Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tín ngưỡng Tam Sơn Quốc Vương của người Hoa ở Châu Đốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.52 KB, 6 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 63/2022

25

TÍN NGƯỠNG TAM SƠN QUỐC VƯƠNG
CỦA NGƯỜI HOA Ở CHÂU ĐỐC
Vĩnh Thơng
Tóm tắt: Tam Sơn Quốc Vương là một hình thái tín ngưỡng đặc thù của cộng đồng tộc người
Hoa nhóm phương ngữ Triều Châu ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Tín ngưỡng này có
mặt ở Châu Đốc từ khi người Hoa đặt chân đến đây, tồn tại suốt hàng trăm năm qua trên vùng
đất này, khơng chỉ gắn bó với đời sống tâm linh của cư dân, mà cịn đóng góp vào sự phong
phú của văn hóa địa phương. Bài nghiên cứu này tìm hiểu về nguồn gốc tín ngưỡng Tam Sơn
Quốc Vương, cơ sở thờ tự, thực hành nghi lễ, các giá trị về văn hóa và tâm lý ảnh hưởng đến
người Hoa tại địa phương,… Trong đó, tác giả cung cấp nhiều thông tin mới, chủ yếu khai
thác qua khảo sát thực tế.
Từ khóa: Châu Đốc, người Hoa, tín ngưỡng, Tam Sơn Quốc Vương.
Nhận bài ngày 27.6.2022; gửi phản biện, chỉnh sửa và duyệt đăng ngày 23.8.2022
Liên hệ tác giả: Vĩnh Thơng; Email:

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ơng Bổn là một trong những đối tượng tín ngưỡng phổ biến của tộc người Hoa ở Nam Bộ.
Tùy theo từng cộng đồng hoặc địa phương, quan niệm về vị thần này có thể khác nhau. Ở thành
phố Châu Đốc (tỉnh An Giang), người Hoa phần lớn thuộc nhóm phương ngữ Triều Châu, họ
xem Ông Bổn là Tam Sơn Quốc Vương. Đây là ba vị thần cai quản ba ngọn núi ở vùng Triều
Châu (Trung Quốc). Khi di cư, người Hoa đã mang theo tín ngường này đến các vùng đất mới,
trong đó có Châu Đốc. Đặc biệt, tín ngưỡng này gắn liền với nghi thức nhập đồng hết sức độc
đáo đã tồn tại hàng thế kỷ. Từ lâu, niềm tin và thực hành tín ngưỡng Tam Sơn Quốc Vương đã
gắn bó sâu sắc với đời sống văn hóa tâm linh của người Hoa nói riêng và cư dân Châu Đốc nói
chung. Ơng Bổn hay Bổn Đầu Cơng là vị thần mang tính biểu tượng chứ không hẳn là nhân vật
lịch sử cụ thể. Người Hoa xem Ông Bổn là phúc thần của vùng đất sở tại, có vai trị bảo hộ cộng
đồng, tương tự Thành Hoàng của người Việt hay Neak Ta của người Khmer. Một nghiên cứu


cho biết, với người Triều Châu và Hải Nam thì Ơng Bổn là chức Bổn Đầu Cơng của Trịnh Hịa,
cịn người Phước Kiến cho rằng Ông Bổn là Châu Đạt Quan [Nguyễn Hữu Hiếu, 2010: 137].
Nhiều nơi khác, một số cộng đồng Hoa cịn có thể đồng nhất Ông Bổn với Thổ Thần, Phước
Đức Chánh Thần, Tam Sơn Quốc Vương,… [Tư liệu điền dã, 2017]. Tác giả Nguyễn Xuân
Nghĩa phân tích: “Đồng bào Hoa quan niệm Ông Bổn là vị thần cai quản một khu vực đất đai
và cả những con người sống trên địa vực đó. Nói cách khác, họ quan niệm đây là một vị thổ


