Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Tựa “trích diễm thi tập” - văn mẫu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.26 KB, 5 trang )

I - Gợi dẫn
1. Tựa – nguyên văn là tự, là những bài viết đặt ở đầu các cuốn sách do tác giả hoặc người biên soạn,
người chỉnh lí, người dịch, người giới thiệu viết. Nội dung của bài tự, thường nêu những quan điểm của
người viết về nhiều vấn đề liên quan đến cuốn sách như lí do và phương pháp làm sách, đặc điểm của
sách, nhận xét, đánh giá về giá trị cuốn sách,…
2. Hoàng Đức Lương nguyên quán ở huyện Văn Giang (tỉnh Hưng Yên), trú quán ở huyện Gia Lâm (Hà
Nội), đỗ Tiến sĩ năm Mậu Tuất (1478) dưới đời Lê Thánh Tông.
Bài Tựa này nằm trong Trích diễm thi tập (1497) gồm sáu quyển, chia làm hai phần : phần chính tuyển
chọn thơ ca của các tác giả từ thời Trần đến đương thời, phần phụ lục là thơ của chính tác giả. Trích diễm
thi tập thể hiện niềm tự hào, lòng trân trọng và ý thức bảo tồn di sản văn học dân tộc. Với tấm lòng tha
thiết với di sản tinh thần của dân tộc, tài năng và tâm huyết, Hoàng Đức Lương đã sưu tầm và tập hợp
những sáng tác của các nhà thơ thời trước. Mong muốn của ông là truyền lại cho con cháu đời sau những
di sản văn hoá tinh thần quý báu của cha ông.
Bài Tựa giới thiệu về lí do và phương pháp làm sách Trích diễm thi tập.
3. Cách đọc
Đây là văn bản thiên về tính nghị luận nên đọc chậm, rõ, mạch lạc, chú ý đến sự chặt chẽ của hệ thống lập
luận của tác giả.
II - Kiến thức cơ bản
Hoàng Đức Lương viết : “Đức Lương này học làm thơ, chỉ trông vào thơ bách gia đời nhà Đường, còn
như thơ văn thời Lí – Trần, thì không khảo cứu vào đâu được. Mỗi khi nhặt nhạnh ở giấy tàn, vách nát
được một vài câu, thường cầm sách than thở, có ý đổ lỗi bậy cho hiền nhân quân tử lúc bấy giờ.”. Thực tế
ấy đã khiến cho những người có trách nhiệm với dân tộc và đầy lòng trắc ẩn như ông phải thốt lên lời
than :
“Than ôi ! Một nước văn hiến, xây dựng đã mấy trăm năm, chẳng lẽ không có quyển sách nào có thể làm
căn bản, mà phải tìm xa xôi để học thơ văn đời nhà Đường. Như thế chả đáng thương xót lắm sao !”.
Nhắc đến truyền thống văn hiến không chỉ để tự hào mà còn để khẳng định rằng : không phải dân tộc ta
không có tài, không đủ trí tuệ để làm nên những cuốn sách lớn. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng “không
có một cuốn sách lớn để làm chứng tích” là do sự lưu truyền. Tác giả đã dẫn ra những nguyên nhân khiến
cho thơ văn không lưu truyền hết ở đời. Và những lí do ấy được đưa ra ngay khi mở đầu bài Tựa. Hoàng
Đức Lương đã tuân thủ theo nguyên tắc kết cấu thông thường của một bài giới thiệu. Bài Tựa thường
hướng đến lí giải mục đích của việc soạn sách. Trích diễm thi tập là tập hợp những tác phẩm thơ văn của


đời trước, vì thế ông muốn lí giải sự cần thiết của việc biên soạn, sưu tầm chọn lựa.
Rất rõ ràng, lôgíc và chặt chẽ, tác giả đưa ra bốn nguyên nhân khiến thơ văn không lưu truyền hết ở đời.
Trong khi lí giải các nguyên nhân, tác giả dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh, lập luận chặt chẽ và lí lẽ gọn sắc.
