Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh Xuất khẩu hiệu quả hàng dệt may của Việt nam sang thị trường Mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.55 KB, 53 trang )

lời nói đầu
Kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ và ổn định nhờ vào
các chiến lợc, chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nớc ta trong đó phải kể
đến chiến lợc hớng vào xuất khẩu và chuyển dịch các cơ cấu ngành hàng.
Đặc biệt Đảng và nhà nớc phát triển ngành dệt may trở thành một trong
những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu nhằm thoả
mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nớc, tạo nhiều việc làm cho xã
hội, nâng cao khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp, của toàn ngành
trong tiến trình hội nhập vững chắc vào khu vực và thế giới.
Phát triển công nghiệp dệt may và xuất khẩu hàng dệt may đang đóng
một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam với tốc độ tăng tr-
ởng hàng năm nhanh chóng trung bình từ 20% - 25% và thu về cho đất nớc
mỗi năm hàng tỷ đô la. Đồng thời giải quyết việc làm cho hàng triệu ngời lao
động mỗi năm đáp ứng đợc nhu cầu việc làm đang gia tăng nhanh chóng ở n-
ớc ta. Bên cạnh đó dệt may còn đáp ứng đợc nhu cầu may mặc của ngời dân
trong nớc và vơn ra đáp ứng đợc nhu cầu may mặc của ngời dân nớc ngoài
tạo điều kiện để mở rộng thơng mại quốc tế và hội nhập quốc tế.
Do tầm quan trọng ngành dệt may và vấn đề về thị trờng cho ngành dệt
may em đã lựa chọn chuyên đề nghiên cứu:Một số giải pháp nhằm đẩy
mạnh xuất khẩu hiệu quả hàng dệt may của Việt Nam sang thị trờng Mỹ.
Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chơng:
Chơng I: Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu.
Chơng II: Thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam vào thị trờng Mỹ
1
Chơng III: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của
Việt Nam sang thị trờng Mỹ
Em xin chân thành cảm ơn sự hớng dẫn nhiệt tình của thầy giáo PGS.
TS.Nguyễn Nh Bình.
2
chơng I: cơ sở lý luận chung về xuất khẩu



I. khái niệm và vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh
tế
1.Khái niệm
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá và dịch vụ ra thị tr-
ờng nớc ngoài hoặc bán hàng hoá dịch vụ cho ngời nớc ngoài ở trong nớc
hoặc bán hàng hoá dịch vụ cho các thuộc các khu công nghiệp, khu chế xuất
ở trong nớc trên cơ sở dùng tiền tệ làm phơng tiên thanh toán, với mục tiêu là
lợi nhuận. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc với cả
hai quốc gia. Mục đích của hoạt động này là khai thác đợc lợi thế của từng
quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa
các quốc gia đều có lợi thì các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt
động này.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động xuất khẩu là hoạt động cơ bản của
hoạt động ngoại thơng . Nó đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử phát triển
của xã hội và ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu.
Hình thức sơ khai của chúng chỉ là hoạt động trao đổi hàng hoá nhng cho đến
nay nó đã phát triển rất mạnh và đợc biểu hiện dới nhiều hình thức.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện của
nền kinh tế, từ xuất khẩu hàng tiêu dùng cho đến t liệu sản xuất, máy móc
hàng hoá thiết bị công nghệ cao. Tất cả các hoạt động này đều nhằm mục
tiêu đem lại lợi ích cho quốc gia nói chung và các doanh nghiệp tham gia nói
riêng.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra rất rộng về không gian và thời gian. Nó có
thể diễn ra trong thời gian rất ngắn song cũng có thể kéo dài hàng năm, có
3
thể đợc diễn ra trên phạm vi một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau.
Mục tiêu của xuất khẩu khai thác lợi thế của từng quốc gia trong phân công
lao động quốc tế, và thực hiện mục tiêu chủ yếu quan trọng là xuất khẩu thu
ngoại tệ để nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu của kinh tế nớc nhà bao gồm:

nhu cầu phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá cho tiêu dùng và tạo thêm
nhiều công ăn việc làm.
2. Vai trò
Trong xu thế hội nhập và quốc tế hoá hiện nay xuất khẩu là điều kiện
tồn tại, tăng trởng và phát triển của mỗi quốc gia trong một trật tự chung của
thế giới. Mỗi quốc gia không thể nào có đủ các nguồn lực, các yếu tố đầu vào
để đáp ứng cho sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời một quốc gia
cũng không thể nào tự sản xuất ra tất cả các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ để
đáp ứng nhu cầu của ngời dân trong nớc. Vì vậy mà xuất hiện hình thức th-
ơng mại quốc tế, mỗi quốc gia thông qua đó để trao đổi mua bán hàng hoá,
dịch vụ với các quốc gia khác nhằm thoả mãn nhu cầu của mình.
2.1 Đối với nền kinh tế toàn cầu
Đối với nền kinh tế thế giới là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia
trên trái đất có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau bắt nguồn từ
hoạt động thơng mại quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng.
Hoạt động xuất khẩu nó tác động đến các quốc gia tham gia vào sự phân
công lao động quốc tế. Các quốc gia sẽ tập trung vào sản xuất các sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ mà mình có lợi thế về nhân công, kỹ thuật, đầu vào, tài
nguyên thiên nhiên...Đợc gọi là lợi thế tuyệt đối hay tơng đối để xuất khẩu
ngợc lại sẽ nhập khẩu những sản phẩm, hàng hoá mà mình không có lợi thế
tạo ra chuyên môn hoá sản xuất. Nh vậy nguồn lực của xã hội đợc sử dụng có
hiệu quả hơn và sản phẩm của toàn xã hội đợc tăng lên. Quan hệ đối ngoại
của các nớc ngày càng đợc gắn chặt hơn và từ đó đã xuất hiện các liên kết
kinh tế quốc tế điển hình nh: EU, ASEAN, các tổ chức kinh tế quốc tế nh:
WTO, OPEC, WB.
4
Nh chúng ta đã biết xuất khẩu hàng hoá xuất hiện từ rất sớm. Nó là hoạt
động buôn bán trên phạm vi giữa các quốc gia với nhau(quốc tế). Nó không
phải là hành vi buôn bán riêng lẻ, đơn phơng mà ta có cả một hệ thống các
quan hệ buôn bán trong tổ chức thơng mại toàn cầu. Với mục tiêu là tiêu thụ