26

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

thần. Đối với các cư dân nông nghiệp, cũng như đối với đồng bào Hoa có nguồn gốc là nơng
dân, vị thần đất chính là vị thần đem lại của cải, sự giàu có, thịnh vượng, hạnh phúc và sự bình
yên cho mọi người. Tín ngưỡng ơng Bổn, mặc dù có nguồn gốc xa xưa là tục thờ thần đất của
các cư dân nông nghiệp Đơng Nam Á, đã bị phong kiến hóa phần nào và đã được người di dân
Hoa nhân cách hóa…” [Nguyễn Xuân Nghĩa, 1984: 195-196]. Đưa ra những lý giải trên, chúng
tơi muốn giải thích vì sao ngơi miếu của người Triều Châu ở phường Vĩnh Mỹ - thành phố
Châu Đốc có bảng tên là “Tam Sơn miếu” và đối tượng được thờ cúng chính của miếu là Tam
Sơn Quốc Vương, nhưng người dân lại gọi là miếu Ông Bổn. Bởi, Ông Bổn được xem là vị
phúc thần sở tại, đối với người Tiều ở Châu Đốc thì Tam Sơn Quốc Vương chính là Ơng Bổn
của cộng đồng mình. Mặt khác, cư dân nơi đây khơng đồng hóa Ơng Bổn với Phước Đức Chánh
Thần, vì trong miếu vẫn có bàn thờ riêng dành cho Phước Đức Chánh Thần.

2. NỘI DUNG
2.1. Thiết chế tín ngưỡng Tam Sơn Quốc Vương của người Hoa ở Châu Đốc
Tam Sơn Quốc Vương là một trong những hình thái tín ngưỡng đặc thù của người Triều
Châu, bắt nguồn từ quan niệm sùng bái núi non của cư dân Hoa Nam cổ xưa. Tín ngưỡng này
ra đời trên vùng đất Yết Dương, ngày nay là thành phố Yết Dương - tỉnh Quảng Đơng (Trung
Quốc). Tại đây có ba ngọn núi là Cân Sơn, Minh Sơn và Độc Sơn. Tam Sơn Quốc Vương chính

là ba vị sơn thần cai quản ba ngọn núi này. Thế danh của thần Cân Sơn là Liên Kiệt, thần Minh
Sơn là Triệu Hiên và thần Độc Sơn là Kiều Tuấn. Ba vị cai quản Tam Sơn từ thời nhà Tùy (581
- 619) và về sau thường hiển linh. Ngày nay, ngôi miếu trung tâm của tín ngưỡng này là Tam
Sơn tổ miếu, tọa lạc ở nhai đạo Hà Bà, huyện Yết Tây, thành phố Yết Dương, tỉnh Quảng Đơng.
Trong dân gian có nhiều giai thoại về Tam Sơn Quốc Vương. Chẳng hạn chuyện kể năm
970, quân Tống tiến đánh Nam Hán,(1) Tống Thái Tổ Triệu Khuôn Dận khi dẫn quân đến vùng
Yết Dương đã cầu xin Tam Sơn Quốc Vương phò hộ. Sau khi thắng trận, vua sắc phong cho
thần Cân Sơn là Thanh Hóa Uy Đức Báo Quốc Vương, thần Minh Sơn là Trợ Chánh Minh Túc
Ninh Quốc Vương và thần Độc Sơn là Huệ Uy Hoằng Ứng Ninh Quốc Vương [Lâm Thanh
Quang, 2017: 5]. Một câu chuyện khác kể rằng, ba ông kết nghĩa huynh đệ với nhau và tu hành
trên núi, nhờ có cơng cứu giá Tề Vương đi tuần gặp nạn, nên được vua phong thần và cho cai
quản Tam Sơn [Lâm Tâm, 1994: 98-99].
Tam Sơn Quốc Vương được người địa phương gọi theo tiếng Triều Châu lần lượt là Ích
Qn (Nhất Vương), Dì Qn (Nhị Vương) và Sam Quán (Tam Vương). Giai thoại dân gian kể
rằng, những người Triều Châu đầu tiên đến Châu Đốc đã mang theo ba pho tượng của Tam Sơn
Quốc Vương và lập miếu thờ ở ba nơi: miếu Nhất Vương ở thành phố Hà Tiên (tỉnh Kiên
Giang),(2) miếu Nhị Vương ở xã Đa Phước (huyện An Phú) và miếu Tam Vương ở phường Vĩnh
Mỹ (thành phố Châu Đốc) đều thuộc tỉnh An Giang. Ngồi ra, người Hoa ở Vĩnh Mỹ cịn lưu

Nam Hán (917 - 971) quốc gia do Lưu Ẩn thành lập, lãnh thổ tương ứng vùng cực Nam Trung Quốc hiện nay,
kinh đơ đóng ở Hưng Vương phủ (nay là thành phố Quảng Châu - tỉnh Quảng Đông).
2
Giai thoại này do người Hoa ở Châu Đốc cung cấp, thực tế đến nay chúng tơi vẫn chưa tìm được thơng tin chính
xác về ngôi miếu ở Hà Tiên.
1


TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 63/2022

27


truyền một giai thoại khác. Họ kể rằng, nơi đây ban đầu là ngôi miễu nhỏ ven đường, thờ Thổ
Thần. Một lần nọ có người phụ nữ bị tà nhập hóa điên, khi đi ngang miếu đã vào xin nhập đồng
trị bịnh. Bấy giờ, một người Minh Hương bán rau cải đã nhập đồng và xưng là Sam Quán, rồi
dùng các hình thức bùa phép để chữa trị cho người nữ ấy [Tư liệu điền dã, 2017]. Trong hai
giai thoại trên, chúng ta đều nhận thấy ban đầu ngôi miếu chỉ là nơi thờ riêng Tam Vương. Như
vậy, đến sau này người dân mới thờ thêm tượng hai vị còn lại.
Kiến trúc miếu Tam Sơn ngày nay mang phong cách pha lẫn truyền thống và hiện đại. Nóc
miếu có dạng phía trên là cổ lầu và phía dưới là mái hiên, bờ nóc gắn tượng lưỡng long tranh
châu, mái cong hình thuyền và lợp ngói tiểu đại. Điểm nhấn ở mặt tiền ngơi miếu là cổ lầu
mang hình thức như sân thượng, hai bên vách có cầu thang để đi lên. Đây là phong cách kiến
trúc hiếm bắt gặp ở các miếu khác của người Hoa tại Nam Bộ. Trên cổ lầu có hai bảng đề “Tam
Sơn miếu” bằng chữ Hán và chữ Quốc ngữ.
Bước vào miếu, tại cửa chánh có hồnh phi “Tam Sơn Quốc Vương” và liễn đối “Tam Sơn
cứu giá lạc hồi anh linh dân gian tại / Quốc Vương ngự phong thánh đức vô tư hiệp cảnh an”
đều được sơn son thếp vàng. Nội thất chánh điện được trang hoàng bằng nhiều hoành phi, liễn
đối, bao lam, thành vọng,… với kỹ thuật chạm khắc điêu luyện. Tất cả kết hợp thành một khơng
gian thâm nghiêm mà hài hịa. Trước chánh điện có thiên tỉnh - khoảng trống khơng có nóc,
mang chức năng tiếp nhận ánh sáng, thơng thống khơng khí, giảm bớt sự ngột ngạt. Đối xứng
hai bên thiên tỉnh có phù điêu tả thanh long - hữu bạch hổ, trước hình thanh long có bồn nước
và trước hình bạch hổ có bồn cây cảnh, thể hiện triết lý âm dương và mang ý nghĩa phong thủy.
Ngày nay, khu vực thiên tỉnh của miếu đã được xây nóc khoảng giữa, chỉ còn chừa trống hai
bên. Về cấu trúc thờ tự, từ ngồi vào đầu tiên bàn thờ Sơn Qn có tượng Ông Hổ, tiếp đến là
bàn thờ Hội Đồng Chư Thần, cuối cùng vị trí cao nhất là bàn thờ Tam Sơn Quốc Vương. Hai
bên bàn thờ chánh có bàn thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu bên trái và Phước Đức Chánh Thần bên
phải, cặp theo hai vách có bàn thờ Tiền Quá Vãng và Hậu Quá Vãng. Phía sau bàn thờ Hội
Đồng Chư Thần có ba chiếc ghế được đặt đối diện với bàn thờ Tam Sơn Quốc Vương. Ở giữa
là ghế dao có gắn những lưỡi dao vào mặt và lưng ghế, hai bên là hai ghế đinh (ghế chơng) có
gắn những mũi đinh nhọn trên mặt ghế. Ba chiếc ghế này ngày thường được phủ kín bằng vải
đỏ, đến những ngày lễ lớn sẽ được mở ra và sử dụng cho nghi thức nhập đồng. Hằng năm, miếu