Thơ văn lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác nhờ đội ngũ những người thưởng thức. Nhưng người
biết thưởng thức văn chương không nhiều, nhất là trong thời kì phong kiến với trình độ dân trí thấp, thơ
văn lại uyên bác sâu xa. Người biết thưởng thức và có ý thức, khả năng gìn giữ văn chương lại càng hiếm
hoi. Tác giả đã dùng hình ảnh nem chả, gấm vóc để so sánh với văn chương rồi khẳng định : “Đến như
văn thơ, thì lại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt tầm thường mà
xem, miệng tầm thường mà nếm được. Chỉ thi nhân là có thể xem mà biết được sắc đẹp, ăn mà biết được
vị ngon ấy thôi”. Lí do thứ nhất vừa nêu ra nguyên nhân sự thất thoát tác phẩm thơ văn, vừa đề cao giá trị
đích của thơ văn : Thơ văn là của quý ở đời, không phải ai cũng thấy được cái hay cái đẹp của văn
chương.
Trước khi trình bày lí do thứ hai, tác giả đã dùng câu hỏi tu từ để khẳng định rằng nước ta chắc chắn có
người có tài, có khả năng tạo nên những tác phẩm lớn, có giá trị : “Nước ta từ nhà Lí, nhà Trần dựng
nước đến nay, vẫn có tiếng là nước văn hiến, những bậc thi nhân, tài tử đều đem sở trường của mình thổ
lộ ra lời nói, lẽ nào không có người hay ?”. Câu hỏi tu từ vừa có ý khẳng định, vừa là nỗi trăn trở của một
con người có tinh thần dân tộc sâu sắc. Và ông đã lí giải nguyên nhân tại sao nước ta có người tài mà
không có tác phẩm thơ văn nào lớn để lại cho hậu thế. Nguyên nhân đó là : người có học, có chữ, có khả
năng ghi lại thơ ca thì hoặc không có thời gian hoặc bận rộn mà không để ý đến. Lí do này vừa nêu lên
được tầm quan trọng của việc biên soạn Trích diễm thi tập, vừa thể hiện niềm tin vào trí tuệ của nhân dân.
Nguyên nhân thứ ba được trình bày đơn giản và ngắn gọn hơn nhưng vẫn đầy sức thuyết phục : người có
trách nhiệm, có ý thức, thích việc sưu tập thơ văn nhưng không có đủ tài mà đành bỏ dở sự nghiệp.
Nguyên nhân thứ tư được trình bày với cách lập luận sắc sảo của Hoàng Đức Lương. Tác giả đã mạnh
dạn quy trách nhiệm cho người cầm quyền. Ông đã làm phép so sánh để tạo nên sức thuyết phục cho lập
luận : so sánh văn học Phật giáo với văn học Nho giáo. Trên thực tế, sự phát triển của văn học Việt Nam
thời Lí – Trần đã có sự đóng góp rất quan trọng của văn học Thiền. Thời ấy, các nhà sư làm thơ rất nhiều
và họ đều đã để lại cho văn học những thi phẩm đạt đến đỉnh cao nghệ thuật và chiều sâu bề xa giá trị
nhân sinh. Đó là các nhà sư như Mãn Giác, Không Lộ, Pháp Thuận… Dựa trên thực tế đó, tác giả đã
khẳng định chính sách in ấn, kiểm duyệt quá ngặt của triều đình phong kiến khiến việc lưu truyền thơ văn
bị hạn chế.

Cả bốn lí do chủ quan trên, tác giả đều có hàm ý than tiếc cho việc cả dân tộc trải qua bao nhiêu thời kì
lịch sử mà không có người có trách nhiệm với nền văn học dân tộc. Thấu đáo và đầy đủ hơn, ông đưa ra
hai nguyên nhân khách quan tác động đến sự mai một của văn thơ, đó là thời gian và binh lửa. Hai lí do
ấy được trình bày dưới hình thức một câu hỏi tu từ, nó xoáy vào lòng người đọc một nỗi niềm trăn trở,
một sự xót xa. Không chỉ có thơ văn mà cả những di sản văn hoá tinh thần khác, dù là văn hoá vật thể hay
phi vật thể đều có thể bị bào mòn bởi thời gian và chiến tranh, biến động xã hội. Và nếu con người không
có ý thức bảo vệ thì chẳng mấy chốc thơ văn và văn hoá dân tộc cứ nghèo nàn đi và lịch sử sẽ chẳng có gì
làm chứng tích.