sản phẩm của một doanh nghiệp nói riêng cả quốc gia nói chung.
Hoạt động xuất khẩu là một nội dung chính của hoạt động ngoại thơng
và là hoạt động đầu tiên của thơng mại quốc tế. Xuất khẩu có vai trò đặc biệt
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng nh trên
toàn thế giới.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực lu thông hàng hoá là một trong
bốn khâu của quá trình sản xuất mở rộng. Đây là cầu nối giữa sản xuất và
tiêu dùng của nớc này với nớc khác. Có thể nói sự phát triển của của xuất
khẩu sẽ là một trong những động lực chính để thúc đẩy sản xuất.
Trớc hết, xuất khẩu bắt nguồn từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiện của
sản xuất giữa các nớc, nên chuyên môn hoá một số mặt hàng có lợi thế và
nhập khẩu các mặt hàng khác từ nớc ngoài mà sản xuất trong nớc kém lợi thế
hơn thì chắc chắn sẽ đem lại lợi nhuần lớn hơn.
2.2 Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia
Xuất khẩu là một trong những tố tạo đà, thúc đẩy sự tăng trởng và phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Theo nh hầu hết các lý thuyết về tăng trởng và phát triển kinh tế đều
khẳng định và chỉ rõ để tăng trởng và phát triển kinh tế mỗi quốc gia cần có
bốn điều kiện là nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn, kỹ thuật, công nghệ. Nhng
hầu hết các quốc gia đang phát triển (nh Việt Nam ) đều thiếu vốn, kỹ thuật
công nghệ. Do vậy câu hỏi đặt ra làm thế nào để có vốn và công nghệ
2.2.1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc
5
Đối với nớc ta hiện nay để thực hiện để thực hiện đờng lối của Đảng và
nhà nớc đến năm 2020 thực hiện xong công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải
cần một nguồn vốn ngoại tệ lớn để nhập các trang thiết bị kỹ thuật công nghệ
hiện đại. Ngoài những nguồn vốn viện trợ chúng ta cần phải tăng cờng xuất
khẩu để đảm bảo cho khả năng thanh toán, cân bằng cán cân thanh toán quốc
tế, tạo đợc một khối lợng vốn cần thiết để đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh tế

của nớc ta trong thời kỳ mới này.
Đối với mọi quốc gia đang phát triển thì bớc đi thích hợp nhất là phải
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc để khắc phục tình trạng nghèo làn lạc
hậu chận phát triển. Tuy nhiên quá trình công nghiệp hoá phải có một lợng
vốn lớn để nhập khẩu công nghệ thiết bị tiên tiến.
Thực tế cho thấy, để có nguồn vốn nhập khẩu một nớc có thể sử dụng
nguồn vốn huy động chính nh sau:
+ Đầu t nớc ngoài, vay nợ các nguồn viện trợ
+ Thu từ các hoạt động du lịch dịch vụ thu ngoại tệ trong nớc
+ Thu từ hoạt động xuất khẩu
Tầm quan trọng của vốn đầu t nớc ngoài thì không ai có thể phủ nhận đ-
ợc, song việc huy động chúng không phải rễ dàng. Sử dụng nguồn vốn này,
các nớc đi vay phải chịu thiệt thòi, phải chịu một số điều kiện bất lợi và sẽ
phải trả sau này.
Bởi vì vậy xuất khẩu là một hoạt động tạo một nguồn vốn rất quan trọng
nhất. Xuất khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu, nó quyết định đến qui mô tốc độ
tăng trởng của hoạt động nhập khẩu. ở một số nớc một trong những nguyên
nhân chủ yếu của tình trạng kém phát triển là do thiếu tiềm năng về vốn do
đó họ cho nguồn vốn ở bên ngoài là chủ yếu, song mọi cơ hội đầu t vay nợ và
viện trợ của nớc ngoài chỉ thuận lợi khi chủ đầu t và ngời cho vay thấy đợc
khả năng sản xuất và xuất khẩu nguồn vốn duy nhất để trả nợ thành hiện
thực .
6
2.2.2 Xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất
phát triển
Dới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã
và đang thay đổi mạnh mẽ. Xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
các quốc gia từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Thứ nhất, chỉ xuất khẩu những sản phẩm thừa so với nhu cầu tiêu dùng
nội địa. Trong trờng hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển sản xuất
về cơ bản cha đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự d thừa ra của sản xuất
thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong phạm vi nhỏ và tăng trởng chậm, do đó các
ngành sản xuất không có cơ hội phát triển.
Thứ hai, coi thị trờng thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan
điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy xuất
khẩu. Nó thể hiện:
+ Xuất khẩu tạo tiền đề cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. Điều
này có thể thông qua ví dụ nh khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu, các
ngành khác nh bông, kéo sợi, nhuộm, tẩy sẽ có điều kiện phát triển.
+ xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trờng sản phẩm, góp phầnổn định
sản xuất, tạo lợi thế nhờ quy mô.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản
xuất, mở rộng thị trờng tiêu dùng của một quốc gia. Nó cho phép một quốc
gia có rthể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lơng lớn hơn nhiều lần giới
hạn khả năng sản xuất của quốc gia đó thậm chí cả những mặt hàng mà họ
không có khả năng sản xuất đợc.
+ Xuất khẩu góp phần thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cờng hiệu quả
sản xuất của từng quốc gia. Nó cho phép chuyên môn hoá sản xuất phát triển
cả về chiều rộng và chiều sâu. Trong nền kinh tế hiện đại mang tính toàn cầu
7
hoá nh ngày nay, mỗi loại sản phẩm ngời ta nghiên cứu thử nghiệm ở nớc thứ
nhất, chế tạo ở nớc thứ hai, lắp ráp ở nớc thứ ba, tiêu thụ ở nớc thứ t và thanh
toán thực hiện ở nớc thứ 5. Nh vậy, hàng hoá sản xuất ra ở mỗi quốc gia và
tiêu thụ ở một quốc gia cho thấy sự tác động ngợc trở lại của chuyên môn
hoá tới xuất khẩu.
Với đặc điêm quan trọng là tiền tệ sản xuất sử dụng làm phơng tiện
thanh toán, xuất khẩu góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ một quốc gia. Đặc
biệt với các nớc đang phát triển đồng tiền không có khả năng chuyển đổi thì

ngoại tệ có đợc nhờ xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà về
cung cấp ngoại tệ, ổn định sản xuất, qua đó góp phần vào tăng trởng và phát
triển kinh tế.
2.2.3 Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm,
cải thiện đời sống nhân dân
Đối với công ăn việc làm, xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động thông
qua việc sản xuất hàng xuất khẩu. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra ngoại tệ để
nhập khẩu hàng tiêu dùng đáp ứng yêu cầu ngay càng đa dạng và phong phú
của nhân dân.
2.2.4 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối
quan hệ kinh tế đối ngoại
Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, ngoại giao có tác động
qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là cơ sở tiền đề vững chắc
để xây dựng các mối quan hề kinh tế đối ngoại sau này, từ đó kéo theo các
mối quan hệ khác phát triển nh du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng
quốc tế ng ợc lại sự phát triển của các ngành này lại tác động trở lại hoạt
động xuất khẩu làm cơ sở hạ tầng cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
Có thể nói xuất khẩu nói riêng và hoạt động thơng mại quốc tế nói
chung sẽ dẫn tới những sự thay đổi trong sinh hoạt tiêu dùng hàng hoá của
nền kinh tế bằng hai cách:
8
+ Cho phép khối lợng hàng tiêu dùng nhiều hơn với số hàng hoá đợc sản
xuất ra.
+ Kéo theo sự thay đổi có lợi cho phù hợp với các đặc điểm của sản xuất
Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà các tác
động của xuất khẩu đối với các quốc gia khác nhau là khác nhau.
2.3 Vai trò của xuất khẩu đối với các doanh nghiệp
Cùng với sự bùng nổi của nền kinh tế toàn cầu thì xu hớng vơn ra thị tr-
ờng quốc tế là một xu hớng chung của tất cả các quốc gia và các doanh
nghiệp. Xuất khẩu là một trong những con đờng quen thuộc để các doanh

