Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Bài thu hoạch môn quản lý kinh tế phân tích chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở việt nam thời kỳ 2006 2015 ý nghĩa lý luận, thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.25 KB, 19 trang )

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................2
NỘI DUNG.................................................................................................................3
PHẦN I. CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ......................................3
NHIỀU THÀNH PHẦN THỜI KỲ 2006 – 2015....................................................3
1.1. Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tại Đại hội X ( 2006)....3
1.2. Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tại Đại hội XI ( 2011).5
1.2.1. Đa dạng hố các hình thức sở hữu.................................................................5
1.2.2. Coi trọng mọi hình thức sở hữu và loại hình kinh doanh..............................6
1.2.3. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước.........................................7
PHẦN II. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN...............................................10
2.1- Ý nghĩa lý luận..................................................................................................10
2.2 – Ý nghĩa thực tiễn.............................................................................................11
KẾT LUẬN..............................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................19

1


PHẦN MỞ ĐẦU
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng cộng sản Việt Nam đã
đánh giá tình hình đất nước, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế ,ln ln ở
tình trạng trì trệ , chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn,
tình hình trì trệ ấy có ngun nhân khách quan khách quan như nền kinh tế
đang gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề của chiến tranh lâu dài, viện
trợ từ bên ngoài giảm so với thời kỳ trong chiến tranh nhưng nguyên nhân chủ
yếu làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về kinh tế và xã hội vẫn là mơ
hình kinh tế khơng phù hợp với quy luật kinh tế khách quan. Chính những
khó khăn của đất nước buộc Đảng ta phải suy nghĩ, phân tích tình hình
ngun nhân , tìm tịi các giải pháp , trong đó Đảng ta đã khẳng định sự cần


thiết của nền kinh tế nhiều thành phần, đây là mơ hình kinh tế được xây dựng
trên cơ sở tổng kết thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta, vận dụng một cách
sáng tạo những quan điểm của Lênin về “chính sách kinh tế mới” vào điều
kiện lịch sử ở nước ta và thế giới ngày nay, đặc biệt là từ khi Liên Xô và các
nước XHCN ở Đông âu sụp đổ.
Thực hiện mô hình kinh tế mới nhằm mục tiêu căn bản cấp thiết là tăng
nhanh lực lượng sản xuất , từng bước cải thiện đời sống nhân dân, tạo cơ sở
vật chất và xã hội cho việc từng bước hoá nền sản xã hội.
Chính trong sự cấp thiết về tầm quan trọng của vấn đề “cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần ở nước ta” mà em đã chọn đề tài “Phân tích chính sách
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam thời kỳ 2006- 2015. Ý
nghĩa lý luận, thực tiễn”

2


NỘI DUNG
PHẦN I. CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ
NHIỀU THÀNH PHẦN THỜI KỲ 2006 – 2015
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã được Đảng ta nêu ra từ Đại
hội VI (1986). Đây là chủ trương, chính sách nhất quán và lâu dài của Đảng
ta, cho đến nay đã trải qua 25 năm đổi mới, thực tiễn đã chứng minh rằng, đây
là một luận điểm, một chính sách hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan,
là quyết sách chiến lược đúng đắn, sáng tạo góp phần vào “những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử”.
1.1. Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tại Đại hội X
( 2006)
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội dung
cơ bản của Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở
nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí là:

Về mục đích phát triển: Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ, văn minh, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và khơng
ngừng nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến
khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát khỏi
nghèo và từng bước khá giả hơn”.
Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế vì con người, giải
phóng lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống cho mọi
người, mọi người đều được hưởng những thành quả phát triển. Ở đây thể hiện
sự khác biệt với mục đích tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của các nhà tư
bản, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản.
Về phương hướng phát triển: Phát triển các thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

3


Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế là nhằm giải phóng mọi tiềm năng để phát triển trong mọi thành phần kinh
tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền… phát huy tối đa nội lực để phát
triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước
giữ vai trị chủ đạo, là cơng cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định
hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Để giữ vai trò chủ đạo kinh tế nhà nước phải nắm được
các vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa học, công nghệ tiên
tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao chứ không phải dựa vào bao cấp, cơ
chế xin cho hay độc quyền kinh doanh. Mặt khác, tiến lên chủ nghĩa xã hội
đặt ra yêu cầu nền kinh tế phải được dựa vào nền tảng của sở hữu toàn dân
các tư liệu sản xuất chủ yếu.

Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế
gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào
tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
Quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội vừa đảm bảo sự phát triển bền
vững, vừa thể hiện rõ định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, hạn chế tác
động tiêu cực của kinh tế thị trường, thực hiện mục tiêu phát triển con người.
Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện
qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc
lợi xã hội. Đồng thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển cịn
thực hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.
Về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai
trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự thể hiện rõ rệt định hướng xã hội chủ nghĩa
và cũng là sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự quản lý, điều tiết nền kinh
tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng pháp luật đảm bảo mục đích của nền
4


kinh tế, sự vận động của chế độ sở hữu, phân phối theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, đảm
bảo quyền lợi chính đáng của mọi con người.
Những tiêu chí trên vừa thể hiện tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế thị trường ở nước ta, vừa thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
1.2. Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tại Đại hội
XI ( 2011)
Trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta lại tiếp tục khẳng định tính khách
quan của việc đa dạng hóa các hình thức sở hữu, coi trọng mọi thành phần

kinh tế, mọi hình thức kinh doanh và vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế
nhà nước.
1.2.1. Đa dạng hố các hình thức sở hữu
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới, Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã
có những khái quát mới về lý luận: “Phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối.”
Lần đầu tiên trong Văn kiện, Đảng ta nêu đa dạng hóa các hình thức sở
hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Đây là một bước
phát triển mới trong nhận thức lý luận của Đảng về nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội chúng ta ngày càng nhận thức rõ
hơn mối quan hệ giữa chế độ sở hữu, hình thức sở hữu và loại hình kinh
doanh. Mỗi chế độ sở hữu trong thực tiễn có thể có nhiều hình thức sở hữu
mà ở đó sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất và biểu hiện ra là các loại hình kinh doanh có hiệu quả cao góp
vào q trình tăng trưởng kinh tế. Sự phát triển đa dạng của các hình thức sở
hữu là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất càng đa

5


dạng, trình độ xã hội càng phát triển, quan hệ sản xuất càng mở rộng thì tính
đa dạng trong quan hệ sở hữu cũng ngày càng tăng lên.
Vì vậy, Văn kiện Đại hội XI của Đảng chỉ nhấn mạnh “Phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh”, cịn số lượng các
hình thức sử hữu, các thành phần kinh tế và theo đó là bao nhiêu loại hình
doanh nghiệp là do nhu cầu khách quan của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất quyết định. Đây là một bước tiến nhằm tạo một không

gian mở cho quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất hoạt động, để có thể tránh giáo điều chủ quan.
1.2.2. Coi trọng mọi hình thức sở hữu và loại hình kinh doanh
Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã đưa ra khái quát mới về mặt lý luận:
“Tiếp tục thể chế hóa quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức
sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền
và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, các loại
hình doanh nghiệp trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu
đối với các loại tài sản mới như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên
nước..., quy định rõ quyền, trách nhiệm của các chủ sở hữu đối với xã hội”. 
“Hồn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở
thành một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại
hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và
quy định của pháp luật. Tạo điều kiện hình thành một số tập đồn kinh tế tư
nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”, “Các thành
phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng
của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh”.
Có thể có ý kiến cịn băn khoăn về cách tiếp cận nêu trên của Văn kiện
Đại hội XI của Đảng so với lý luận của V.I. Lê-nin về các thành phần kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta biết rằng, nhận thức về
6


thành phần kinh tế của V.I. Lê-nin cũng rất uyển chuyển, linh hoạt phù hợp
với các giai đoạn phát triển khác nhau: Giai đoạn áp dụng chính sách cộng
sản thời chiến, thành phần kinh tế được nhấn mạnh trên cơ sở quan hệ sở hữu
nhất định, nhưng khi chính sách kinh tế mới (NEP) ra đời, thành phần kinh tế
lại được nhấn mạnh đến các hình thức kinh tế.
Như vậy, ở các giai đoạn khác nhau thì nhận thức về thành phần kinh tế

