Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Giải pháp tăng lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.34 KB, 65 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. PGS – TS ,TH.S: Phó giáo sư - Tiến sĩ, Thạc sĩ
2. HĐQT, TNHH : Hội đồng quản trị, trách nhiệm hữu hạn
3. CBCNV: Cán bộ công nhân viên
4. HĐKD, HĐTC. HĐBT : Hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt
động bất thường.
5. KHTSCĐ : Khấu hao tài sản cố định
6. TNTT, TNST , VCSH : Thu nhập trước thuế, thu nhập sau thuế, vốn chủ
sở hữu
7. DT, TS : Doanh thu, tài sản
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Hình 1.1: Sơ đồ phương pháp Dupont................................................................. 29
Hình 1.2: Đồ thị điểm hoà vốn..............................................................................32
Hình 2.1: Sơ đồ bộ máy tổ chức của công ty TNHH ĐôngDương......................39
Hình 2.2: Sơ đồ bộ máy kế toán của công ty TNHH Đông Dương.....................40
Bảng 2.3: Kết cấu nguồn vốn của công ty TNHH Đông Dương........................42
Bảng 2.4: Cơ cấu tài sản của công ty TNHH Đông Dương.................................44
Bảng 2.5: Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty TNHH Đông Dương..........46
Bảng 2.6: Một số chỉ tiêu lợi nhuân năm 2006, 2007..........................................48
Bảng 2.7: Mặt hàng tiêu thụ chính của công ty TNHH Đông Dương................49
Bảng 2.8: Chi phí cho hoạt động kinh doanh........................................................51
Bảng 2.9: Cơ cấu chi phí quản lý doanh nghiệp...................................................51

MỞ ĐẦU
Khi nền kinh tế càng phát triển, đời sống người dân được nâng cao,các
nhu cầu của con người ngày càng tăng trong đó có nhu cầu về sức khoẻ, được
khám chữa bệnh cũng tăng.Tuy nhiên, ở Việt Nam thị trường sản xuất các loại
máy móc liên quan đến thiết bị, dụng cụ dùng trong y tế còn chưa phát triển, nên
việc xuất hiện ngày càng nhiều các doanh nghiệp thương mại kinh doanh nhập
khẩu mặt hàng này tại thị trường Việt Nam phù hợp với quy luật cung cầu.


Điều thu hút rất nhiều doanh nghiệp thương mại kinh doanh trên thị trường này
là lợi nhuận đem lại khá lớn. Lợi nhuận chính là mục tiêu hướng tới cho mọi
hoạt động đầu tư trên thị trường.
Khi bỏ tiền vào đầu tư, chủ đầu tư hy vọng sẽ thu được nhiều lợi nhuận,
vậy làm cách nào để tối đa hoá chỉ tiêu này, là sự quan tâm lớn, không chỉ của
chủ đầu tư, mà còn là mối quan tâm của rất nhiều đối tượng khác như: Chính
phủ, của chủ nợ,...
Nhận thức được tầm quan trọng của lợi nhuận, không chỉ qua sách vở, mà
còn qua thực tế hoạt động của công ty TNHH dịch vụ thương mại Đông Dương,
nên đề tài “ Giải pháp tăng lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh “ được chọn
làm chuyên đề tốt nghiệp của em, mong muốn góp sức mình vào việc đưa ra các
giải pháp nhằm tăng lợi nhuận trong hoạt đông kinh doanh của công ty TNHH
dịch vụ thương mại Đông Dương.
1
Bài viết này gồm ba phần:
Chương 1 : Lý luận chung về lợi nhuận của doanh nghiệp
Chương 2 : Thực trạng lợi nhuận của công ty TNHH dịch vụ thương mại
Đông Dương.
Chương 3 : Giải pháp làm tăng lợi nhuận của công ty TNHH dịch vụ thương
mại Đông Dương
Dưới sự giúp đỡ và chỉ đạo tận tình của cô giáo hướng dẫn, TH.S Phan Hồng
Mai, cũng như các anh chị tại cơ sở thực tập, bài viết được hoàn thành.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI NHUẬN CỦA
DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về lợi nhuận của doanh nghiệp
Trong bối cảnh thị trường như hiện nay, có rất nhiều loại hình doanh nghiệp
khác nhau, do cơ chế luật pháp thông thoáng, tư duy của con người thay đổi và
phát triển cao hơn. Vậy doanh nghiệp là gì?

Chúng ta sẽ đi tìm hiểu xem doanh nghiệp sẽ được hiểu như thế nào là đúng
nghĩa nhất.
1.1.1. Doanh nghiệp và phân loại doanh nghiệp
Theo “ Luật Doanh nghiệp ” ban hành ngày 12/6/1999 thì :
“ Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản,có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện hoạt động kinh doanh “. Hoạt động kinh doanh ở đây được hiểu là việc
thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất
đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh
lời.
Như thế có thể hiểu doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách
pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm tăng giá trị của chủ sở
hữu.
Có rất nhiều loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay như: Doanh
nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp danh, công ty
liên doanh, doanh nghiệp tư nhân.
Việc phân loại doanh nghiệp như vậy la dựa vào hình thức sở hữu vốn đầu
tư: Doanh nghiệp nhà nước thì nguồn vốn đầu tư do nhà nước cấp phát, lãi thì
Nhà nước thu một phần lợi nhuận, lỗ thì không phải nộp thuế, còn được cấp phát
vốn. Điều này đã khiến cho đa số doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam kinh
doanh trở nên thua lỗ. Nguy hiểm hơn là cả trong nền kinh tế nước ta có tới 1/2
3
là doanh nghiệp Nhà nước nếu không nói là hầu như chỉ có doanh nghiệp Nhà
nước những năm 90. Nhưng với một thị trường năng động và mở cửa như hiện
nay thì bên cạnh doanh nghiệp Nhà nước còn có:
Công ty cổ phần - tức là doanh nghiệp mà vốn do nhiều thành
viên đóng góp, những thành viên góp vốn gọi là cổ đông. Công ty cổ
phần có quyền phát hành cổ phiếu.
Công ty TNHH, vốn góp cũng do các thành viên công ty đóng góp. Tuy
nhiên, số thành viên trong công ty không vượt quá 50 người và không được phát