nghiệp thực hiện kế hoạch bành trớng, phát triển, mở rộng thị trờng của
mình.
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trờng tiêu
thụ sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Nhờ có xuất khẩu mà tên tuổi của
doanh nghiệp không chỉ đợc các khách hàng trong nớc biết đến mà còn có
mặt ở thị trờng nớc ngoài.
Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp, tăng dự trữ qua đó
nâng cao khả năng nhập khẩu, thay thế, bổ sung, nâng cấp máy móc, thiết bị,
nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình phát triển.
Xuất khẩu phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của cán bộ XNK
cũng nh các đơn vị tham gia nh: tích cực tìm tòi và phát triển các mặt trong
khả năng xuất khẩu các thị trờng mà doanh nghiệp có khả năng thâm nhập.
Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện
công tác quản trị kinh doanh. Đồng thời giúp các doanh nghiệp kéo dài tuổi
thọ của chu kỳ sống của một sản phẩm.
Xuất khẩu tất yếu dẫn đến cạnh tranh, theo dõi lần nhau giữa các đơn vị
tham gia xuất khẩu trong và ngoài nớc. Đây là một trong những nguyên nhân
buộc các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu phải nâng cao chất lợng hàng hoá
9
xuất khẩu, các doanh nghiệp phải chú ý hơn nữa trong việc hạ giá thành của
sản phẩm, từ đó tiết kiệm các yếu tố đầu vào, hay nói cách khác tiết kiệm các
nguồn lực.
Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút đợc thu hút đợc
nhiều lao động bán ra thu nhập ổn định cho đời sống cán bộ của công nhân
viên và tăng thêm thu nhập ổn định cho đời sống cán bộ của công nhân viên
và tăng thêm lợi nhuận.
Doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu có cơ hội mở rộng quan hệ
buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nớc ngoài dựa trên cơ sở đôi bên cùng
có lợi.
II. Những nhân tố ảnh hởng tới xuất khẩu

1. Các nhân tố vĩ mô
Thực chất của chính sách thơng mại quốc tế của Nhà nớc bao gồm một
hệ thống các nguyên tắc và biện pháp thích hợp đợc áp dụng để điều chỉnh
các hoạt động ngoại thơng cho phù hợp với lợi ích chung của Nhà nớc trong
từng giai đoạn.
Chính sách thơng mại quốc tế là một hệ thống chính sách của Nhà nớc
nó phục vụ đắc lực cho đờng lối phát triển kinh tế trong từng thời kỳ. Nó ảnh
hởng tới quá trình tái sản xuất của xã hội và sự tham gia vào nền kinh tế quốc
dân vào quá trình phân công lao động quốc tế.
Chính sách thơng mại quốc tế có quan hệ mật thiết với chính sáchđối
ngoại của Đảng và Nhà nớc ta. Nó là công cụ có hiệu lực để thực hiện chính
sách đối ngoại mở mang quan hệ hợp tác hữu nghị với các nớc trong khu vực
và trên thế giới. Đồng thời chính sách đối ngoại tạo điều kiện giúp các tổ
chức kinh tế tiếp cận với thị trờng khách hàng để mở rộng hoạt động thơng
mại quốc tế. Đồng thời để thực hiện nhiệm vụ, chính sách thơng mại quốc tế
của Nhà nớc ta là tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh tham
gia vào phân công lao động quốc tế, mở mang hoạt động xuất nhập khẩu và
10
bảo vệ thị trờng nội địa nhằm đạt đợc mục tiêu, yêu cầu kinh tế, chính trị, xã
hội trong hoạt động kinh tế đối ngoại.
1.1 Thuế quan xuất khẩu
Trong hoạt động xuất khẩu, thuế quan xuất khẩu là một loại thuế đánh
vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu. Nó áp dụng cho hàng xuất khẩu từ nội
địa ra thị trờng nớc ngoài và nó làm cho giá cả hàng hoá bị đánh thuế vợt quá
giá trị trong nớc hay nói một cách khác, nó làm hạ thấp tơng đối mức giá cả
trong nớc của hàng hóa có thể xuất khẩu xuống so với mức giá cả quốc tế.
Điều này phù hợp với thực tiễn thơng mại của các nớc nhỏ. ở nhiều nớc phát
triển khi nói tới thuế quan tức là đồng nhất với thuế nhập khẩu. Tuy nhiên ở
những nớc đang phát triển ngời ta vẫn sử dụng khá phổ biến thuế xuất khẩu
đặc biệt là đánh vào các sản phẩm truyền thống nhằm tăng thêm lợi ích cho

quốc gia. Ví dụ: Zambia đánh thuế đồng xuất khẩu của mình theo các mức
thuế khác nhau.
Thuế quan xuất khẩu cũng làm tăng nguồn thu cho Ngân sách, nhng nó
lại làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế cao hơn mức giá cả
trong nớc. Tuy nhiên tác động của thuế quan xuất khẩu nhiều khi lại trực tiếp
đa đến cho khả năng xuất khẩu. Do quy mô xuất khẩu của một nớc thờng là
nhỏ so với dung lợng của thị trờng thế giới cho nên thuế xuất khẩu sẽ làm hạ
thấp tơng đối mức giá cả trong nớc của hàng hoá có thể xuất khẩu xuống so
với mức giá cả quốc tế. Điều đó sẽ làm sản lợng trong nớc của mặt hàng có
thể xuất khẩu sẽ giảm đi và sản xuất trong nớc sẽ thay đổi bất lợi cho những
mặt hàng này. Trong một số trờng hợp, việc đánh thuế xuất khẩu làm cho
khối lợng xuất khẩu giảm đi nhiều mà vẫn có lợi cho nớc xuất khẩu, nếu nh
họ có tác động đáng kể đến giá quốc tế. Ví dụ: có sự độc quyền việc xuất
khẩu sâm của Triều Tiên.
Nh vậy, thuế xuất khẩu sẽ làm giảm lợng cung quá mức trong nớc đối
với hàng có thể xuất khẩu, đồng thời chúng sẽ tác động đến hoạt đông thơng
mại khác cũng nh phân phối lại lợi ích. Vì vậy Nhà nớc tuỳ theo những mặt
hàng đợc khuyến khích xuất khẩu hay không khuyến khích xuất khẩu mà có
11
biểu thuế khác nhau do đó nó tác động rất lớn đến các mặt hàng xuất khẩu
của doanh nghiệp xuất khẩu.
1.2 Hạn ngạch
Các nớc thờng áp dụng hạn ngạch để bảo hộ sản xuất trong nớc. Ví dụ:
hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ, EU nó ảnh hởng
đến lợng hàng xuất khẩu của nớc xuất khẩu sang nớc nhập khẩu. Để đảm bảo
cho mục tiêu phát triển của các ngành xuất khẩu mũi nhọn Nhà nớc thờng
phải đàm phán để nâng cao số lợng hàng hoá trong hạn ngạch hoặc xoá bỏ
hạn ngạch. Hạn ngạch đợc hiểu là quy định của Nhà nớc về số lợng còn giá
trị của một mặt hàng hoặc một nhóm mặt hàng đợc phép xuất khẩu sang hoặc
nhập khẩu từ một thị trờng nhất định. Ví dụ nh Nhà nớc có thể hạn chế mức