cũng có sự thay đổi, đó là quá trình khách quan phù hợp với quy luật nhận
thức. Vì vậy, quá trình đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức về các thành phần
kinh tế ở nước ta qua các kỳ đại hội của Đảng là hoàn toàn phù hợp với
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phù hợp với
thực tiễn Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, thời kỳ đang phát
triển cả về chiều rộng và chiều sâu.
1.2.3. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
Trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát
triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động
lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích
phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các
tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển”.
Như chúng ta đã biết, tại Đại hội VIII (năm 1996) Đảng ta lần đầu tiên
đưa ra phạm trù kinh tế nhà nước thay vì cách gọi kinh tế quốc doanh trước
đó, với nội hàm rộng hơn, bao quát được toàn bộ các hoạt động quản lý tài
nguyên của đất nước; những cơ sở hạ tầng được tạo ra; các loại quỹ của quốc
gia; các doanh nghiệp nhà nước bao gồm cả doanh nghiệp cơng ích và doanh
nghiệp kinh doanh... nhờ đó đã giải quyết được vấn đề nhận thức thực tiễn
cũng như lý luận về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả cao sẽ góp phần tăng
cường tiềm lực và sức mạnh của kinh tế nhà nước trong sứ mệnh chủ đạo
7


trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho nên, việc tăng
hay giảm cả về quy mô, số lượng, chất lượng hiệu quả sản xuất, kinh doanh
của các doanh nghiệp nhà nước chỉ phản ánh một bộ phận của kinh tế nhà
nước nói chung, chứ khơng thể coi đó là tồn bộ kinh tế nhà nước với vai trò

chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng cũng chỉ rõ: “Nhà nước quản lý nền kinh
tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp
luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất”. Luận
điểm nêu trên của Đảng ta là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn kinh tế khách
quan. Bài học từ các nền kinh tế lớn vừa qua cũng cho thấy, vai trị của nhà
nước khơng chỉ thể hiện ở sự điều hành vĩ mô nền kinh tế, mà còn ở thực lực
của kinh tế nhà nước.
Cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế tồn cầu bắt nguồn từ Mỹ và cuộc
khủng hoảng nợ công ở các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) hiện
nay đã nói lên điều đó. Mỹ là nền kinh tế mạnh nhất toàn cầu, chiếm 30%
GDP của thế giới, nhưng thực lực kinh tế lại nằm trong tay các tập đoàn kinh
tế tư nhân, nên khi các “đại gia” sụp đổ thì nhà nước cũng đứng trước nguy cơ
vỡ nợ. Học thuyết chủ nghĩa tự do mới, với việc hạn chế sự can thiệp của nhà
nước vào hoạt động kinh tế đã bị sụp đổ hồn tồn. Ơng Ni-cơ-la Xác-cơ-di,
Tổng thống Pháp đồng thời là Chủ tịch luân phiên của Liên minh châu Âu
(EU) đã kêu gọi phải “tái xây dựng một chủ nghĩa tư bản điều chỉnh”.  
Như vậy, để chuyển biến nhận thức từ giai đoạn phân chia các thành
phần kinh tế thành hai loại: kinh tế xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ
nghĩa (trước đổi mới), đến thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần (trong đổi
mới), và thừa nhận tất cả các thành phần kinh tế đều là những bộ phận cấu
thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình
lâu dài, phải trải qua hơn 15 năm đổi mới (đến Đại hội IX năm 2001). Ngày
nay, từ kết quả 25 năm đổi mới chúng ta lại có một bước tiến quan trọng trong
quá trình nhận thức bằng việc khẳng định vai trò của các thành phần kinh tế
8


qua sự đóng góp đối với sự tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mang lại cho nền
kinh tế quốc dân.

Vì thế, trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Các
thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan
trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế
tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có
vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu
hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày
càng phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị
trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh
tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa”.

9


PHẦN II. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1- Ý nghĩa lý luận
Thứ nhất: Do đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ
lịch sử đặc biệt, cịn có sư đan xen giữa các yếu tố của xã hội cũ và xã hội
mới. Nên trong lĩnh vực kinh tế, tất nhiên cũng sẽ bao gồm những thành phần
kinh tế của xã hội cũ cùng với thành phần kinh tế của xã hội mới ra đời.
Thứ hai: Theo yêu cầu của quy luật: quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất nên trong thời kỳ quá độ, qúa
trình xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải trên cơ sở phát triển
của lực lượng sản xuất.
Thứ ba: Do tính chất khó khăn, phức tạp, lâu dài của công cuộc cải biến
quan hệ sản xuất cũ; xây dựng, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới
đòi hỏi.
Thứ tư: Trong thời kỳ quá độ, các thành phần kinh tế cũ do lịch sử để lại