hành cổ phiếu.
Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp mà vốn do một thành viên
đứng tên doanh nghiệp. Doanh nghiệp này không có tư cách pháp nhân, không
được phát hành cổ phiếu, người sở hữu vốn trong doanh nghiệp phải chịu trách
nhiệm vô hạn về khoản nợ phát sinh trong doanh nghiệp. Đây là loại hình doanh
nghiệp rất phổ biến hiện nay ở Việt Nam. Ngoài ra còn có các mô hình kinh
doanh khác như: Công ty hợp doanh, hộ gia đình, ...
Ngoài việc phân chia theo hình thức góp vốn, ta có thể phân loại doanh
nghiệp theo chủ thể kinh doanh:
Kinh doanh cá thể( Sole Proprietorship), kinh doanh góp vốn( Parnership),
công ty(Corporation).
Kinh doanh cá thể là loại hình thành lập đơn giản nhất, không cần có điều
lệ chính thức và ít chịu sự quản lý của Nhà nước. Loại hình kinh doanh này
không bị đánh thuế thu nhập doanh nghiệp mà tất cả lợi nhuận được tính vào thu
nhập cá nhân. Đây là loại hình doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân, chủ
doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ và các khoản
nợ, không có sự tách biệt giữa tài sản cá nhân và tài sản của doanh nghiệp.
Thời gian hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc hoàn toàn vào người chủ
sở hữu doanh nghiệp. Khả năng thu hút vốn của loại hình doanh nghiệp này bị
hạn chế bởi nó phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng của người chủ sở hữu.
4
Kinh doanh góp vốn là loại hình doanh nghiệp rất phát triển ở Việt Nam
hiện nay, do việc thành lập doanh nghiệp này hết sức dễ dàng với chi phí thấp,
một số trường hợp cần giấy phép kinh doanh. Các thành viên chính thức có trách
nhiệm vô hạn với các khoản nợ. Nếu như một thành viên không hoàn thành trách
nhiệm của mình thì phần còn lại sẽ do các thành viên khác hoàn trả. Tuổi thọ của
doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào các thành viên chính thức, doanh nghiệp
sẽ tan vỡ nếu một thành viên chết hoặc rút vốn. Việc huy động vốn của loại hình
doanh nghiệp này cũng phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng, uy tín của các thành
viên chính thức, do vậy nó cũng khá hạn chế. Lãi thu được từ hoạt động kinh

doanh của các thành viên phải chịu thuế thu nhập cá nhân.
Hình thức cuối cùng là công ty: đây là loại hình doanh nghiệp mà ở đó có
kết hợp ba loại lợi ích: Các cổ đông ( chủ sở hữu ), của hội đồng quản trị và của
các nhà quản lý. Theo truyền thống, cổ đông kiểm soát toàn bộ phương hướng,
hoạt động và chính sách của công ty. Cổ đông bầu nên hội đồng quản trị, sau đó
HĐQT lựa chọn ban quản lý. Các nhà quản lý hoạt động theo nguyên tắc đem lại
lợi ích tốt nhất cho cổ đông. Việc tách rời quyền sở hữu khỏi các nhà quản lý
mang lại lợi thế cho công ty so với kinh doanh cá thể và góp vốn như:
Quyền sở hữu có thể dễ dàng chuyển nhượng cho cổ đông mới.
Sự tồn tại của công ty không phụ thuộc vào số lượng, tuổi thọ của các cổ
đông.
Trách nhiệm của các cổ đông chỉ giới hạn tại phần vốn góp của cổ đông vào
công ty.
Mỗi loại hình doanh nghiệp có các ưu nhược điểm riêng. Việc phân loại
này chỉ mang tính tương đối. Các mô hình trên đều gọi chung là doanh nghiệp
với chung mục tiêu hoạt động là tối đa hoá lợi nhuận.
Ngày nay trong môi trường xã hội biến động theo từng giờ, mọi hoạt động,
quyết định của doanh nghiệp chịu sự tác động của môi trường mà nó tồn tại.
5
Môi trường ở đây được hiểu là tổng hoá các yếu tố có thể làm thay đổi hiệu
quả kinh doanh của từng doanh nghiệp như:
Sự quản lý của Nhà nước: Một cá nhân, tổ chức có thể tự do lựa chọn
ngành nghề kinh doanh, có thể đưa doanh nghiệp phát triển tới vị trí mong muốn.
Nhưng sự thắt chặt hay nới lỏng của doanh nghiệp đó lại hoàn toàn phụ thuộc
vào sự điều chỉnh bằng luật và các văn bản quy phạm pháp luật., bằng cơ chế
quản lý tài chính. Vì thế ta thấy có một số lĩnh vực kinh tế thì rất phát triển cả về
số lượng người kinh doanh, cả về quy mô nguồn vốn, nhưng một số lĩnh vực
không phải ai kinh doanh cũng được, và với quy mô kinh doanh bao nhiêu là tuỳ
thích.Bởi chúng chịu sự tác động của cơ chế quản lý của Nhà nước.
Một số yếu tố nữa mà doanh nghiệp ngày càng phải thực sự đối đầu, đó là