nhập khẩu xe hơi Nhật ở mức tối đa 100.000 xe trong một năm. Nh vậy hạn
ngạch nó hạn chế số lợng nhập khẩu đồng thời nó cũng ảnh hởng đến giá nội
địa của hàng hoá. Do mức cung thấp giá cân bằng sẽ cao hơn trong điều kiện
thơng mại tự do. Nh vậy hạn ngạch tơng đối giống với thuế nhập khẩu. Giá
hàng nhập nội địa đối với ngời tiêu dùng tăng lên và chính giá cao này cho
phép các nhà sản xuất nội địa kém hiệu quả sản xuất ra một sản lợng cao hơn
so với điều kiện thơng mại tự do. Hạn ngạch cũng dẫn tới sự lãng phí của xã
hội giống nh đối với thuế nhập khẩu.
Xét về ý nghĩa bảo hộ hạn ngạch cũng có tác động nh thuế quan. Hạn
ngạch nhập khẩu là công cụ quan trọng để thực hiện chiến lợc sản xuất thay
thế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất nội địa. Đối với chính phủ và các nhà doanh
nghiệp, hạn ngạch cho biết trớc số lợng hàng nhập khẩu. Đối với thuế quan l-
ợng hàng nhập khẩu phụ thuộc vào mức độ linh hoạt của cung cầu và thờng
không thể biết trớc đợc. Nh vậy xét về mặt bảo hộ không có sự khác biệt chủ
yếu nào giữa thuế quan và hạn ngạch. Tuy nhiên sự tác động của hạn ngạch
nhập khẩu khác với sự tác động của thuế quan ở hai mặt. Mức thuế quan tối
thiểu ít nhất cũng mang lại thu nhập cho chính phủ, có thể cho phép giảm
những loại thuế khác và do đó nó bù đắp đợc một phần nào cho ngời tiêu
dùng trong nớc. Một hạn ngạch nhập khẩu lại đa lại lợi nhuận có thể rất lớn
12
cho những ngời may mắn xin đợc giấy phép nhập khẩu theo hạn ngạch. Vì
vậy thờng có sự "chạy chọt" và hối lộ để xin đợc hạn ngạch nhập khẩu. Sự
khác biệt thứ hai là hạn ngạch có thể biến một doanh nghiệp duy nhất trong
nớc thành một doanh nghiệp độc quyền có thể đặt mức giá bán cao để họ thu
lợi nhuận tối đa.
Từ sự khác nhau đó các nhà kinh tế nhìn nhận nói chung hạn ngạch có
hại nhiều hơn thuế quan. Nhng theo họ có thể giải quyết bằng cách là chính
phủ thực hiện bán đấu giá giấy phép nhập khẩu theo hạn ngạch thì sẽ khắc
phục đợc tình trạng nói trên.
Hạn ngạch nhập khẩu thờng đợc quy định theo một loại sản phẩm đặc

biệt hay sản phẩm và thị trờng đặc biệt. ở Việt Nam hiện nay hạn ngạch nhập
khẩu chỉ áp dụng với 4 loại hàng: ô tô 12 chỗ ngồi, xe 2 bánh gắn máy, kinh
kiện điện tử dạng LKD, SKD, nguyên liệu phụ liệu sản xuất thuốc lá.
Để quản lý nhập khẩu các nớc cũng áp dụng hạn ngạch xuất khẩu. Hạn
ngạch xuất khẩu đợc quy định theo mặt hàng, theo nớc và thời gian nhất
định. ở Việt Nam hiện nay hạn ngạch xuất khẩu chỉ quy định đối với mặt
hàng gạo.
1.3 Trợ cấp xuất khẩu
Bên cạnh các công cụ nhằm hạn chế nhập khẩu còn có những công cụ
dùng để nâng đỡ hoạt động xuất khẩu. Chính phủ có thể áp dụng các biện
pháp trợ cấp trực tiếp hoặc cho vay với lãi suất thấp đối với các nhà xuất khẩu
trong nớc. Bên cạnh đó Chính phủ còn có thể thực hiện một khoản cho vay u
đãi đối với các bạn hàng nớc ngoài để họ có điều kiện mua các sản phẩm do
nớc mình sản xuất ra, và để xuất khẩu ra bên ngoài. Đây chính là các khoản
tín dụng "viện trợ" mà Chính phủ các nớc công nghiệp phát triển áp dụng, khi
cho các nớc đang phát triển vay (thờng có kèm theo các điều kiện chính trị).
Giả sử để nâng đỡ một ngành sản xuất nào đó, Chính phủ sẽ trợ cấp trực
tiếp một khoản tiền nhất định cho bộ phận sản phẩm đợc đem vào xuất khẩu.
13
Khi ấy các nhà sản xuất trong nớc sẽ thu lợi về chính khoản tiền trợ cấp đó.
Nhng tác động của việc trợ cấp sẽ lan tràn sang các khâu khác. Cụ thể là:
- Mức cung thị trờng nội địa bị giảm do giảm quy mô xuất khẩu, giá cả
thị trờng tăng lên, ngời tiêu dùng trong nớc sẽ bị thiệt một khoản tiền nhất
định.
- Chi phí ròng của xã hội phải bỏ ra để bảo hộ việc khuyến khích xuất
khẩu gây thiệt hại cho xã hội gồm có chi phí nội địa do sản xuất thêm nhiều
sản phẩm để xuất khẩu (chi phí cận biên nội địa tăng lên), đồng thời gồm cả
chi phí do giảm mức tiêu dùng trong nớc. Lu ý là lợi ích mà nhà sản xuất thu
đợc nhỏ hơn chi phí mà xã hội phải bỏ thêm. Nh vậy là trợ cấp xuất khẩu đa
đến cái hại nhiều hơn là cái lợi. Nhng trong thực tế nó vẫn đợc sử dụng để

