng 11 năm 2020
GIÁO VIÊN

19

skkn


Nguyễn Thị
Hương

20

skkn




×