sự thay đổi của khoa học công nghệ. Sự thay đổi khoa học công nghệ diễn ra
từng ngày, từng tháng đã mang lại rất nhiều thay đổi trong phương thức sản xuất,
tao ra nhiều kỹ thuật mới dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ trong quản lý tài chính
của doanh nghiệp, bởi nó không chỉ mang lại những cơ may mà còn đem lại rất
nhiều rủi ro lớn. Vì vậy, nhà quản lý luôn phải đối đầu với những rủi ro có thể
xảy ra, để có thể ứng phó kịp thời, đúng đắn. Doanh nghiệp với sức ép từ phía thị
trường, từ sự thay đổi tư duy con người, đã chuyển dần từ phương thức sản xuất
kinh doanh cổ điển là chỉ quan tâm đến cái mà mình sản xuất, chuyển sang việc
quan tâm cái mà thị trường cần. Việc tính đến sự tác động của môi trường, sự
thay đổi không ngừng trong cung cách làm ăn của doanh nghiệp là để đạt được
mục tiêu sự phát triển bền vững - tối đa hoá lợi nhuận.
Nếu xa rời mục tiêu này, doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại lâu được. Việc
tìm hiểu chỉ tiêu này, sẽ thấy được tầm quan trọng của nó.
1.1.2. Lợi nhuận của doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm về lợi nhuận
Lợi nhuận là thước đo, là chỉ tiêu để đánh giá sự làm ăn có hiệu quả hay
không của doanh nghiệp.
6
Sự thay đổi liên tục trong phương thức sản xuất kinh doanh, những chiến
lược mới trong phương thức quản lý. Mục tiêu của nó là để cho doanh nghiệp có
thể tồn tại bền vững và từ đó đem lại lợi nhuận nhiều hơn nữa.
Lợi nhuận: Chỉ tiêu mà hầu hết mọi thời kỳ kinh tế, mọi thành phần kinh tế
đều quan tâm và lấy nó làm đích để hướng tới, từ đây cũng nảy sinh rất nhiều
quan điểm khác nhau về lợi nhuận
Các nhà kinh tế học cổ điển trước K.Mark cho rằng, “cái phần trội lên nằm
trong giá bán so với chi phí là lợi nhuận”. Theo Adam Smith lợi nhuận là “khoản
khấu trừ thứ hai” vào sản phẩm của lao động. Còn theo Ricardo “lợi nhuận là
phần giá trị thừa ra ngoài tiền công”
K.Mark thì cho rằng “ giá trị thặng dư, hay phần trội lên nằm trong toàn bộ
giá trị của hàng hoá, trong đó lao động thặng dư hay là lao động không được trả

công của công nhân đã được vật hoá thì tôi gọi là lợi nhuận.
Các nhà kinh tế học hiện đại như Samuelson và W.D.Nordhaus lại cho rằng
“ lợi nhuận là khoản thu dôi ra, bằng tổng số thu trừ đi tổng số chi hay nói cách
khác lợi nhuận được định nghĩa la “Sự chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi
phí” của một doanh nghiệp. David Begg thì cho rằng lợi nhuận là “ khoản dôi ra
của doanh thu so với chi phí ”.
Các khái niệm trên tuy được phát biểu khác nhau song đều có điểm chung,
coi lợi nhuận là số phần thừa ra từ chênh lệch giữa những khoản thu được và chi
phí phải bỏ ra.
Đứng về phía góc độ doanh nghiệp , lợi nhuận là khoản còn lại của doanh
nghiệp sau khi trừ đi toàn bộ chi phí (chi phí nguyên vật liệu, tiền lương, các
khoản về thuế ... )
Lợi nhuận được định nghĩa như vậy, thế nhưng xuất phát từ đâu để có các
khoản lợi nhuận đó, đây quả thật là vấn đề gây rất nhiều tranh cãi.
Phái trọng thương thì cho rằng “ lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh vực lưu
thông “
7
Phái trọng nông lại quan niệm “ Giá trị thặng dư hay sản phẩm thuần tuý là
tặng vật của thiên thiên và của nông nghiệp, là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm
thuần tuý ”
Phái cổ điển mà nổi tiếng là A.Smith là người đầu tiên tuyên bố rằng “ lao
động nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư “ và chính ông ta lại khẳng định giá trị
hàng hoá bao gồm tiền công, lợi nhuận và địa tô. Còn theo Ricardo thì “ Giá do
lao động của công nhân sáng tạo ra, là nguồn gốc sinh ra tiền lương, lợi nhuận
cũng như địa tô “.
Từ hai quan điểm trên, chúng ta thấy rằng cả Adam Smith va Ricardo đều
đã lẫn lộn giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận.
Với tư duy duy vật biện chứng, K.Mard đã xây dựng thành công lý luận về
hàng hoá sức lao động - cơ sở để xây dựng học thuyết giá trị thặng dư, đi đến kết
luận : “ Giá trị thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước,