phục vụ cho một mục đích cụ thể nào đó. Bởi vậy cần phải cân nhắc thận
trọng khi áp dụng các công cụ này.
1.4 Tỷ giá hối đoái và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm đẩy
mạnh xuất khẩu
Đẩy mạnh xuất khẩu là một chơng trình kinh tế quan trọng của mỗi nớc.
Muốn đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi phải có những chính sách và biện pháp
hữu hiệu để các nhà kinh doanh thu đợc lợi nhuận khi hớng hoạt động kinh
doanh ra thế giới.
Điều kiện cần thiết đầu tiên là duy trì tỷ giá hối đoái phù hợp để cho các
nhà sản xuất kinh doanh thơng mại trong nớc khi bán các sản phẩm, dịch vụ
của họ ra thị trờng thế giới. Kinh nghiệm của các nớc đang phát triển thực
hiện chiến lợc xuất khẩu (sản xuất hớng về xuất khẩu) cũng nh ở Việt Nam
trong thời gian qua là phải tiến hành phá giá thờng kỳ để đạt đợc mức tỷ giá
cân bằng đợc thị trờng chấp nhận và sau đó duy trì giá tơng quan với chi phí
và giá cả đang bị lạm phát ở trong nớc.
14
Thứ hai, nếu chính phủ muốn các nhà sản xuất kinh doanh hớng ra thị
trờng thế giới, thì phải giảm bớt sức hấp dẫn tơng đối của việc sản xuất cho
thị trờng nội địa. Điều này đòi hỏi phải giảm thuế quan có tính chất bảo hộ
đối với các ngành công nghiệp đợc u đãi và tránh quy định hạn ngạch số lợng
nhập khẩu, các nhà sản xuất kinh doanh thờng đầu t vào lĩnh vực có lợi nhất
cho nên lợi nhuận sản xuất thay thế nhập khẩu phải giữ ở mức độ phù hợp với
lợi nhuận xuất khẩu. Điều này có nghĩa là bảo hộ bằng thuế quan không đợc
cao hơn mức trợ cấp xuất khẩu và cũng phải thấp nhất đối với các mặt hàng.
Thứ ba, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, chính sách
đẩy mạnh xuất khẩu phải duy trì giá cả tơng đối của các yếu tố sản xuất trong
nớc ở mức độ phản ảnh sự khan hiếm của chúng. Nguyên tắc cơ bản là xuất
khẩu những mặt hàng sử dụng nhiều nhất yếu tố sản xuất có sẵn của nền kinh
tế. Để đảm bảo cho các doanh nghiệp bất cứ thành phần nào của nền kinh tế
quyết định đầu t hay sản xuất phù hợp với nguyên tắc đó thì giá cả tơng đối

họ trả cho lao động, vốn, đất đai không đợc quá chênh lệch với giá đợc hình
thành bởi những lực lợng thị trờng cạnh trên cơ sở quan hệ cung cầu các
nguồn lực đó. Nếu lao động dồi dào thì tiền lơng và các chi phí khác về nhân
công phải thấp, còn vốn khan hiếm thì giá phải cao đối với nhà đầu t.
2. Các nhân tố vi mô
2.1 Tiềm lực tài chính
Là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua
khối lợng (nguồn) vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh,
khả năng phân phối (đầu t) có hiệu quả các nguồn vốn. Khả năng quản lý có
hiệu quả các nguồn vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện qua các
chỉ tiêu:
- Vốn chủ sở hữu (vốn tự có)
- Vốn huy động
- Tỷ lệ tái đầu t về lợi nhuận
15
- Khả năng trả nợ ngắn hạn và dài hạn
- Các tỷ lệ về khả năng sinh lời
2.2 Tiềm năng con ngời
Trong kinh doanh (đặc biệt là trong lĩnh vực thơng mại - dịch vụ, hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu) con ngời là yếu tố quan trọng hàng đầu để
bảo đảm thành công. Chính con ngời với năng lực thật của họ mới lựa chọn
đúng cơ hội và sử dụng sức mạnh khác mà họ đã và sẽ có: vốn, tài sản, kỹ
thuật công nghệ một cách có hiệu quả để khai thác và v ợt qua cơ hội.
2.3 Trình độ tổ chức quản lý
Mỗi một doanh nghiệp là một hệ thống với những liên kết chặt chẽ với
nhau hớng tới mục tiêu. Một doanh nghiệp muốn đạt đợc mục tiêu của mình
thì đồng thời phải đồng thời phải đạt tới một trình độ tổ chức, quản lý tơng
ứng. Khả năng tổ chức, quản lý doanh nghiệp dựa trên quan điểm tổng hợp,
bao quát, tập trung vào những mối liên hệ tơng tác của tất cả các bộ phận tạo
thành tổng thể tạo nên sức mạnh thật sự cho doanh nghiệp.

2.4 Cơ sở vật chất kỹ thuật
Cơ sở vật chất kỹ thuật phản ánh nguồn tài sản cố định doanh nghiệp có
thể huy động vào kinh doanh: thiết bị, nhà xởng Nếu doanh nghiệp có cơ
sở vật chất kỹ thuật càng đầy đủ và hiện đại thì khả năng nắm bắt thông tin
cũng nh việc thực hiện các hoạt động kinh doanh xuất khẩu càng thuận tiện
và có hiệu quả.
2.5 Các nhân tố khác
16
Các yếu tố xã hội: hoạt động của con ngời luôn luôn tồn tại trong một
điều kiện xã hội nhất định. Chính vì vậy, các yếu tố xã hội có ảnh hởng rất
lớn đến hoạt động của con ngời. Các yếu tố xã hội là tơng đối rộng, do vậy để
làm sáng tỏ ảnh hởng của yếu tố này có thể nghiên cứu ảnh hởng của yếu tố
văn hoá, đặc biệt là trong ký kết hợp đồng.
Nền văn hoá tạo nên phong cách sống của mỗi cộng đồng sẽ quyết định
cách thức tiêu dùng, thứ tự u tiên cho các nhu cầu mong muốn đợc thoả mãn
và cách thoả mãn của con ngời sống trong đó. Chính vì vậy, văn hoá là yếu tố
chi phối lối sống nên các nhà xuất khẩu luôn luôn phải quan tâm tìm hiểu
yếu tố văn hoá ở các thị trờng mà mình tiến hành các hoạt động xuất khẩu.
Các yếu tố chính trị pháp luật: các yếu tố chính trị pháp luật có ảnh h-
ởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu. Các công ty kinh doanh xuất khẩu đều
phải tuân thủ các quy định của các Chính phủ có liên quan, tập quán và luật
pháp quốc gia, quốc tế:
- Các quy định của luật pháp đối với hoạt động xuất khẩu (thuế, thủ tục
quy định về mặt hàng xuất khẩu, quy định quản lý về ngoại tệ ).
- Các hiệp ớc, hiệp định thơng mại mà quốc gia có doanh nghiệp xuất
khẩu tham gia.
- Các quy định nhập khẩu của các quôc gia mà doanh nghiệp có quan hệ
làm ăn.
- Các vấn đề pháp lý và tập quán quốc tế có liên quan đến việc xuất
khẩu (Công ớc Viên 1980, Incoterm 2000 ).