tổ chức lễ Vía Ơng ngày 25 tháng 2, lễ Bố âm ngày rằm tháng 7 (có ý nghĩa là bố thí cho những
âm hồn khơng nơi nương tựa) và lễ cúng Bình an vào rằm tháng Chạp. Nghi thức trong lễ Vía
Ơng ngày nay đã chịu ảnh hưởng lớn từ văn hóa Việt, với lễ Túc yết diễn ra vào 20 giờ ngày
24 và lễ Chánh tế lúc 4 giờ sáng ngày 25. Túc yết và Chánh tế là hai nghi thức chính trong lễ
cúng tại các đình làng của người Việt ở Nam Bộ, mà người Hoa đã tiếp nhận vào hệ thống nghi
lễ của mình. Tuy nhiên, ở miếu Tam Sơn khơng có học trị lễ (lễ sanh), khơng đọc văn tế, khơng
sử dụng nhạc lễ,… như đình thần. Đặc biệt, các dịp lễ lớn ở miếu thường diễn ra nghi thức nhập
đồng - một hình thức “ma thuật” vẫn cịn duy trì đến ngày nay.
2.2. Thực hành tín ngưỡng Tam Sơn Quốc Vương của người Hoa ở Châu Đốc
Nghi thức nhập đồng của người Hoa nhóm phương ngữ Triều Châu ở Châu Đốc được biết
đến từ tín ngưỡng Tam Sơn Quốc Vương, một tín ngưỡng ra đời thời nhà Tùy. Tuy nhiên, theo


28

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐƠ HÀ NỘI

Margaret Chan, hình thức nhập đồng này có nguồn gốc từ vùng Mân Nam thuộc tỉnh Phước
Kiến. Nó được gọi là “tongji” trong tiếng Quan thoại, phiên âm Hán Việt là “đồng kê”, trong
đó “đồng” là đứa trẻ và “kê” là thần thánh. Tiếng Phước Kiến gọi nó là “tângki” cịn tiếng
Quảng Đơng gọi là “geitung” [Margaret Chan, 2020: 41].
Như đã trình bày, người Triều Châu vốn có nguồn gốc là một bộ phận người Mân Nam
tách ra khỏi quê cũ. Do đó, họ đã đưa thực hành nghi lễ này vào văn hóa Triều Châu. Khi di cư
đến các quốc gia Đông Nam Á, người Triều Châu tiếp tục mang theo nghi lễ này. Họ đi đến
đâu cũng duy trì và phát triển nghi thức nhập đồng như Đài Loan, Thái Lan, Malaysia,
Singapore, Việt Nam,… Dấu hiệu nhận diện những ngơi miếu có nhập đồng là ba chiếc ghế sơn
màu đỏ được đặt trong chánh điện, một ghế có gắn nhiều lưỡi dao và hai ghế có gắn nhiều đinh
nhọn. Điểm đặc biệt trong nghi thức nhập đồng này là các hình thức “hành xác”.(3) Người nhập
đồng sẽ xẻ lưỡi lấy máu vẽ bùa, xỏ cây qua miệng, đập trái đinh vào người, ngồi ghế dao, đi
trên than lửa… Sau khi nghi lễ kết thúc, người ta khơng tìm thấy vết thương trên cơ thể họ.

Theo nhà nghiên cứu Lâm Quang Hiển, hiện tượng này là: “Dạng thần quyền của người Triều
Châu tại vùng Yết Dương, chứ người Quảng khơng có hình thức này, nhưng qua đây người ta
thờ chung. Những nơi có lên xác thường có ba cái ghế này. Rõ ràng tín ngưỡng này là đặc sắc
của người Hoa, bên cạnh miếu Quan Đế” [Tư liệu phỏng vấn, 2017].
Ngày nay, nhập đồng vẫn cịn tìm thấy ở các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, An Giang, Kiên
Giang, Bình Dương… Tại thị xã Vĩnh Châu - tỉnh Sóc Trăng, Phước Đức cổ miếu (dân gian
gọi là chùa Xà Bế) cũng thờ Ông Bổn là Tam Sơn Quốc Vương và có nghi thức nhập đồng,
trong lễ cúng Cảm Thiên Đại Đế ở Thanh Hòa cổ miếu cũng có nghi thức nhập đồng với ba
chiếc ghế như trên. Ở huyện Cầu Kè - tỉnh Trà Vinh, vào lễ Vu lan hằng năm, sáu ngôi miếu
thờ Ông Bổn đều có nghi thức nhập đồng là Vạn Niên Phong cung, Minh Đức cung, Vạn Ứng
Phong cung, Thiên Đức cung, Vạn Đức Phong cung, Niên Phong cung. Tại thành phố Phú Quốc
- tỉnh Kiên Giang, nghi lễ này xuất hiện ở Huê Quang Đại Đế miếu (tên dân gian là chùa Ơng
Gành Gió). Tại thành phố Thủ Dầu Một - tỉnh Bình Dương, có hình thức nhập đồng ở Phước
An miếu thờ Thất Phủ Đại Nhân của người Phước Kiến. Với tỉnh An Giang, nghi lễ này có mặt
ở thành phố Châu Đốc (Tam Sơn miếu), thị xã Tân Châu (Quan Đế miếu) và huyện An Phú
(Nhị Vương miếu). Ở miếu Tam Sơn, người nhập đồng là người cố định, được gọi là xác đồng
hay phần xác. Dân chúng xem đó là “người được chọn”, nghĩa là do “bề trên” chỉ định và khơng
ai có quyền thay đổi. Khi nào phần xác qua đời, thần linh sẽ chọn người phù hợp khác.
Về diễn tiến ở miếu Tam Sơn, ban đầu xác đồng ở trần và mặc quần dài trắng, đứng trước
bàn thờ chánh để cầu nguyện. Sau khi Ông Bổn về xác, xác đồng sẽ bôi mặt bằng bột màu đỏ,
mặc vào người bộ trang phục màu đỏ và đội mão đỏ. Theo truyền thuyết, do ba ngọn núi Cân
Sơn - Minh Sơn - Độc Sơn lần lượt tương ứng với ba màu xanh - trắng - đỏ, nên hình tượng
Tam Sơn Quốc Vương được thể hiện với gương mặt có ba màu trên. Buổi lễ mà phần xác bôi
mặt đỏ và mặc trang phục đỏ là Tam Vương về xác. Tiếp đến, xác đồng sẽ múa đao, múa kiếm,