mang hình thái biến tướng là lợi nhuận “
Kinh tế học hiện đại dựa trên quan điểm của các trường phái và sự phân
tích thực tế thì kết luận lợi nhuận của doanh nghiệp gồm : Thu nhập từ các
nguồn lực mà doanh nghiệp đã đầu tư trong kinh doanh, phần thưởng cho sự
mạo hiểm, sáng tạo đổi mới trong doanh nghiệp và thu nhập độc quyền.
Việc hiểu rõ bản chất của lợi nhuận là điều hết sức cần thiết, đặc biệt là các
nhà quản trị doanh nghiệp, để từ đó họ có thể đánh giá hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp một cách hợp lý, đúng đắn, từ đó có thể đưa ra các quyết định,
biện pháp khác nhau làm tăng cao lợi nhuận.
Phân phối lợi nhuận: Quá trình sản xuất, kinh doanh là quá trình tuần hoàn
liên tục, chu kì này nối tiếp chu kì khác. Để có thể tiếp tục vòng quay này phải
có vốn đầu tư vào, điều này không thể mãi đòi hỏi thừ chủ sở hữu bởi không ai
co một nguồn lực vô hạn như vậy. Để có thể tái mở rộng sản xuất, lợi nhuận
chính là nguồn lực cần thiết và cần phải có. Người ta sẽ phân chia khoản lợi
nhuận đó như thế nào? Giữ lại toàn bộ để tiêu dùng? Đầu tư toàn bộ vào tái sản
8
xuất hay có những phương thức khác? Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào người
chủ doanh nghiệp. Hiện nay có một phương pháp chung mà các doanh nghiệp
hay áp dụng để phân phối lợi nhuận.
Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp một phần dùng để chia lãi cổ phần,
còn lãi là lợi nhuận không chia. Tỷ lệ phần lợi nhuận chia lãi và không chia tuỳ
thuộc vào chính sách của nhà nước ( đối với doanh nghiệp Nhà nước ) hay chính
sách cổ tức cổ phần của đại hội cổ đông (đối với doanh nghiệp khác) ở mỗi
doanh nghiệp trong từng thời kỳ khác nhau.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam, lợi nhuận sau thuế sau khi
nộp phạt và các khoản nếu có được trích lập các quỹ doanh nghiệp như quỹ đầu
tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ dự phòng trợ cấp việc làm, quỹ khen
thưởng và quỹ phúc lợi.
• Các quỹ doanh nghiệp:
Quỹ đầu tư phát triển: Quỹ này được sử dụng vào cá mục đích sau:

Đầu tư mở rộng và phát triển kinh doanh.
Đổi mới, thay thế thiết bị máy móc. dây chuyền công nghệ,
nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Đổi mới trang thiết bị, điều kiện làm việc của doanh nghiệp.
Đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ
cho các cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp.
Bổ sung vốn lưu động.
Tham gia liên doanh, liên kết, mua cổ phiếu.
Trích nộp cấp trên (Nếu có)
Quỹ dự phòng tài chính: Dùng để bù đắp khoản chênh lệch từ những thiệt
hại, tổn thất về tài sản do thiên tai, những rủi ro trong kinh doanh không được
tính vào giá thành và đền bù của cơ quan bảo hiểm.
Trích nộp để hình thành quỹ dự phòng tài chính của tổng công ty (Nếu là
thành viên của tổng công ty) theo tỷ lệ do hội đồng quản trị tổng công ty quyết
9
định hàng năm và được sử dụng để hỗ trợ tổn thất, thiệt hại trong quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp thành viên theo quy chế quản lý tài chính của
tổng công ty.
Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm: Dùng để trợ cấp cho người đang
làm việc tại doanh nghiệp đủ một năm trở lên bị mất việc làm và chi cho việc
đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động do thay đổi công nghệ hay
chuyển sang công việc mới.
Trợ cấp cho người lao động theo ngyên nhân khách quan như: Lao động
dôi ra do thay đổi công nghệ, do liên doanh, do thay đổi tổ chức trong khi chưa
bố trí công việc khác hoặc chưa kịp giải quyết cho thôi việc.
Mức trợ cấp cho thời gian mất việc làm Giám đốc và Chủ tịch Công đoàn
xét cụ thể theo pháp luật hiện hành.
Quỹ phúc lợi: Quỹ này dùng để xây dựng, sửa chữa, bổ xung các công trình
phúc lợi chung trong nghành, hoặc với các đơn vị khác theo thoả thuận, chi cho
hoạt động phúc lợi xã hội, thể thao, văn hoá, phúc lợi công cộng của toàn thể

công nhân viên trong doanh nghiệp, đóng góp cho quỹ phúc lợi xã hội ( Các hoạt
động từ thiện, phúc lợi xã hội công cộng ... ), ...
Ngoài ra, doanh nghiệp sử dụng quỹ này để chi trợ cấp khó khăn cho người
lao động của doanh nghiệp đã về hưu, mất sức hay lâm vào cảnh khó khăn,
không nơi nương tựa.
Ngoài các loại quỹ trên người ta còn phân chia lợi nhuận để hình thành nên
quỹ khen thưởng.
Quỹ khen thưởng dùng để:
Thưởng cuối năm hoặc thường kỳ cho cán bộ công nhân viên trong doanh
nghiệp, mức thưởng do HĐQT , Giám đốc (nếu doanh nghiệp không có HĐQT)
quyết định có ý kiến tham gia của Công đoàn doanh nghiệp trên cơ sỏ năng suất
lao động, thành tích công tác và mức lương cơ bản của mỗi cán bộ, CNV trong
doanh nghiệp.
10
Thưởng đột xuất cho cá nhân, tập thể trong doanh nghiệp có sáng kiến cải
tiến kỹ thuật mang lại hiệu quả kinh doanh.
Việc phân chia lợi nhuận ra thành các quỹ là việc làm cần thiết, nó có thể
giúp cho doanh nghiệp phản ứng một cách nhanh chóng đối với những rủi ro xảy
ra và khích lệ tinh thần cho cá nhân có thành tích. Ngoài ra, việc phân chia lợi
nhuận thành quỹ dự phòng tài chính tạo ra một tâm lý an tâm hơn trong quá trình
sản xuất kinh doanh.
Qua một số phân tích ở trên, ta có thể thấy được lợi nhuận là vô cùng quan
trọng đối với doanh nghiệp. Vậy ngoài doanh nghiệp ra, lợi nhuận còn có vai trò
nào khác? Chúng ta sẽ xem xét ở phần dưới đây:
1.1.2.2 Vai trò của lợi nhuận
Lợi nhuận không chỉ là yếu tố cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp mà còn là nguồn dinh dưỡng trong nền kinh tế của một quốc gia.
Việc xem xét vai trò của lợi nhuận dối với từng đối tượng cụ thể sẽ làm cho
chúng ta hiểu tầm quan trọng của nó.
• Đối với doanh nghiệp