Ngoài những vấn đề nói trên, Chính phủ còn thực hiện các chính sách
ngoại thơng khác nh: hàng rào phi thuế quan, u đãi thuế quan
Chính sách ngoại thơng của Chính phủ trong mỗi thời kỳ có sự thay đổi.
Sự thay đổi đó là một trong những rủi ro lớn đối với nhà làm kinh doanh xuất
khẩu. Vì vậy, họ phải nắm đợc chiến lợc phát triển kinh tế của đất nớc để
nắm đợc xu hớng vận động của nền kinh tế và sự can thiệp của Nhà nớc.
17
Yếu tố hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu: các yếu tố hạ
tầngphục vụ cho hoạt động xuất khẩu ảnh hởng trực tiếp đến hoạt đông xuất
khẩu, chẳng hạn nh:
- Hệ thống giao thông đặc biệt là hệ thống cảng biển: mức độ trang bị,
hệ thống xếp dỡ, thủ tục giao nhận cũng nh đảm bảo an toàn cho hàng hoá
xuất khẩu.
- Hệ thống ngân hàng: sự phát triển của hệ thống ngân hàng cho phép
các nhà kinh doanh xuất khẩu thuận lợi trong việc thanh toán, huy động vốn.
Ngoài ra ngân hàng là một nhân tố đảm bảo lợi ích cho nhà kinh doanh bằng
các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng.
- Hệ thống bảo hiểm, kiểm tra chất lợng hàng hoá cho phép các hoạt
động xuất khẩu đợc thực hiện một cách an toàn hơn, đồng thời giảm bớt mức
độ thiệt hại khi có rủi ro xảy ra
Nhu cầu của thị trờng nớc ngoài: do khả năng của nớc nhập khẩu không
đủ để đáp ứng đợc nhu cầu tiêu dùng trong nớc, hoặc do các mặt hàng trong
nớc sản xuất không đa dạng nên không thoả mãn đợc nhu cầu của ngời tiêu
dùng, nên đòi hỏi các nớc phải nhập khẩu hàng hoá của các nớc khác. Chính
điều này cũng là một trong các nhân tố để thúc đẩy xuất khẩu của các nớc có
khả năng đáp ứng đợc nhu cầu trong nớc và cả nhu cầu của nớc ngoài.
III. Đặc điểm của thị trờng dệt may thế giới
1. Thực trạng sản xuất và buôn bán hàng dệt may thế giới
1.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may thế giới
1.1.1 Tình hình sản xuất

Từ những năm 1990 đến nay, tổng sản lợng sợi dệt của toàn thế giới liên
tục tăng với tốc độ trung bình hàng năm là 2%/năm. Ngành công nghiệp dệt
may chủ yếu tập trung ở hai khu vực chính là Châu á và Châu Âu. Năm 1997,
hai khu vực này đã chiếm tới 76,6% sản lợng sợi dệt của toàn cầu.
18
Châu á:khu vực Châu á chiếm khoảng 60% sản lợng, thu hút hơn nửa
số lao động trong ngành dệt may thế giới. Trong giai đoạn 1980 -1996, sản
xuất dệt sợi toàn cầu tăng bình quân 2,7%/năm, sản xuất của khu vực Châu á
tăng 5%/năm.
Trung Quốc là một điển hình nổi bật cho sự phát triển của ngành dệt
may Châu á. Giai đoạn 1985 -1994, ngành dệt có tốc độ phát triển trung bình
hàng năm là 13,5%, ngành may là 21,6%. Trung Quốc có sản lợng sợi bông,
vải bông, vải tơ tằm, hàng dệt kim và quần áo đang giữ vị trí đứng đầu, xơ
hoá học và sợi len chiếm vị trí thứ hai thế giới. Sản lợng sợi bông của Trung
Quốc niên vụ 2000-2001 đạt 19,6 triệu kiện (480 pao/kiện).
Châu Âu: ngành dệt Châu âu có sức cạnh tranh tốt nhất trên thị trờng
thế giới thời kỳ 1980 -1990, đặc biệt là Đức và ý. Nhng từ những năm 90,
ngành dệt may Châu âu đã suy giảm đáng kể về khối lợng sản xuất và thị
phần. Năm 1980, sản xuất sợi dệt của Châu âu chiếm 30% trong tổng sản l-
ợng sợi của toàn cầu, năm 1990 giảm xuống còn 24,8%, năm 1997 chỉ còn
17,1%.
ở các nớc EU, tốc độ phát triển của ngành dệt đang giảm dần. Sản lợng
sợi dệt năm 1997 có tăng so với 1996 nhng sản xuất hàng may mặc vẫn tiếp
tục giảm 5,1% và lao động ngành dệt may giảm1,2%.
ở các nớc Trung Đông và Đông âu, do kinh tế không ổn định trong thời
kỳ chuyển đổi nên sản lợng hàng dệt may sụt giảm liên tục. Năm 1996, sản l-
ợng vải và sợi dệt ở các nớc Ba Lan, Cộng hoà Séc và Hungary chỉ bằng một
nửa sản lợng mà họ sản xuất ra trong năm 1998. Nhng sản xuất hàng may đã
khởi sắc, một phần nhỏ chiến lợc đầu t sang khu vực này của EU.
Châu Mỹ: Mỹ và Mexico là những nớc có ngành công nghiệp dệt khá

phát triển. Ngành dệt Mỹ phát triển mạnh từ những năm 70 và trong hai thập
kỷ gần đây đã có những thay đổi căn bản về công nghệ và thông tin nhằm
phát triển sản xuất một cách có hiệu quả, hàng năm đầu t khoảng 3 tỷ UsD để
19
duy trì các thiết bị sản xuất hiện đại. Nếu lấy tốc độ phát triển ngành dệt may
1990 của Mỹ là 100% thì năm 1995 là 116% và năm 1996 là 114,6%.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây các công ty sợi, dệt và may Mỹ đang
gặp phải khó khăn. Cho dù giá trị bán hàng của 20 nhà sản xuất dệt may
chính tăng 8,2% năm 2000, nhng lợi nhuận kiếm đợc đã giảm 8,1%. Công
nghiệp dệt năm 2000 kết thúc trong tình trạng báo động, và theo Viện các
nhà sản xuất dệt Mỹ, lần đầu tiên toàn ngành đã thua lỗ kể từ hơn50 năm
qua.
1.1.2 Tình hình tiêu thụ
Từ những năm 1950, khối lợng sợi dệt tiêu thụ toàn thế giới liên tục
tăng cùng với tốc độ tăng dân số và nhìn chung, tốc độ tăng trởng của tiêu
thụ hàng dệt may gắn liền với tốc độ tăng trởng của nền kinh tế thế giới.
Tiêu thụ sợi dệt trên toàn cầu có tốc độ tăng trung bình hàng năm 2,5%
trong thời kỳ 1975 -1995, đạt mức 41,3 triệu tấn vào năm 1995. Tuy nhiên,
mức tăng trung bình hàng năm giảm xuống 1,5%/năm trong các năm
1990-1995.
Mức tiêu thụ dệt may bình quân của ngời dân Châu âu và Bắc Mỹ cao
nhất thế giới, nhng Châu á là khu vực dẫn đầu thế giới về tiêu thụ sợi dệt, tuy
nhiên mức cung ứng sợi dệt và quần áo vẫn còn lớn hơn rất nhiều mức tiêu
thụ.
Tóm lại: sản xuất và tiêu thụ sợi dệt trên toàn cầu liên tục tăng nhng
nhịp độ đã giảm so với những năm trớc đây, sản xuất tăng với tốc độ cao hơn
tăng tốc độ tiêu dùng dẫn đến tình trạng cung lớn hơn cầu. D thừa chủ yếu
là do khu vực Châu á.
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng các loại sợi dệt đang có sự thay đổi, các
loại vải sợi tổng hợp đang có xu hớng tăng nhanh cả về nhịp độ và tỷ trọng