vẫn cịn có vai trị, tác dụng tích cực để phát triển sản xuất như: giải quyết
việc làm cho người lao động, duy trì và phát triển ngành nghề truyền thống,
tăng thu nhập cho người dân, nâng cao đời sống... Do đó phải để cho kinh tế
cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân tồn tại, hơn nữa phải tạo điều kiện, mơi
trường cho nó tồn tại và phát triển. Nhận thức và hành động như vậy mới phù
hợp với quy luật khách quan, phù hợp với lợi ích kinh tế của các giai tầng
trong xã hội, góp phần ổn định sản xuất và đời sống.
Thứ năm: Do yêu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi: Để
tăng trưởng và phát triển kinh tế, củng cố và phát triển hệ thống chính trị, xã
hội, nhà nước phải xây dựng hệ thống cơ sở kinh tế mới, cùng với kết quả của
q trình quốc hữu hố, hình thành thành phần kinh tế nhà nước, đây là bộ
phận giữ vai trò chủ đạo, là nền tảng thực sự của nền kinh tế quốc dân.
Thứ sáu: Do đòi hỏi của q trình tồn cầu hố kinh tế, chúng ta phải
tham gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế, phải có chính sách mở
cửa nền kinh tế, phải thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên mọi
10


lĩnh vực nhất là về kinh tế để kết hợp sức mạnh trong nước với ngoài nước,
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Với yêu cầu trên, Đảng ta có phương châm: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hồ bình,
độc lập và phát triển. Chúng ta đã thực hiện đa phương hoá quan hệ kinh tế,
đa dạng hố các hình thức quan hệ quốc tế, thơng qua hợp tác và đầu tư nước
ngồi đã liên doanh, liên kết với kinh tế tư bản ngoài nước nên xuất hiện
thành phần kinh tế mới: kinh tế tư bản nhà nước, và khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài.
2.2 – Ý nghĩa thực tiễn
Việt Nam đã dần hình thành đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các
loại thị trường, vận hành cơ bản thông suốt, gắn kết với thị trường khu vực và

quốc tế. Thị trường hàng hóa, dịch vụ đã có bước phát triển và hồn thiện về
quy mơ, cơ cấu hàng hóa - thị trường trong và ngoài nước, kết cấu hạ tầng
thương mại, dịch vụ, cơ chế quản lý, mức độ cạnh tranh. Quy mơ thị trường
trong nước liên tục tăng. Tính chung trong hơn 15 năm qua, tốc độ tăng
trưởng bình quân của thương mại bán lẻ luôn cao từ 2 -3 lần so với tốc độ
tăng trưởng bình quân của GDP cùng kỳ. Thị trường tài chính, tiền tệ phát
triển khá mạnh và sôi động. Bên cạnh kênh huy động vốn từ ngân hàng, thị
trường chứng khốn đã bước đầu hình thành, góp phần đa dạng hóa nguồn
vốn đầu tư. Đồng thời, hoạt động của thị trường bảo hiểm đã đóng góp tích
cực vào việc ổn định sản xuất và đời sống dân cư, huy động vốn cho sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tỷ giá đồng tiền, giá ngoại tệ,
giá vàng cơ bản giữ được ổn định. Thị trường bất động sản đã có bước phát
triển nhất định, nhiều dự án khu nhà ở, khu đô thị mới với hệ thống hạ tầng kỹ
thuật, hạ tầng xã hội tương đối đồng bộ đã được hình thành, góp phần đơ thị
hóa và dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Thị trường lao động đã được
hình thành trên phạm vi cả nước. Nguồn cung lao động khá dồi dào và gia
11


tăng với tốc độ nhanh. Quy mô lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên tăng từ
50,51 triệu người (cuối năm 2010) lên 53,65 triệu người (cuối năm 2013) và
53,8 triệu người (năm 2014). Thị trường khoa học - công nghệ đang hình
thành và phát triển, số lượng và giá trị giao dịch cơng nghệ có bước tiến đáng
kể trong những năm gần đây. Thị trường một số loại dịch vụ công cơ bản,
nhất là về y tế, giáo dục có bước phát triển mới, huy động được các nguồn lực
ngoài ngân sách nhà nước tham gia. 
Khung khổ thể chế từng bước được hồn thiện tạo điều kiện phát huy vai
trị tích cực của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, trong tự do
kinh doanh và cạnh tranh theo quy định của pháp luật: Kinh tế nhà nước, hệ