Mục tiêu của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường là lợi nhuận và tối đa hoá lợi nhuận. Nó là chỉ tiêu tổng hợp
nói nên hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận là động cơ, mục đích
của nhà đầu tư khi bỏ vốn ra để kinh doanh. Điều này được thể hiện:
Lợi nhuận là nguồn tích luỹ quan trọng để doanh nghiệp bổ xung vốn vào
mở rộng sản xuất kinh doanh. Bởi vì có lợi nhuận thì mới có thể trích lợi nhuận,
lập các quỹ trong doanh nghiệp như: Quỹ khuyến khích phát triển sản xuất, quỹ
khen thưởng, quỹ phúc lợi. Từ các quỹ này doanh nghiệp có thể bổ xung vốn lưu
động, vốn cố định khi điều kiện sản xuất - kinh doanh đòi hỏi. Cũng chính từ các
quỹ này doanh nghiệp mới có điều kiện nâng cao đời sống của cán bộ công nhân
viên về mọi mặt , góp phần khuyến khích người lao động gắn bó với công việc,
thúc đẩy hoạt động sản xuất kinhdoanh phát triển.
11
Lợi nhuận đạt được cao hay thấp sẽ tác động trực tiếp đến khả năng thanh
toán, có lợi nhuận doanh nghiệp mới có thể thực hiện được các nghĩa vụ với Nhà
nước thông qua thuế và cá khoản phải nộp. Lợi nhuận là nguồn tài chính để
doanh nghiệp trang trải các khoản thua lỗ trước kia hay khoản bị phạt do chậm
nộp thuế, do vi phạm hợp đồng.
Một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ không đủ khả năng tái sản xuất giản
đơn (bù đắp hao phí trong quá trình sản xuất – kinh doanh) thì tình hình tài chính
của doanh nghiệp sẽ xấu đi và hạn chế dần khả năng thanh toán của doanh
nghiệp.
Ngược lại, doanh nghiệp làm ăn có lãi, thu được lợi nhuận cao thì không
những có khả năng thanh toán vững chắc mà còn có điều kiện không ngừng đổi
mới máy móc thiết bị, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất – kinh
doanh giúp cho daonh nghiệp có thể đứng vững trên thị trường và có uy tín.
• Đối với người lao động
Lợi nhuận là nguồn chính để doanh nghiệp trích lập quỹ: quỹ trợ cấp mất
việc làm, quỹ phúc lợi xã hội, quỹ khen thưưởng, quỹ giải quyết nhu cầu xã hội
cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Nguồn để trích lập các quỹ này

càng lớn thì doanh gnhiệp càng có điều kiện nâng cao tinh thần, vật chất cho cán
bộ công nhân viên, từ đó khích lệ họ hăng say trong công tác, nâng cao tính chủ
động sáng tạo trong quá trinh làm việc. Chính vì thế, việc sản xuất có lãi ngày
càng cao chẳng những là yêu cầu, là cơ sở của tái sản xuất mở rộng mà còn là
quyền lợi thiết thực của CBCNV trong doanh nghiệp.
Thực tế đã chứng minh: áp dụng tiền thưởng bằng lợi nhuận đã khuyến
khích công nhân hăng say lao động, giảm bớt ngày nghỉ việc. có trách nhiệm đến
cùng với sản phẩm, đặc biệt thúc đẩy năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật, tiết
kiệm nguyên nhiên vật liệu để hạ giá thành sản phẩm.
• Đối với nền sản xuất xã hội
12
Trước hết ta thấy, thuế là nguồn thu của Ngân sách Nhà nước, nhằm thoả
mãn nhu cầu nền kinh tế quốc dân, là nguồn duy trì bộ máy hành chính, là nguồn
củng cố và tăng cường nguồn lực quốc phòng, cải tiến đời sống vật chất, văn hoá
tinh thần của nhân dân. Muốn thu được thuế thì doanh nghiệp phải làm ăn có lãi.
Sự phát triển của các doanh nghiệp tạo ra sự tích luỹ trong xã hội, tạo ra sự ổn
định về mặt kinh tế cho một quốc gia, từ đó có sự ổn định về chính trị.
Lợi nhuận là yếu tố thúc đẩy sự phát triển xã hội, thông qua việc doanh
nghiệp liên tục cải tiến khoa học kỹ thuật và mở rộng không ngừng để có mức
thu nhập như mong muốn.Trong thời kỳ bao cấp, sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp quốc doanh phụ thuộc hoàn toàn vào sư bao cấp của Nhà nước,
vốn do Nhà nước cấp phát hoàn toàn, sử dụng hiệu quả như thế nào doanh
nghiệp hoàn toàn không chịu trách nhiệm, lỗ đã có Nhà nước bù. Vì thế trong
thời kỳ này, doanh nghiệp làm ăn không năng động do động lực kích thích bị
thui chột, tình trạng thua lỗ kéo dài, từ đó nhìn toàn cảnh xã hội là nghèo nàn, lạc
hậu.
Từ khi xoá bỏ chế độ kinh tế tập chung bao cấp. Doanh nghiệp chuyển sang
chế độ hạch toán kinh doanh, bộ mặt nền kinh tế có sự thay đổi hết sức tích cực.
Doanh nghiệp hoạt động có mục đích của nó, khiến cho nó trở nên năng động,
sáng tạo và luôn đổi mới mình.