3

Báo chí thường viết “lễ hội hành xác” là khơng chính xác, vì “hành xác” chỉ là một hoạt động có mặt trong nhiều
lễ hội, chứ khơng phải tên của một lễ hội cụ thể.



TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 63/2022

29

múa võ,… Ơng dùng dao xẻ vào lưỡi cho ra máu, liếm lưỡi vào những mảnh giấy nhỏ màu
vàng cho máu thấm vào, chúng sẽ trở thành những lá bùa được người dân thỉnh về sau đó. Theo
lời kể dân gian, trước đây ngồi xẻ lưỡi lấy máu, xác đồng còn cắt một phần chót lưỡi cho vào
dĩa, rồi lấy cái chung úp lại. Sau nghi lễ, ơng để chót lưỡi vào miệng thì sẽ tự lành.
Sau phần nghi lễ ở chánh điện, xác đồng sẽ ngồi lên ghế đinh hoặc ghế dao, thanh niên
khiêng ghế ơng đi diễu hành quanh xóm, gọi là đi nghinh hoặc Nghinh Ông. Khi đi nghinh, xác
đồng sẽ xỏ một cây sắt từ má này trổ sang má kia gọi là xiên lìn hoặc xiên quai, cầm kiếm trên
tay, cổ đeo trái đấm (khối tròn làm từ gỗ và đóng nhiều đinh nhọn xung quanh). Qua những nơi
ơ uế (bệnh viện, nghĩa địa, chuồng gia súc…), Ông Bổn sẽ rời phần xác, phải có người đi bên
cạnh đọc bài triệu để mời ơng trở lại. Ơng Lý Ngọc Ẩn từng là Tào kê (Chủ lễ) miếu Tam Sơn
cho biết: “Ngày đi nghinh, tơi hầu kiệu để có đi tới nhà thương, những chỗ uế trược, ông dang
xác ra, tơi phải triệu ơng lại. Có rất nhiều con đường uế trược, thành ra ơng khơng chịu mà ra
xác, mình trục lại” [Tư liệu phỏng vấn, 2017]. Ngày nay, đoạn đường đi nghinh chỉ từ miếu ra
bờ sông Hậu rồi quay về. Để liên hệ mở rộng, chúng tôi giới thiệu sơ lược về hình thức nhập
đồng tại Nhị Vương miếu ở xã Đa Phước - huyện An Phú, đối diện thành phố Châu Đốc bên kia
sông Hậu. Nhị Vương là một trong Tam Sơn Quốc Vương. Sau năm 1975, họ kể rằng, Nhị
Vương là ẩn sĩ tên Lương Hà, cùng với hai anh em kết nghĩa cứu giúp Đinh Bộ Lĩnh trong một
lần bị vây bắt. Sau khi lên ngơi, Đinh Tiên Hồng phong vương cho ba ơng.
Miếu Nhị Vương có kiến trúc đơn giản, nội thất có cấu trúc thờ tự điển hình của người Hoa
là bộ ba Thiên Hậu - Ông Bổn - Quan Đế. Những thần linh thường về xác là Phước Đức Chánh
Thần, Tam Sơn Quốc Vương, Quan Đế, Thiên Hậu,… chủ yếu để chữa bệnh cho dân chúng.
Khi nhập đồng, phần xác cũng bôi mặt, xỏ xiên lìn, ngồi ghế đinh và ghế dao,… tương tự miếu
Tam Sơn. Tuy nhiên, nếu như miếu Tam Sơn chỉ có một phần xác cố định, thì ở miếu Nhị
Vương có tính đồng tham dự của cộng đồng. Bên cạnh “người được chọn”, hiện tượng nhập
xác còn xuất hiện ở nhiều dân thường tham dự buổi lễ.