thống doanh nghiệp nhà nước từng bước được cơ cấu lại, cổ phần hóa theo
Luật Doanh nghiệp và đang giảm mạnh về số lượng. Đề án tái cấu trúc doanh
nghiệp nhà nước giai đoạn 2011-2015 được phê duyệt và tích cực thực hiện.
Cổ phần hóa và thối vốn đầu tư ngồi ngành theo cơ chế thị trường được đẩy
mạnh, trong đó tập trung vào các tập đồn, tổng cơng ty nhà nước. Tính đến
30-9-2014 đã thực hiện sắp xếp lại 6.883 doanh nghiệp nhà nước, trong đó cổ
phần hóa 4.136 doanh nghiệp. Kinh tế tập thể bước đầu được đổi mới, các
hình thức hợp tác kiểu mới được hình thành phù hợp hơn với cơ chế thị
trường, theo nguyên tắc hợp tác cùng có lợi. Kinh tế tư nhân tăng nhanh về số
lượng, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh, giải quyết việc làm, đóng
góp ngày càng lớn vào GDP. Kinh tế tư nhân hiện đóng góp khoảng 45,7%
GDP, 86% số việc làm và 39% tổng đầu tư toàn xã hội. Đầu tư tư nhân trong
nước tiếp tục tăng lên. Năm 2011, tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp tư nhân
là 340 nghìn tỷ đồng, năm 2012 là 385 nghìn tỷ đồng, năm 2013 là 410,5
nghìn tỷ đồng, năm 2014 khoảng 433 nghìn tỷ đồng và năm 2015 ước là 490
nghìn tỷ đồng. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát
triển, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi (FDI) đã có những đóng
góp quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giải
quyết việc làm và xuất khẩu(1).
12


Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn liền
với hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức,
theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Việt Nam đã thiết lập
được các quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế ; tích cực xây dựng Cộng đồng
kinh tế ASEAN và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết
WTO; đàm phán, ký kết và thực hiện nhiều Hiệp định thương mại tự do song
phương và đa phương thế hệ mới. Các yếu tố nền tảng cơ bản của kinh tế thị
trường dần được hình thành và được nhiều nước thừa nhận. Cho đến nay đã

có gần 50 quốc gia cơng nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường,
trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Cùng với đó, trên 90
Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo
hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần đã được ký kết. Quan hệ hợp
tác đa phương và khu vực tích cực hơn với nhiều tổ chức tài chính quốc tế
như Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân
hàng Thế giới (WB). Việt Nam hiện đang tham gia nhiều hiệp định thương
mại tự do khu vực và song phương (FTA), mới đây nhất đã ký kết FTA với
Hàn Quốc, Liên minh kinh tế Á - Âu; đã chủ động tham gia và đưa ra nhiều
đề xuất nhằm thúc đẩy đàm phán Hiệp định Ðối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP), Hiệp định Ðối tác kinh tế khu vực toàn diện (RCEP); đàm phán Hiệp
định Thương mại Tự do (FTAs) với Liên minh châu Âu (EU),... Việc tham
gia ký kết và đàm phán tham gia các hiệp định FTA có tác động tích cực tới
phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và
sản phẩm, phát triển nông nghiệp, nông thôn, giải quyết lao động, tạo công ăn
việc làm, nâng cao tiền lương và thu nhập. Việc hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng và đa dạng đã tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế nước ta. Thị
trường xuất khẩu của Việt Nam được mở rộng đến 230 quốc gia và vùng lãnh
thổ, kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2011-2013 tăng bình qn 22,58%/năm.
Mơi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện, tạo thuận lợi cho các doanh
nghiệp chủ động hơn trong việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Hiện nay,
13


Việt Nam đã tham gia vào ba chuỗi giá trị có vai trị ngày càng quan trọng đối
với nền kinh tế tồn cầu đó là: Chuỗi giá trị lương thực và an ninh lương thực;
chuỗi giá trị năng lượng và an ninh năng lượng (dầu mỏ, khí, than) và chuỗi
giá trị hàng dệt may và da giầy. Một số sản phẩm của Việt Nam đã xác lập
được thương hiệu và có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cơ bản gắn kết