Như vậy, có thể đi đến kết luận: Lợi nhuấn có vai trò vô cùng to lớn đối với
nền kinh tế, nó chính là động lực, mục tiêu để doanh nghiệp hoạt động và phát
triển, là nguồn tích luỹ của xã hội, là sự thể hiện sức mạnh của nền kinh tế.
Trên đây, chúng ta thấy sự cần thiết khi doang nghiệp làm ăn có lãi,
nhưng việc tính toán một cách chính xác doanh nghiệp đó có thực sự có lợi
nhuận hay không là việc không phải dễ dàng. Ngày nay, người ta đưa ra
phương pháp để tính toán lợi nhuận của doanh nghiệp.ta sẽ xem xét phần tiếp
theo:
13
1.2. Xác định lợi nhuận của doanh nghiệp
1.2.1. Các yếu tố cấu thành lợi nhuận
Lợi nhuận chỉ là chỉ tiêu phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản
xuất kinh doanh trong doanh nhgiệp. Trong nền kinh tế thị trường năng động, để
tăng cường khả năng cạnh tranh, thu được nhiều lợi nhuận, doanh nghiệp có xu
hướng đa dạng hoá hoạt động sản xuất - kinh doanh của mình trên nhiều lĩnh vực
khác nhau. Do đó, lợi nhuận của doanh nghiệp không chỉ đơn thuần thu được từ
quá trình sản xuất - kinh doanh mà có thể còn thu được từ kết quả quá trình hoạt
động tài chính hay là từ một hoạt động bất thương nào đó. Lợi nhuận của daonh
nghiệp là tổng hợp của các lợi nhuận đó.
Hoạt động kinh doanh là hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá,
dịch vụ của các ngành sản xuất - kinh doanh chính và sản xuất - kinh daonh phụ.
Lợi nhuận thu được từ hoạt động trên gọi là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất -
kinh doanh.
Hoạt động tài chính là hoạt động đầu tư tài chính ngắn hạn, dài hạn nhằm
mục đích kiếm lời như đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản, kinh doanh bất
động sản, buôn bán ngoại tệ. Lãi thu được từ hoạt động trên gọi là lợi nhuận thu
được từ hoạt động tài chính.
Những hoạt động trên đều đã được doanh nghiệp hoạch định từ trước, có kế
hoạch, có sự chuẩn bị hoạt động theo ý muốn. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt
động của doanh nghiệp, có rất nhiều hoạt động không được hoạch định từ trước

mà xảy ra bất ngờ như thanh lý, nhượng bán tài sản cố định, giải quyết tranh
chấp về vi phạm hợp đồng kinh tế, xử lý tài sản thừa thiếu chưa rõ nguyên nhân.
Những hoạt động này cũng đem lại cho doanh nghiệp những khoản thu nhập,
khoản thu này sau khi đã trừ đi các chi phí cho những hoạt động bất thường này
gọi là lợi nhuận từ hoạt động bất thường.
Như vậy, lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm:
 Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất - kinh doanh
14
 Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
 Lợi nhuận từ hoạt đông bất thường.
Việc cần thiết tiếp theo là làm thế nào để tính toán các khoản lợi nhuận
này?
Chúng ta sẽ tính toán theo phương pháp sau:
1.2.2. Phương pháp xác định lợi nhuận
Như đã định nghĩa ở trên, lợi nhuận được hiểu là phần chênh lệch giữa
doanh thu và chi phí, nhưng thực tế thì cũng không hoàn toàn như vậy, bởi vì
phần thu nhật này lại phải chịu một phần thuế thu nhập do Nhà nước đánh. Vì
thế, ta sẽ đưa ra hai khái niệm sau:
• Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp: bao gồm lợi nhuận từ hoạt động
kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động
bất thường.
• Lợi nhuận sau thuế ( thu nhập sau thuế ) của doanh nghiệp là chênh lệch
giữa lợi nhuận trước thuế và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Trong phần nghiên cứu dưới đây, lợi nhuận đề cập là lợi nhuận trước thuế,
gọi chung là lợi nhuận của doanh nghiệp. Như đã nói ở phần trên:
15
Thuế thu
nhập doanh
nghiệp
nghiệp

=
Thu nhập
trước thuế
x
Thuế suất thuế
thu nhập doanh
nghiệp
Lợi nhuận
sau thuế
=
Lợi nhuận trước
thuế
_
Thuế thu
nhập doanh
nghiệp
Lợi nhuận
của doanh
nghiệp
=
Lợi nhuận
từ HĐKD
+
Lợi nhuận
từ HĐTC
+
Lợi nhuận
từ HĐBT
=
Thu nhập

từ HĐBT
_ Chi phí
cho HĐBT
Lợi nhuận
từ HĐBT
Trong đó:
Doanh thu từ hoạt động bất thường là khoản thu về việc thanh lý, nhượng
bán tài sản cố định, tiền thu từ vi phạm hợp đồng, thu các khoản nợ khó đòi mà
nghĩ là đã mất.
Chi phí hoạt động bất thường là những khoản chi như: chi phạt thuế, bị phạt
vi phạm hợp đồng, chi cho thanh lý, nhượng bán tài sản cố định...
Thực ra đây là hợp đồng không thường xuyên và ít xảy ra trong doanh
nghiệp nên tỷ trọng lợi nhuận từ hoạt động này thường rất nhỏ và có thể dễ dàng
hạch toán trong một chu kỳ kinh doanh.
Đối với những doanh nghiệp cho thuê tài chính, hay đối với các
ngân hàng thì lợi nhuận thu được từ hoạt động này chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Doanh thu từ hoạt động tài chính bao gồm:
Khoản thu từ việc mua bán trái phiếu, cổ phiếu, thu nhập từ hoạt động liên
doanh liên kết, thu nhập từ hoạt động cho thuê tài sản, thu nhập từ hoạt động gửi
tiền vào ngân hàng.
Chi phí cho hoạt động tài chính là các chi phí cho việc mua bán chứng
khoán, chi phí cho hoạt động liên doanh, hợp doanh, góp vốn cổ phần, chi phí
cho hoạt động thuê tài chính...
Vì đối tượng nghiên cứu là doanh nghiệp thông thường, nên tỷ trọng từ
hoạt động bất thường, hoạt động tài chính chiếm tỷ trọng nhỏ, không phản ánh
được kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.Phần lợi nhuận chiếm tỷ trọng lớn
trong doanh nghiệp thông thường là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh,
và cũng là mục đích nghiên cứu chính của bài viết này.
16
Lợi nhuận

