Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Một số phong tục làng Việt liên quan đến việc xây dựng, tu bổ các di tích kiến trúc nghệ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.33 KB, 8 trang )

0 trở đi, trong phong trào phục dựng, tôn tạo đình
chùa, đền miếu, nhà thờ dịng họ… ở các làng xã, tục công đức được phục hồi rộng khắp và
mạnh mẽ, đã huy động được nguồn lực đóng góp về tiền, vật chất và cả công sức của các tập
thể, cá nhân trong cộng đồng, người làng làm ăn, sinh sống xa quê; nhiều nơi huy động được
sự ủng hộ của người ngồi cộng đồng có quan hệ “vị cây dây quấn” với người làng và với
làng. Tuy nhiên, trong việc huy động này, ở nhiều địa phương đã sớm bộc lộ những lệch lạc,
khi lập bia (hoặc lên danh sách cơng khai trên giấy) ở di tích, chỉ ghi tên những người đóng
góp nhiều (số lượng cụ thể tùy từng làng, dòng họ quy định ở từng thời điểm), khơng ghi tên
người đóng góp “dưới” mức quy định” (tuy nhiên, số tiền đóng góp của họ vẫn được ghi
trong sổ gốc). Việc này đã tạo ra sự ganh đua, làm cho người nghèo khó phải “cố” theo người
giàu, gây ra sự thiếu đồng thuận. Điển hình là làng Phương La (xã Thái Phương, huyện Hưng
Hà, tỉnh Thái Bình), trong đợt tơn tạo các di tích những năm 2004 - 2007, trên các tấm bia
ghi nhận công đức, chỉ ghi tên những người đóng góp số lượng vàng lớn (ít nhất là 5 chỉ,
nhiều là hàng chục lượng, tạo ra sự ganh đua, làm cho “người nghèo phải theo người giàu,
người kém giàu phải theo người giàu hơn”, gây mâu thuẫn trong cộng đồng (Bùi Thị Dung,
2008; Bùi Thị Dung, 2016; Bùi Xuân Đính, 2021, tr. 709 - 710).

3. KẾT LUẬN
Đặt hậu và công đức là hai tục tiêu biểu liên quan đến việc xây dựng và tu bổ các di tích
thờ cúng (đình, chùa, đền, miếu, nhà thờ các dòng họ) trong mỗi cộng đồng cư dân Việt ở
Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Tục đặt hậu và công đức có nguồn gốc từ quan niệm về việc thờ
cúng cho mỗi cá nhân sau khi mất cùng sự gắn bó của các cá nhân với các thiết chế tổ chức
và với cộng đồng làng, với các di tích của các tổ chức và của chung cả làng. Tục đặt hậu và
cơng đức đã huy động được sự đóng góp của các cá nhân trong cộng đồng, từ những người
giàu có đến những người nghèo, của các nhóm xã hội (nhóm những người đồng niên, đồng
mơn…), các thiết chế tổ chức trong làng (dịng họ, phe giáp, xóm, hội, phe…); tạo ra một
nguồn lực tài chính đủ để các cộng đồng làng và các tổ chức trong đó xây dựng, tu bổ di tích


TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 59/2022


29

thờ cúng trở nên khang trang, nhiều di tích có giá trị kiến trúc và nghệ thuật rất cao. Tục đặt
hậu và công đức cịn có ý nghĩa xã hội rất to lớn, giáo dục tư cách con người sống trong làng
xã, động viên mọi người đóng góp xây dựng làng xã. Ngày nay, do thay đổi chế độ sở hữu
ruộng đất và cơ cấu tổ chức làng xã, tục đặt hậu khơng cịn tồn tại; cịn tục cơng đức vẫn được
duy trì, đã huy động được sự đóng góp của các cá nhân trong và ngồi cộng đồng, nhất là
những người giàu có và có tâm, các nhóm xã hội, tạo ra nguồn lực tài chính cho việc dựng lại,
trùng tu các di tích, tổ chức lễ hội và các hoạt động văn hóa. Tuy nhiên, ở nhiều địa phương,
hoạt động cơng đức đã diễn ra tình trạng tơn vinh q mức người giàu đóng góp nhiều tiền của,
khơng ghi cơng đúng mức sự đóng góp của người nghèo, dẫn đến sự thiếu đồng thuận, thậm
chí mâu thuẫn trong cộng đồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Thị Dung (2008), “Quản lý hoạt động xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở các làng nghề huyện
Hưng Hà, tỉnh Thái Bình”, Luận văn thạc sĩ Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
2. Bùi Thị Dung (2015), “Biến đổi văn hóa làng Phươn La (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình)”, Luận
án tiến sĩ Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
3. Bùi Xuân Đính (2012), Các tộc người ở Việt Nam, Nxb. Thời đại.
4. Bùi Xuân Đính (2021), Bách khoa thư làng Việt cổ truyền, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
5. Nguyễn Quang Khải (2016), Tìm hiểu tục bầu hậu, gửi giỗ ở Bắc Ninh qua tư liệu văn bia, Nxb.
Hội Nhà văn, Hà Nội.
6. Đinh Khắc Thuân (1995), Văn bia thời Mạc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

SOME TRADITIONS RELATED TO THE CONSTRUCTION AND
ADDITION OF ARCHITECTURAL RITES IN VIETNAMESE VILLAGES
Abstract: The article clarifies the aspect of two customs related to the construction and
restoration of relics belonged to ancient Vietnamese villages. That is the custom of leaving
assets to a different bloodline if they pass away in order to have someone worshipping them
and the custom of donating to maintain religious sites thus nearby infrastructures. The origin
of these customs is from the attachment of farmers to their village where most of them were

born, raised and lived their whole life with the community; thus, it is also from the spiritual
belief of worshiping. Each custom has its own form, but all reached to the fullest extent when
there are contributions of individuals and organizations to the construction and preservation
of worshiping relics, such as communal houses, pagodas, temples, and churches… Many
relics of high architectural and artistic value, so far have been recognized as national
cultural heritage. The appreciation to the contributions of individuals and groups to the relics
through the two customs above is shown on steles, bells, wooden board. Today, the custom
leaving assets for other bloodline is no longer present, although, the custom of donating to
religious sites is still maintained. However, in many regions, there is a trend of competition
for being recognized of contributing which also shows the distinction between rich and poor,
causing disunity in the community.
Keywords: Tradition, custom, villages, relics.



×