hài hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và cơng bằng xã
hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. An sinh xã hội cơ bản được đảm bảo,
hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội phát triển khá đồng bộ, đặc biệt là
trong vấn đề giảm nghèo, giải quyết việc làm(2), phát triển hệ thống bảo hiểm
xã hội, chính sách ưu đãi người có cơng với nước, trợ giúp xã hội, chính sách
bảo hiểm y tế tồn dân, tạo điều kiện để người dân được tiếp cận nhiều hơn
các dịch vụ về văn hóa, y tế và giáo dục. Trong bối cảnh ngân sách nhà nước
giảm do suy giảm kinh tế, chi ngân sách nhà nước cho an sinh xã hội vẫn tăng
qua các năm. Trong giai đoạn 2006-2010, kinh phí ngân sách nhà nước chi
cho cơng tác an sinh xã hội khoảng 471.000 tỷ đồng, đạt 20,1% tổng chi ngân
sách nhà nước. Đến giai đoạn 2011-2013, kinh phí ngân sách nhà nước chi
cho cơng tác an sinh xã hội ước đạt 913.400 tỷ đồng, chiếm khoảng 34,1%
tổng chi ngân sách nhà nước, tăng 1,7 lần so với giai đoạn 2006-2010(3). Chỉ
số phát triển con người (HDI) của Việt Nam được tăng dần, đến năm 2013
xếp hạng 127/186 quốc gia và vùng lãnh thổ, đạt mức trung bình trên thế giới.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh
đạo của Đảng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong q
trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ một nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, đã xây dựng được cơ
sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra mơi trường thu hút nguồn lực xã
hội cho phát triển. Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ
tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên (đạt ngưỡng thu
14


nhập trung bình thấp), đời sống nhân dân từng bước được cải thiện; đồng thời
tạo ra nhu cầu và động lực phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Đội ngũ doanh nghiệp, doanh nhân đã thực sự trở thành lực lượng quan
trọng để thực hiện đường lối cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Kinh tế đã đạt tốc độ tăng trưởng cao và được xếp vào nhóm tăng trưởng
cao trên thế giới. Quy mơ nền kinh tế tăng nhanh, tổng sản phẩm quốc nội đến
năm 2014 đã đạt khoảng 184 tỷ USD. Từ năm 2008, với mức GDP bình quân
đầu người đạt 1.047 USD (giá thực tế), Việt Nam đã ra khỏi nhóm nước đang
phát triển có thu nhập thấp, để gia nhập nhóm nước đang phát triển có thu
nhập trung bình thấp. Tỷ lệ tăng trưởng bình quân 4 năm 2011-2014 đạt
5,82%, cao hơn mức tăng trưởng bình quân của các nước ASEAN cùng thời
kỳ(4). GDP bình quân đầu người năm 2011 là 1.517 USD, năm 2012 là 1.749
USD, năm 2013 là 1.908 USD, năm 2014 đạt 2.028 USD(5). Lạm phát được
kiểm soát, tỷ lệ lạm phát đã giảm mạnh từ mức 18,13% (năm 2011) xuống
6,81% (năm 2012), còn 6,04% vào năm 2013 và chỉ còn khoảng 3% năm
2014. 
Những thành tựu đạt được nêu trên là do nỗ lực, cố gắng của toàn Đảng,
tồn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó có
nguyên nhân từ nhận thức, đổi mới về lý luận, nhận thức và chỉ đạo thực tiễn
của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, kiên trì lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện các quyết sách về kinh tế, được nhân dân đồng tình ủng
hộ và tích cực tham gia. Sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với kinh tế
thị trường sát thực và hiệu quả hơn. Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thơng qua pháp luật, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách, các công cụ kinh tế và lực lượng vật chất cần
thiết và phù hợp với nguyên tắc của kinh tế thị trường; xây dựng, hoàn thiện
thể chế, tạo dựng môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh, khắc
phục và hạn chế những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường. Mở rộng,
15


phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò
làm chủ về kinh tế của nhân dân. Vai trò lãnh đạo cũng như nội dung và