Trước sự mai một ấy, với tấm lòng tha thiết với đất nước, với dân tộc, Hoàng Đức Lương đã giãi bày
mong muốn của mình. Ông còn nói cả đến cách làm sách, nội dung và kết cấu của cuốn sách : “Tôi không
tự lượng sức mình, muốn sửa lại điều lỗi cũ, quên rằng sách cũ không còn bao nhiêu, trách nhiệm nặng nề
mà tài hèn sức mọn, tìm quanh hỏi khắp nhưng số thơ thu lượm được cũng chỉ là một hai phần trong số
muôn nghìn bài. Tôi còn thu lượm thêm thơ của các vị hiện đang làm quan trong triều, chọn lấy bài hay,
chia xếp theo từng loại, được 6 quyển, đặt tên sách là Trích diễm“.
Bài Tựa của Hoàng Đức Lương vừa khẳng định được tầm quan trọng của việc sưu tầm thơ văn của người
xưa, vừa đánh thức ý thức của mọi người đối với việc bảo tồn nền văn học dân tộc, đồng thời vẫn đảm
bảo được nội dung giới thiệu về cuốn sách. Tác giả đã thể hiện được nhiều mục đích trong một bài Tựa
không dài. Thành công của bài Tựa được tạo nên bởi ngôn ngữ sắc sảo, lối hành văn chân thực, lôgíc và
những tình cảm chân thành của người viết. Đây là một bài văn tiêu biểu cho thể Tựa, vừa đảm bảo tính
khoa học, vừa có tính văn học.
III - liên hệ
Lời nói đầu tuyển tập Tình bạn, tình yêu – Thơ, NXB Giáo dục, 1987
Trong tình cảm riêng tư của mỗi một con người, còn có gì đẹp hơn tình bạn, tình yêu ?
Đó là thứ tình cảm da diết, gắn bó hai tâm hồn với nhau, để lại dấu ấn trong suốt cuộc đời, có khi quyết
định cả số phận.
ở một độ tuổi nào đó và trong những tình huống nhất định, tình bạn trở nên thiêng liêng và sâu sắc đến
mức lấn át mọi thứ tình cảm khác. Không phải chỉ có tình bạn vững bền ở lứa tuổi cắp sách đến trường,
của thời thiếu niên và thanh niên, mà nhiều tình bạn lớn đã nảy sinh trong quá trình trưởng thành của con
người : trong công tác, trong hoạt động cách mạng, trong chiến đấu. Đó là tình đồng chí, tình đồng đội.
Cũng có cả những mối tình bạn già rất thiết tha, đầy xúc động. Tập thơ này quan niệm tình bạn rộng rãi

như thế, như nó vốn tồn tại ở trong đời.
Còn tình yêu ? Khó mà nói quá đi về chiều sâu và sức mạnh của nó đối với tâm hồn con người. Có thể tìm
thấy trong tập này mọi sắc độ của tình cảm, mọi trạng thái tâm hồn nảy sinh từ mọi tình huống có thể xảy
ra giữa hai người yêu nhau : tình yêu trai gái và tình yêu vợ chồng, tình yêu khi vừa chớm nở và tình yêu
giữa độ tròn hạnh phúc, tình yêu khi gần gũi và tình yêu lúc chia xa, tình yêu thành đôi lứa và tình yêu bất
hạnh lỡ làng, tình yêu thoáng qua và tình yêu số phận, tình yêu thời trẻ và tình yêu muộn màng, tình yêu
mặn nồng từ hai phía và tình yêu khi người yêu không yêu, tình yêu trong cảnh thanh bình và tình yêu
giữa khói lửa chiến tranh, tình yêu của người đang còn đối với người đã khuất…
Và tất cả, tất cả những rung động của tình bạn và tình yêu đó, trong tập này, đều trải qua sự sàng lọc của
những tâm hồn nghệ sĩ, của những ngòi bút tinh tế và tài hoa. Cũng như trong bất cứ sự cảm thụ nghệ
thuật nào, dầu cho bản thân chúng ta có hay không trải qua những tình huống tương tự thì sự tiếp xúc với
những vần thơ này, với những biểu hiện tình cảm hết sức tinh vi và mãnh liệt, cũng mở rộng và nâng cao
tâm hồn chúng ta, làm cho nó giàu có hơn lên, cao đẹp hơn lên. Chúng ta sống gấp bội, nhân lên nhiều lần
cuộc đời của mỗi một chúng ta. Qua sự thanh lọc của nghệ thuật, chúng ta trở nên người hơn, tăng thêm
phẩm chất người trong mỗi một chúng ta. “Không có gì thuộc về con người lại xa lạ đối với tôi”, người
sáng lập ra chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã nhiều lần nhắc lại câu nói đó. Cuốn sách này là một thử nghiệm,
một cố gắng nhằm vào cái mục đích cuối cùng mang tính nhân văn ấy.