trong tổng khối lợng tiêu thụ và sản xuất trên toàn cầu. Ngợc lại, các loại vải
sợi tự nhiên đang suy giảm do hạn chế về nguồn cung ứng.
20
Công nghiệp dệt may Châu á đang phát triển mạnh hơn so với các khu
vực khác và chiếm tỷ trọng lớn trong sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may của
thế giới, các quốc gia ở Châu á đang có nhiều lợi thế so sánh trong sản xuất
hàng dệt may. Ngợc lại, sản xuất ở Châu âu đang suy giảm và ở khu vực này
đang diễn ra quá trình chuyển dịch sản xuất từ Tây âu sang các nớc ngoài
khu vực và sang các nớc Đông, Trung âu để tận dụng chi phí sản xuất thấp.
1.2 Tình hình buôn bán hàng dệt may thế giới
Kim ngạch dệt may cuả thế giới đạt khoảng 300 - 350 tỷ USD/năm,
chiếm hơn 6% tổng kim ngạch mậu dịch toàn thế giới. Trị giá buôn bán quốc
tế hàng dệt may liên tục tăng qua các năm nhng nhịp độ tăng bình quân thời
kỳ 1990 -1995 (8%/năm) đã giảm so với thời kỳ 1985 -1990 (hàng dệt: 15%/
năm; hàng may mặc: 17%/năm).
Châu á, Tây âu và Bắc Mỹ là ba trung tâm buôn bán chính hàng dệt
may, chiếm khoảng 80 -90% kim ngạch xuất nhập khẩu cuả thế giới.
Các nớc xuất khẩu hàng dệt may chủ yếu:
ở khu vực Châu á, kinh doanh hàng dệt may có tốc độ tăng trởng cao,
gấp khoảng hai lần tốc độ tăng trởng của toàn thế giới. Trị giá xuất khẩu
hàng dệt và may mặc của khu vực Châu á lớn nhất thế giới chiếm 45% tổng
giá trị xuất khẩu hàng may mặc và 43% xuất khẩu hàng dệt của toàn thế giới.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trởng của xuất khẩu ngoại vùng của Châu á đang giảm
dần do buôn bán nội vùng ở hai thị trờng lớn của Châu á là Bắc Mỹ và Tây âu
đang ngày càng tăng.
Kể từ đầu những năm 90, Trung Quốc luôn là một trong những nớc
đứng đầu thế giới về xuất khẩu hàng dệt và may mặc, kim ngạch xuất khẩu
chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch buôn bán hàng dệt may
toàn cầu với kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2000 gần 52 tỷ USD
chiếm 20% thị phần dệt may thế giới. Những thị trờng xuất khẩu chính của

21
Trung Quốc là Hồng Kông, Nhật Bản, Mỹ và EU. Bốn thị trờng chính này
chiếm hơn 75% tổng giá trị xuất khẩu của Trung Quốc.
Hồng Kông: cũng là nhà xuất nhập khẩu hàng dệt may lớn. Hiện nay,
Hồng Kông có trên 4000 doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt may, là đầu cầu
lớn nhất cung cấp cho thị trờng Mỹ và Châu âu với trị giá khoảng 36 -37 tỷ
USD/năm. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng tái xuất có giá trị gia
tăng cao và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng
dệt may của Hồng Kông. Thị trờng xuất khẩu chính của Hồng Kông là Mỹ,
EU và Trung Quốc.
ở các nớc Trung và Đông âu. từ năm 1993 trở lại đây, kim ngạch nhập
khẩu hàng dệt và xuất khẩu hàng dệt may tăng lên rõ rệt, đặc biệt là các nớc
Ba Lan, Hungary, Rumani. Phần lớn hàng may mặc là hàng đặt may gia công
đợc xuất khẩu trở lại EU và Mỹ.
Thổ Nhĩ Kỳ đang dần khẳng định vị trí của mình trong thị trờng dệt
may thế giới. Từ cuối những năm 1980, xuất khẩu hàng dệt may của Thổ Nhĩ
Kỳ tăng lên nhanh chóng, chủ yếu là vải và quần áo. Trong giai đoạn 1990
-1995, xuất khẩu hàng may mặc tăng với tốc độ 12,9%/năm. EU là thị trờng
lớn nhất của Thổ Nhĩ Kỳ về hàng may mặc, khoảng 73% của năm 1996.
Tháng 1/1996, EU và Thổ Nhĩ Kỳ đã vào liên minh hải quan nên trong tơng
lai EU vẫn tiếp tục là thị trờng chính củ Thổ Nhĩ Kỳ.
Các nớc chủ yếu nhập khẩu hàng dệt may:
Nhật Bản là nớc lớn nhất Châu á, thứ ba thế giới về hàng may mặc phục
vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa, nhịp độ tăng của hàng may mặc nhập khẩu
khá cao, bình quân 17%/năm trong giai đoạn 1990 -1996. Từ năm 1996,
nhập khẩu quần áo bắt đầu chững lại và chỉ tăng 5% so với năm 1995 và
giảm 14,3% trong năm 1997 chỉ đạt 16727 triệu USD. Nhật Bản nhập khẩu
hàng may mặc từ Trung Quốc, Italia, Mỹ, Hàn Quốc nhập khẩu từ các n ớc
Châu á tăng liên tục: thị phần của khu vực Châu á tăng từ 80,9% năm 1995
lên 82,2% năm 1997, chủ yếu là do nhập khẩu từ Trung Quốc tăng.