phương thức lãnh đạo của Đảng đối với phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng rõ hơn.
Trong thời gian tới, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ
tài ngun, mơi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu để phát triển đất nước
nhanh và bền vững. Đồng thời, cần tập trung thực hiện có kết quả đổi mới mơ
hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, trọng tâm là thực hiện thành công ba
đột phá chiến lược, sớm khắc phục những điểm nghẽn về thể chế kinh tế,
nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng để phát triển nhanh, bền vững.
Để đạt được mục tiêu đó, cần thực hiện một hệ thống giải pháp đồng bộ
cả về lý luận và thực tiễn liên quan đến các vấn đề như mơ hình tăng trưởng,
cần hướng tới mơ hình tăng trưởng dựa trên nâng cao năng suất lao động, chất
lượng và sức cạnh tranh; đẩy mạnh cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế với tầm
nhìn dài hạn và có lộ trình cụ thể; cơ cấu lại kinh tế vùng dựa trên cơ sở lợi
thế so sánh và tạo lập thể chế kinh tế vùng hiện đại và hội nhập, có khả năng
cạnh tranh khu vực và quốc tế, tạo cực tăng trưởng và thể nghiệm thể chế
mới, thúc đẩy kinh tế vùng phát triển; phát triển mạnh kinh tế biển nhằm tăng
cường tiềm lực kinh tế quốc gia và bảo vệ chủ quyền đất nước; chủ động hội
nhập quốc tế gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ./.
Tóm lại: Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên đây cho thấy, trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế có nhiều thành phần là tất yếu
khách quan, việc thừa nhận và tạo điều kiện cho nó phát triển chính là nhằm
xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Đó là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội theo đúng quy
luật kinh tế khách quan.

16



Căn cứ vào cơ sở lý luận và thực tiễn trên, Đại hội Đảng XI đã xác định
rõ mơ hình kinh tế ở nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa- đó là một kiểu tổ chức nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội vận hành theo các quy luật kinh tế khách quan của nền kinh
tế thị trường, các quy luật của thời kỳ quá độ, đồng thời có sự quản lý của
Nhà nước nhằm đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.

17


KẾT LUẬN
Đặc điểm kinh tế thế giới hiện nay là các quốc gia đang cố gắng xây
dựng mơ hình kinh tế có sự kết hợp kế hoặc và thị trường mà trong đó cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần kết lõi , nước ta sau một thời gian duy trì mô hịn
kinh tế tập trung cao độ , đã thấy sự khơng phù hợp của nó. Q trình đi tìm
một mơ hình kinh tế mới manh nha từ những năm cuối thập kỷ 70, những lúc
bùng lên , có khi chững lại, chần chừ trong tư duy và do dự trong hành động.
Nhưng rồi cái phải đến đã đến. Đại hội Đảng lần thứ VI(12/1986) là cái mốc
quan trọng đánh dấu q trình đổi mới nói chung và đổi mới kinh tế nói riêng.
Phương hướng đổi mới kinh tế là xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hướng XHCN. Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII, IX lại tiếp tục
khẳng định đường lối nhất quán đó. Đây là sự lựa chọn phù hợp với xu thế
thời đại , và thưc trang cũng như xu thế phát triển của nền kinh tế nước ta .
Trên con đường hồn thiện nền kinh tế mới đó , chúng ta đã gặt hái được
nhừng thành tựu bước đầu có ý nghĩa rất quan trọng, nhưng khơng thể chỉ có
hoa thơm và trái ngọt . Chúng ta đang đứng trước khó khăn và thách thức lớn
lao. Cái cũ và cái mới cùng tồn tại đan xen và triệt tiêu nhau. Bổn phận của
chúng ta là phải làm cho cái mới tất thắng. Song ủng hộ cái mới khơng có
nghĩa là phủ định sạch trơn cái cũ và cũng không được để cái mới bị lợi dụng.

Các giải pháp phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta chỉ có thể
chấp nhận khi nó phủ nhận vai trị phủ đạo của kinh tế gia đình và sử dụng
sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân
thống nhất . Trong tình hình hiênj nay kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
cần phải thu gom lại phạm vi và đó là hoạt động sửa chữa những lỗi lầm trong
quá khứ. Nhưng một khi lực lượng sản xuất phát triển , tính chất xã hội hố
của sản xuất được nâng lên thì kinh tế quốc doanh từng bước sẽ được mở
rộng và thích ứng với điều kiện ấy. Chỉ có như vậy chúng ta mới xây dựng
được CNXH vớ bản chất kinh tế là sở hữu tồn dân. Tuy nhiên đây là một
q trình dài khơng thể nóng vội , duy ý chí . Q trình này dài bao nhiêu tùy
thuộc vào kết quả xử lý của chúng ta và các giải pháp phù hợp.

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI; VII; VIII; IX; X; XI
2. Nguyễn Viết Thơng: Tìm hiểu nội dung các văn kiện Đại hội XI của
Đảng. lyluanchinhtri.vnu.edu.vn.
3. TTXVN/Vietnam+: Giải thích 87 thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội
XI, ngày 01-06-2011

19



×