từ HĐTC
=
Doanh thu
từ HĐTC
-
Chi phí cho
HĐTC
Tuy nhiên việc tính toán được doanh thu tiêu thụ sản phẩm và chi phí cho
hoạt đông kinh doanh trong doanh nghiệp rất khó thực hiện, việc tính toán này
chỉ mang tính tương đối.
Một sản phẩm được sản xuất ra, doanh nghiệp chưa thể coi là đã hoàn thành
công việc của mình, việc có bán được sản phẩm đó trên thị trường hay không sẽ
quyết định thắng lợi của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
được coi là hoạt động xuất bán sản phẩm cho đơn vị mua để nhận được số tiền
về sản phẩm đó. Quá trình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp được coi là hoàn
thành khi doanh nghiệp được chấp nhận trả tiền của bên mua hàng. Việc hoàn
thành quá trình tiêu thụ sản phẩm cũng có nghĩa là doanh nghiệp có doanh thu
tiêu thụ sản phẩm. Doanh thu của doanh nghiệp là số tiền mà khác hàng chấp
nhận trả. Tuy nhiên khi khách hàng chấp nhận trả tiền, thì khoản tiền đó cũng
chưa chắc chắn được coi hoàn toàn là doanh thu của doanh nghiệp, đôi khi hàng
hoá có thể bị trả lại do kém chất lượng, hay do một vài lý do nào đó, khách hàng
trả lại hàng, vì vậy doanh nghiệp phải giảm giá hàng bán, hoặc chiết khấu cho
khách
Do vậy trong nghị định 59 CP có quy định: “Doanh thu từ hoạt động kinh
doanh là toàn bộ tiền bán sản phẩm, hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên thị trường
sau khi đã trừ đi các khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, hàng bán bị
trả lại (nếu có chứng từ hợp lệ ), thu từ phần trợ giá của Nhà nước khi thực hiện
việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu của Nhà nước “.
Các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đem tặng, biếu, cho hoặc tiêu dùng ngay
trong nội bộ doanh nghiệp cũng phải được hạch toán để xác định doanh thu.

Thời điểm để xác định doanh thu là khi người mua hàng đã chấp nhận
thanh toán, không phụ thuộc đã thu hay chưa, ở đây chiết khấu bán hàng là số
17
Lợi nhuận từ
hoạt động kinh
doanh
=
Doanh thu tiêu
thụ sản phẩm dich
vụ
-
Chi phí hoạt
động kinh
doanh
tiền thưởng tính trên tổng doanh thu mà doanh nghiệp trả cho khách hàng đã
thanh toán tiền trước thời hạn quy định.
Giảm giá hàng bán là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn hay
cung cấp dịch vụ cho các nguyên nhân đặc biệt khác như hàng kém phẩm chất,
không đúng quy cách. Ngoài ra còn có khoản thưởng cho khách hàng đã mua
một khối lượng lớn hàng hoá trong một đợt hay trong một khoảng thời gian nhất
định.
Hàng hoá bị trả lại là số hàng đã được coi là tiêu thụ (đã chuyển giao quyền
sở hữu đã thu tiền hay chưa được chấp nhận thanh toán ) nhưng bị người mua từ
chối, trả cho người bán không tôn trọng hợp đồng kinh tế đã ký kết do những
nguyên nhân khác...
Như vậy:
 Thuế gián thu là khoản thuế thu hộ cho Nhà nước như thuế TTĐB,
VAT...
Việc tính toán doanh thu cho hoạt động sản xuất kinh doanh tuy đã rất phức
tạp nhưng việc tính toán chi phí còn khó khăn hơn. Chi phí hiểu theo nghĩa

chung nhất là tất cả những gì làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Người ta có
rất nhiều cách tiếp cận chi phí khác nhau, và từ đó cách phân loại khoản chi của
18
Lợi nhuận từ
HĐKD
=
Doanh thu
thuần
-
Chi phí hoạt
động kinh
doanh
Doanh thu
thuần
=
Tổng
doanh thu
-
Các khoản
giảm trừ
doanh thu
Tổng
doanh thu
-
Chiết khấu
bán hàng
-
Giảm giá
hàng bán
=