22
Các nớc EU đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt may, đặc biệt là
may mặc với kim ngạch nhập khẩu hàng may năm 1997 đạt 80429 triệu USD
và kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may đạt 54060 triệu USD. nhập khẩu hàng
may mặc của EU chiếm 45 -46% trong tổng giá trị nhập khẩu của thế giới
trong khi hàng dệt chỉ chiếm 34 -35%. Tỷ trọng hàng dệt may nhập khẩu so
với toàn thế giới đang giảm dần: 52,4% năm 1990 xuống còn 40,4% năm
1997. EU nhập khẩu nhiều nhất từ Châu á. Tuy nhiên, cơ cấu thị trờng nhập
khẩu của EU đã có thay đổi. Hàng dệt may từ Châu á đang có xu hớng giảm,
ngợc lại nguồn nhập khẩu từ các nớc Trung - Đông âu, từ Bắc Mỹ và Châu
Phi đang có xu hớng tăng lên.
Các nớc Bắc Mỹ là những nhà nhập khẩu hàng dệt may lớn, đặc biệt là
hàng may mặc, chiếm gần 30% khối lợng nhập khẩu toàn cầu. Hàng dệt may
xuất khẩu từ các nớc Châu á chiếm trên 60% trị giá nhập khẩu của Bắc Mỹ
năm 1996. Tuy nhiên, thị phần của các nớc Châu á tại Bắc Mỹ đang giảm
dần: từ 65,7% năm 1994 xuống còn 61% năm 1996 ở Mỹ; từ 64,6% năm
1995 xuống 63,4% năm 1996 ở Canada. Ngợc lại, thị phần của các nớc trong
khối đang mạnh dần lên: xuất khẩu của các nớc thuộc NAFTA sang Canada
tăng từ 18,5% năm1995 lên 21,8% năm 1997.
Hàng dệt may là mặt hàng nhập khẩu lớn thứ t tại Mỹ. Từ năm 1990, tỷ
trọng hàng dệt may nhập khẩu vào thị trờng Mỹ trong tổng giá trị nhập khẩu
của thế giới vẫn tiếp tục tăng. Năm 1997, tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt
may của Mỹ là 62,76 tỷ USD, năm 2001 là 70,239 tỷ USD.
Tóm lại: xu hớng tăng cờng buôn bán nội khu vực đang tiếp tục phát
triển cùng qúa trình liên minh kinh tế ngày càng chặt chẽ giữa các nớc trong
khu vực (NAFTA, EU). Và sự xuất hiện các nhà sản xuất mới ở Trung và
Đông âu, Thổ Nhĩ Kỳ đã làm thay đổi cơ cấu thị trờng xuất nhập khẩu. Xu h-
ớng này gây sức ép cạnh tranh rất lớn, gây khó khăn hơn cho các nớc xuất
khẩu từ bên ngoài và các nớc xuất khẩu truyền thống của Mỹ và EU, đặc biệt
các nớc xuất khẩu từ Châu á.

23
2. Quá trình tự do hoá buôn bán toàn cầu hàng dệt may và những tác
động đến buôn bán hàng dệt may thế giới
2.1 Quá trình tự do hoá buôn bán quốc tế hàng dệt may
Từ những năm 30, các hạn chế về số lợng hàng trong buôn bán dệt may
đã đợc Mỹ và một số nớc phơng Tây áp đặt để hạn chế nhập khẩu hàng dệt
may. Năm 1961, hàng dệt may bắt đầu đợc xem xét đợc xem xét một cách
chính thức bên ngoài các quy định thông thờng của GATT bằng các thoả
thuận ngăn và dài hạn về sợi bông và sau đó (năm 1974) là Hiệp định Đa sợi
(Multi Fibre Arrangement - MFA). Theo MFA, các nớc nhập khẩu có thể
thông qua các thoả thuận song phơng hoặc trong trờng hợp không đi đến thoả
thuận song phơng có thể đơn phơng thiết lập hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt
may đối với từng nớc xuất khẩu và tốc độ tăng của hạn ngạch thay đổi tuỳ
theo mỗi nớc.
Năm 1994, trong khuôn khổ vòng đàm phán Urguay của tổ chức thơng
mại thế giới, Hiệp định về hàng dệt may (Agreement on Textile and
Clothing-ATC) ra đời thay thế cho MFA và là hiệp định quốc tế chính thức
bao trùm trong lĩnh vực dệt may. Theo quy định của ATC, quá trình tự do
hóa buôn bán các sản phẩm dệt may sẽ chuyển qua một giai đoạn chuyển
tiếp, bắt đầu từ 01/01/1995 và đợc thực hiện theo 2 nội dung chính:
Hàng dệt may hội nhập dần dần vào các quy định thông thờng của
GATT, qua trình này bao gồm 4 giai đoạn:
- Ngày 01/01/1995 hội nhập không dới 16% khối lợng hàng hoá nhập
khẩu trong năm 1990 theo bản danh mục hàng hoá của Hiệp định.
- Ngày 01/01/1998 hội nhập không dới 17% tiếp theo khối lợng hàng
hoá nhập khẩu.
- Ngày 01/01/2002 hội nhập không dới 18% tiếp theo khối lợng của
hàng hoá nhập khẩu.
24
- Ngày 01/01/2005 tất cả các hàng hoá còn lại phải đợc hội nhập, các

hạn chế theo MFA sẽ đợc loại bỏ hoàn toàn.
Trong từng giai đoạn, mỗi nớc nhập khẩu có quyền lựa chọn bất cứ sản
phẩm nào trong 4 loại: sợi, vải, sản phẩm dệt và quần áo để đa vào danh mục
hội nhập. Các sản phẩm này không nhất thiết phải giống nhau ở mỗi nớc
nhập khẩu. Thông thờng các sản phẩm đợc lựa chọn thờng là các sản phẩm
ít nhạy cảm.
Gia tăng tốc độ hạn ngạch đối với các sản phẩm còn bị hạn chế.
Hiệp định đa ra một công thức gia tăng tốc độ tăng trởng hạn ngạch đối
với các sản phẩm còn bị hạn chế theo các thoả thuận song phơng trớc đây của
MFA. Trong giai đoạn 1 (từ 1995 đến hết 1997) đối với mỗi hạn chế song ph-
ơng, mức tăng trởng hạn ngạch sẽ không dới 16%, là mức cao hơn so với
mức gia tăng theo MFA. Trong giai đoạn 2 (từ 1998 đến hết 2001), mức tăng
trởng phải là 25%, cao hơn mức tăng ở giai đoạn 1. Giai đoạn 3 (từ 2002 đến
hết 2004) mức tăng trởng phải là 27% cao hơn mức tăng trởng ở giai đoạn 2.
Các hạn chế không phải của MFA và không đợc điều chỉnh theo GATT
phải đợc đa vào để phù hợp với GATT hoặc bị loại bỏ luỹ tiến trong một thời
hạn không vợt quá thời hạn của Hiệp định, tức là vào năm 2005.
Trong thời kỳ chuyển đổi, Hiệp định cũng cho phép các nớc thành viên
có thể áp dụng các biện pháp tự vệ tạm thời đối với các sản phẩm cha chịu sự
điều tiết của Hiệp định. Tuy nhiên, cần phải chứng minh rằng các sản phẩm
này đang đợc nhập khẩu với khối lợng lớn làm thiệt hại nghiêm trọng hay đe
doạ làm thiệt hais các sản phẩm tơng tự ở các nớc.
2.2 ảnh hởng của ATC đến buôn bán hàng dệt may
Khi đánh giá những tác động của ATC tới sản xuất và buôn bán hàng
dệt may chỉ so sánh do loại bỏ MFA với những gì có thể xảy ra nếu nh không
có cải cách.
25

×