*
* *
Hướng theo ý tưởng trên, chúng tôi đã tuyển chọn thơ về tình bạn, tình yêu từ ba nguồn :
1. Thơ ca dân gian
2. Thơ cổ điển
3. Thơ hiện đại
Khỏi phải nhắc lại ở đây về tính trữ tình hết sức đậm đà, sâu sắc của ca dao, dân ca Việt Nam. Trong kho
tàng văn chương truyền miệng, tự ngàn xưa để lại, tình yêu nam nữ, tình yêu vợ chồng tạo ra một mảng
lớn, sáng ngời, đầy sức lay động cho mãi đến bây giờ. Người đọc hôm nay vẫn có thể sững sờ trước vẻ
đẹp của mảng thơ này, như trở về nguồn mà tìm lại được chính mình. Hồn nhiên mà dữ dội, trong sáng
mà quyết liệt, lành mạnh mà đầy sức bùng nổ, số phận càng éo le, ước mơ càng táo bạo, cuộc đấu tranh
để tự giải phóng mình của người dân lao động ngày xưa, hình như, đã bắt đầu từ đó, trong lĩnh vực tình
cảm tự nhiên nhất của con người, khi mà, giữa những ràng buộc khe khắt của xã hội cũ, con người muốn

được sống như những con người…
Tình bạn và tình yêu trong thơ cổ điển lại hiện ra dưới những dạng vẻ khác. Quy phạm trong cuộc đời và
quy tắc trong nghệ thuật – hãy hiểu là nghệ thuật phong kiến kéo dài hàng chục thế kỉ trong lịch sử Việt
Nam – đã gò bó cách diễn đạt nguyên khôi, tươi mát, chân thực của tình cảm con người. Tính ước lệ của
nghệ thuật (tình huống không từ cuộc sống thực, tình cảm phải tuân theo đạo đức, thể loại cứng nhắc với
những niêm luật phức tạp, điển cố văn học và ngôn từ vay mượn…) khiến cho mảng thơ này không dễ
dàng đi vào thế giới tinh thần của con người hiện đại. Đối với bạn trẻ ngày nay, để thưởng thức văn thơ
cổ điển, cần có một sự dẫn dắt đặc biệt, một sự giải mã thích hợp.
Thế nhưng, trong bất cứ thời đại nào, đã là nghệ sĩ chân chính thì, cuối cùng, mình vẫn cứ phải là mình,
không thể là ai khác, không thể là một tư tưởng hay một ý niệm. Thành ra đằng sau vô vàn những ước lệ
sáo mòn, những công thức xưa cũ, trong văn chương cổ điển Việt Nam vẫn hiện ra những nhân cách độc
đáo, những cá tính sáng tạo : Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia
Thiều, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Tản Đà… Tình yêu, thứ cấm kị
trong đạo đức phong kiến, vẫn lộ ra trong thơ của họ thường là kín đáo tinh vi, nhưng cũng có khi bừng
bừng mãnh liệt.
Không ai chối cãi rằng đỉnh cao của thơ ca cổ điển Việt Nam là Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc
và Truyện Kiều. Nhưng đó là những tác phẩm như thế nào ? Sẽ là một sai lầm đáng tiếc trong tiếp nhận
nghệ thuật nếu hiểu rằng hai tác phẩm đầu chỉ là lời than khóc của một người chinh phụ xa chồng và lời
oán trách của một người cung nữ bị nhà vua ruồng bỏ, nghĩa là những thứ tình cảm nặng màu sắc phong
kiến hoặc nhi nữ thường tình đáng phê phán. Không có những rung động thực do tình yêu đem lại – một
tình yêu đằm thắm khát khao hạnh phúc -, không thể viết những vần thơ lay động như thế. Còn Truyện
Kiều của Nguyễn Du, như chúng ta biết, trước hết là một bản tình ca lớn mà về nghệ thuật sau này không
có ai vượt nổi.