Những trạng thái xuất thần được nhận định là đã đóng vai trị nhất định trong sự hình thành
con người như một thành viên của cộng đồng. Những nghi thức đó giúp con người đạt tới mối
tương quan tối ưu giữa đơn độc và giao tiếp, như những nhu cầu quan trọng hàng đầu của đời
sống [A. A. Belik, 2000: 239]. Qua hình thức nhập đồng của người Hoa, có thể nhận thấy đây
là sự vận dụng kết hợp các phương thức khai thác tiềm năng bí ẩn của con người, nhằm đáp
ứng nhu cầu tâm lý và điều chỉnh hành vi cá nhân, góp phần duy trì sự ổn định cho cộng đồng.

3. KẾT LUẬN
Tóm lại, Ơng Bổn là loại hình tín ngưỡng bình dân, vai trị như phúc thần bảo hộ vùng đất
sở tại, nên quan niệm của từng địa phương về vị thần này khác nhau. Đối với người Hoa gốc
Triều Châu cư trú ở khu vực Châu Đốc, họ xem Tam Sơn Quốc Vương là Ông Bổn của cộng
đồng mình. Đây là tín ngưỡng được họ mang theo hành trình di cư đến nhiều nơi trong đó có
Việt Nam ta, bởi đó là ba vị thần gắn liền với ba ngọn núi ở quê cũ của họ. Cùng với tín ngưỡng
Tam Sơn Quốc Vương, nghi thức nhập đồng cũng đã tồn tại hàng trăm năm từ khi người Hoa
có mặt ở Châu Đốc, trở thành một trong những sắc thái văn hóa đặc sắc làm đa dạng, phong
phú thêm giá trị văn hóa cộng đồng dân tộc Việt Nam.


30

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A. A. Belik (2000), “Văn hóa học - Những lý thuyết nhân học văn hóa” (Đỗ Lai Thúy & Hồng Vinh
& Huyền Giang dịch), Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật.
2. Lâm Tâm (1994), Người Hoa An Giang, Chi hội Văn nghệ dân gian An Giang & Hội Văn nghệ Châu Đốc.
3. Margaret Chan (2020), “The Chinese spirit-medium: Ancient rituals and practices in a modern
world”, Biblioasia, Volume 16, Issue 2.
4. Nguyễn Hữu Hiếu (2010), Diễn trình văn hóa đồng bằng sơng Cửu Long, Nxb. Thời Đại.
5. Nguyễn Xuân Nghĩa (1984), “Ý nghĩa xã hội của các tín ngưỡng cộng đồng ở người Hoa vùng đồng

bằng sông Cửu Long”, trong Nhiều tác giả, Mấy đặc điểm văn hóa đồng bằng sơng Cửu Long, Viện
Văn hóa.

THREE MOUNTAIN KINGS WORSHIP OF
CHINESE ETHNIC GROUP IN CHAU DOC CITY
Abstract: Three Mountain Kings is a particular folk religion form of Teochew community,
Chinese ethnic group in Chau Doc city, An Giang province. This folk religion has been
presented in Chau Doc since the Chinese arrived here, has existed for hundreds of years in
this land, not only associated with the spiritual life of the residents, but also contributes to the
richness of the population of local culture. This study explores the origins of Three Mountain
Kings folk religion, worship facilities, ritual practices, cultural and psychological values that
affect the local Chinese... In which, the author provides a lot of new information, mainly
exploited through actual surveys.
Keywords: Chau Doc, Chinese ethnic group, folk religion, Three Mountain Kings.



×