- Hàng bán
bị trả lại
- Thuế gián
thu
doanh nghiệp cuãng khác nhau. Có thể phân loại chi phí sản xuất và chi phí tiêu
thụ sản phẩm.Chi phí cho hoạt động sản xuất thì chỉ có ở những doanh nghiệp
sản xuất, nó thường chiếm một tỷ trọng lớn nhất trong tổng các khoản chi phí
của doanh nghiệp.
Trong quá trình sản xuất, doanh nghiệp phải tiêu hao các loại vật tư,
nguyên vật liệu, hao mòn máy móc thiết bị, trả công cho người lao động...Do
vậy chi phí sản xuất của một doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả các
hao phí về vật chất và về lao động mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản
phẩm trong một thời kỳ nhất định. Các chi phí này phát sinh có tính thường
xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm. Do đặc điểm của chi phí sản
xuất là chi phí hàng ngày gắn liền với từng vị trí sản xuất, từng loại sản phẩm và
từng loại hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc tổng hợp, tính toán chi phí sản
xuất cần được tiến hành trong từng khoảng thời gian nhất định không phân biệt
sản phẩm đã hoàn thành hay chưa hoàn thành. Để quản lý và kiểm tra chặt chẽ
việc thực hiện các định mức chi phí, tính toán được kết quả tiết kiệm chi phí ở
từng bộ phận sản xuất và toàn doanh nghiệp, kiểm tra và phân tích quá trình phát
sinh chi phí và hình thành giá sản phẩm người ta cần phân loại chi phí sản xuất.
Thông thường người ta sử dụng các phân loại chi phí như sau:
Thứ nhất: phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố, tức là sắp xếp các chi
phí có cùng tính chất kinh tế vào một loại, mỗi loại là một yếu tố chi phí, theo
cách phân loại này thì chi phí sản xuất bao gồm 3 nhóm yếu tố sau:
 Chi phí vật tư
 Lương công nhân trực tiếp
 Chi phí sản xuất chung
Thứ hai: phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục tính giá thành. Cách
phân loại này dựa vào công dụng kinh tế và địa điểm phát sinh của chi phí để sắp

xếp chi phí thành những khoản mục nhất định, qua đó, phân tích tác động của
từng khoản mục của chi phí đến giá thành.
19
Thứ ba: phân loại chi phí sản xuất thành chi phí cố định và chi phí biến
đổi. Phân loại chi phí theo cách này để có phương thức quản lý phù hợp với từng
loại chi phí.
Để quản lý tốt chi phí, ngoài phân loại chi phí, các doanh nghiệp cần phải
xem xét cơ cấu chi phí sản xuất để định hướng thay đổi tỷ trọng mỗi loại chi phí
sản xuất.
Cơ cấu chi phí sản xuất là tỷ trọng giữa các yếu tố chi phí trong tổng số chi
phí sản xuất. các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành khác
nhau. Cơ cấu chi phí sản xuất chịu tác động của nhiều yếu tố như: loại hình và
quy mô sản xuất của từng doanh nghiệp, trình độ kỹ thuật, trang thiết bị, điều
kiện tự nhiên, công tác tổ chức, năng lực quản lý, trình độ tay nghề của công
nhân...
Việc nghiên cứu cơ cấu chi phí có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó giúp cho
doanh nghiệp:
 Xác định tỷ trọng và xu hướng thay đổi của từng yếu tố chi phí sản xuất
 Kiểm tra giá thành sản phẩm và có biện pháp hạ giá thành sản phẩm.
Đối với một doanh nghiệp sản xuất thì ngoài chi phí cho hoạt động sản xuất
ra các sản phẩm còn có:
Chi phí tiêu thụ sản phẩm
Đối với các doanh nghiệp, tiêu thụ sản phẩm là hết sức quan trọng. Khối
lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ ảnh hưởng quyết định tới quy mô sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Để thực hiện tiêu thụ sản phẩm , doanh nghiệp
cũng phải bỏ các chi phí nhất định.
Chi phí lưu thông sản phẩm bao gồm: Chi phí trực tiếp tiêu thụ sản phẩm;
chi phí hỗ trợ Marketing và phát triển.
Chi phí trực tiếp tiêu thụ sản phẩm bao gồm: chi phí chọn lọc, đóng gói; chi
phí vận chuyển, bao bì, vận chuyển, bảo quản; chi phí thuê kho bến bãi...

20
Chi phí hỗ trợ Marketing và phát triển bao gồm: chi phí điều tra nghiên cứu
thị trường; chi phí quảng cáo, giới thiệu sản phẩm; chi phí bảo hành sản
phẩm...tỷ trọng của chi phí này có xu hướng tăng trong điều kiện nền kinh tế thị
trường phát triển.
Nghiên cứu chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho biết lượng chi phí cần
thiết bỏ ra trong toàn bộ quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tuy nhiên nó lại
không thể cho ta biết, một sản phẩm sản xuất ra thì cần bao nhiêu chi phí. Mặt
khác, trong hoạt động kinh doanh, khi quyết định lựa chọn phương án kinh
doanh một loại sản phẩm nào đó, doanh nghiệp cần phải tính đến lượng chi phí
bỏ ra để sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm hoặc một khối lượng sản phẩm đó.
Do vậy, doanh nghiệp cần phải xác định giá thành sản phẩm:
Giá thành sản phẩm được hiểu theo nghĩa chung nhất là biểu hiện bằng tiền
toàn bộ chi phí của doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất hoặc để sản
xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định.
Giữa giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất có sự giống và khác nhau: chi
phí sản xuất hợp thành giá thành sản phẩm,nhưng không phải toàn bộ chi phí sản
xuất phát sinh sản xuất trong kỳ đều được tính vào giá thành sản phẩm trong kỳ.
Giá thành sản phẩm phản ánh lượng chi phí để hoàn thành sản xuất hoặc sản
xuất và tiêu thụ một đợn vị hay khối lượng sản phẩm nhất định, còn chi phí sản
xuất và lưu thông sản phẩm thể hiện số chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm trong một thời kỳ nhất định, thời kỳ này thường là một
năm.
Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, có thể phân biệt giá thành sản
xuất sản phẩm và giá thành tiêu thụ sản phẩm. Giá thành sản xuất tiêu thụ sản
phẩm (đối với sản phẩm xây dựng là giá thành thi công ) bao gồm toàn bộ chi
phí bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm. Giá thành tiêu thụ sản phẩm còn
được gọi là giá thành toàn bộ sản phẩm bao gồm toàn bộ chi phí để hoàn thành
cả sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
21

×