Đối với các khúc ngâm và truyện thơ, dĩ nhiên, chúng tôi phải dùng biện pháp trích tuyển. Chúng tôi cố
chọn những đoạn hay nhất mà người đọc ngày nay có thể thưởng thức dễ dàng, không nhất thiết phải gắn
liền với những tình huống cụ thể trong câu chuyện và không cần kèm theo những chú thích rườm rà.
Trong giai đoạn này còn có khá nhiều truyện thơ khác về tình bạn, tình yêu, nhưng chuyện hay mà thơ
không hay, thành ra chúng tôi cũng đành phải để lại.
*
* *

Phần lớn nhất trong cuốn sách này dành cho đề tài tình bạn và tình yêu trong thơ hiện đại. Điều này dễ
hiểu về mặt lịch sử và về mặt nghệ thuật. Từ sau 1930, văn chương Việt Nam trải qua một thời đại “Phục
hưng” thực sự, theo kiểu riêng của mình. Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng cá nhân là
những dòng thác khác nhau, nhưng ào ạt chảy về một phía, chụm lại thành sức mạnh, lật nhào chế độ cũ
và đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá của xã hội Việt Nam. Trải qua mấy chục năm chiến đấu ngoan
cường, chúng ta đi vào thế giới ngày nay : thời đại của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cùng nhịp bước theo lịch sử, thơ Việt Nam nở rộ. Trong vườn thơ rực rỡ đó, những bài thơ về tình bạn,
tình yêu là những đoá hoa đậm sắc, bền hương, không thể bỏ qua. Vì đây chính là thời đại mà chúng ta
đang sống nên xin miễn cho chúng tôi những lời bình không cần thiết. Xin hãy tự mình đọc lấy phần hiện
đại trong tập thơ này. Thật phong phú và đa dạng. Thật da diết và khoẻ mạnh. Thật sôi nổi và lắng sâu.
*
* *
Về cấu trúc, sách này chia ra làm ba phần, theo ba nguồn tuyển chọn như trên kia đã trình bày.
Trong phần Thơ cổ điển, sau các bài thơ riêng lẻ là các đoạn trích từ các khúc ngâm và truyện thơ. Cách
sắp xếp ở đây tuân theo trình tự thời gian.
Các tác giả trong phần Thơ hiện đại được sắp xếp theo thứ tự vần chữ cái tiếng Việt căn cứ vào tên người
hoặc bút danh quen thuộc. ở đây có sự phân chia ra hai thời kì (1930 – 1945 và 1945 – 1985), vì tuy cùng
viết về một đề tài, nhưng hơi thơ lại khác, nên không thể nào xếp chen nhau.
Trong quá trình làm sách, nhận lời của Nhà xuất bản Giáo dục, nhiều nhà thơ đã gửi bài cho nhóm biên
soạn. Sự hưởng ứng nhiệt tình này đã đóng góp vào thành công của tập thơ. Nhân đây chúng tôi xin gửi
tới các bạn lời cảm ơn chân thành.
Chúng tôi thực sự bối rối khi phải chọn bài để đưa vào tuyển tập. Rất tiếc là vì khuôn khổ của sách, chúng
tôi không thể quá tham lam. Nhiều bài thơ hay và nhiều tác giả khác phải tạm gác lại. Chúng tôi rất mong
được các nhà thơ lượng thứ và bạn đọc thông cảm.
*
* *
Sau một thời gian ấp ủ, tập Tình bạn, Tình yêu – Thơ của Nhà xuất bản Giáo dục đã ra đời và đang nằm
trong tay bạn. Nó dành riêng cho lứa tuổi thanh niên đang học ở các trường khác nhau, khi mà tình bạn và
tình yêu đang có thể là tâm tư sôi động của từng người. Nó cũng có thể gây hứng thú cho bạn đọc rộng
rãi, thuộc các lứa tuổi khác nhau. Mong rằng nó sẽ đem lại cho bạn một niềm vui. Lớn hay nhỏ, tuỳ

người. Nhưng chắc chắn phải là niềm vui và sức mạnh. Hãy tự nghiệm ra điều đó khi đọc cuốn sách này.
Và xin chúc bạn thành công trên con đường đi đến với Tình bạn và Tình yêu…
(Nguyễn Đức Nam)

×