Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm 2022 biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy môn tv

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 19 trang )

1

MỤC LỤC
1. Tên sáng kiến: ……………………………………………………...3
2.Cơ sở đề xuất : ……………………………………………………...3
2.1.Sự cần thiết hình thành giải pháp……………...…………………...3
2.2.Mục tiêu đạt được của sáng kiến…………………………………...4
2.3. Căn cứ đề xuất ………………………..…………………………...4
3. Tóm tắt nội dung giải pháp ..……………………...……………...5
3.1. Đối tượng và phạm vi áp dụng …………………….……………...5
3.2. Nội dung của giải pháp …………….……………………………...5
4. Phạm vi ảnh hưởng, hiệu quả áp dụng của sáng kiến .….……...16
4.1.Việc áp dụng hoặc áp dụng thử……………….……………...…...16
4.2. Hiệu quả áp dụng ………………………………………………...17
4.3. Phạm vi ảnh hưởng công nhận………………………………...……...18


2


3

BÁO CÁO TÓM TẮT
Phạm vi ảnh hưởng, hiệu quả áp dụng của sáng kiến
1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng giảng
dạy mơn Tiếng Việt.”
2. Cơ sở đề xuất :
2.1. Sự cần thiết hình thành giải pháp:
Trong hệ thống giáo dục, Tiểu học là cấp học nền tảng đặt cơ sở ban đầu
cho việc hình thành và phát triển nhân cách của con người, đặt nền móng vững
chắc cho giáo dục phổ thơng và cho toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Để đạt


được mục tiêu trên, giáo dục Tiểu học đã duy trì dạy học tồn diện giúp các em
học tốt các mơn học. Học có phương pháp là mục tiêu hàng đầu được đặt ra
trong mọi tiết học, giúp cho sự phát triển kỹ năng, kỹ xảo, năng lực, tư duy và
khả năng của các em.
Mỗi mơn học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, cung
cấp cho các em những tri thức cần thiết để phục vụ cho cuộc sống, học tập và
sinh hoạt sao cho tốt nhất và có hiệu quả cao.
Mơn Tiếng Việt rất quan trọng đối với học sinh cấp bậc tiểu học nói chung,
ở lớp tơi nói riêng. Nếu học tốt bộ mơn này nó sẽ giúp các em học tốt hơn các
phân môn của bộ môn Tiếng Việt: giúp cho môn Tập làm văn dùng từ đúng, vế
câu chau chuốt hơn, diễn đạt bằng ngôn ngữ rõ ràng mạch lạc, biết sàng lọc để
đưa hình ảnh hay vào trong bài; giúp cho phân mơn chính tả như: viết đúng, ít
lỗi hơn. Trong phân môn kể chuyện, các em sẽ biết cách kể hay, hấp dẫn người
nghe hơn. Học tốt bộ môn này còn giúp cho việc học và nắm bắt kiến thức các
môn học khác một cách dể dàng hơn.
Tiếng Việt là một môn học cần thiết cho tất cả các bậc học, không những
chỉ cần thiết cho bậc tiểu học, trung học mà còn là nền tảng, là cơ sở học tốt các
bậc học trên. Ngoài ra, học tốt các phân môn trong Tiếng Việt là điều rất cần
thiết cho đời sống, sinh hoạt lao động và cho việc học các môn khác. Hơn thế
nữa, hiện nay, chúng ta đang trong xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế thì “Bồi


4

dưỡng nhân tài” là một trong những yếu tố để chúng ta có thể tiếp cận với sự
tiến bộ của khoa học công nghệ các nước trong khu vực và trên thế giới. Chính
vì thế mà giáo viên cần cố gắng hướng đến sự phát triển tối đa những năng lực
tiềm tàng trong mỗi học sinh.
Trong thực tế giảng dạy, để đạt được mục tiêu đề ra thật không dễ dàng.
Vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát nhỏ trong phạm vi lớp phụ trách một

số bài tập tổng hợp các phân môn Tiếng Việt. Qua khảo sát tôi thấy tỷ lệ học
sinh sai các mảng kiến thức còn nhiều, tỷ lệ học sinh sai trong từng mảng kiến
thức khá trùng lặp, bên cạnh đó có một số em sai từng kiến thức riêng.
Trong quá trình giảng dạy tôi luôn nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của ban
lãnh đạo nhà trường và các đồng nghiệp. Tuy nhiên cũng vẫn cịn nhiều khó
khăn vì lớp chủ nhiệm đa số là con gia đình làm cơng nhân, đi biển, một số em
hồn cảnh gia đình cịn khó khăn, có em bố mẹ đi làm xa, ở với ông bà, thiếu sự
quan tâm thường xuyên của bố mẹ; còn một số phụ huynh chưa thật sự để tâm
đến việc học và giáo dục con cái và cịn xem nhẹ mơn Tiếng Việt. Một số học
sinh cịn có tính ham chơi, chưa xác định rõ nhiệm vụ học tập, không ham thích
mơn Tiếng Việt nên kết quả học tập cịn thấp. Các thiết bị, đồ dùng dạy học ở
đơn vị công tác còn hạn chế.
2.2. Mục tiêu đạt được của sáng kiến:
Nhằm tạo động lực, hứng thú học tập, tăng tính tập trung, chú ý của học
sinh giúp các em yêu thích, chủ động hơn trong học tập; học sinh tự giác, tích
cực trong các hoạt động học tập. Từ đó nâng cao chất lượng học tập môn Tiếng
Việt.
2.3. Căn cứ đề xuất:
- Căn cứ vào các tài liệu, chuyên đề có liên quan đến vấn đề nghiên cứu:
Cơng văn 4088/BGDĐT-GDTH 2022 hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục
tiểu học năm học 2022-2023 ; Công văn số 2345/BGDĐT-GDTH về việc hướng
dẫn xây dựng kế hoạch giáo dục của nhà trường cấp tiểu học.
- Căn cứ vào thực tế chất lượng học tập môn Tiếng Việt của học sinh.


5

- Căn cứ vào thái độ, tinh thần học tập của học sinh trong các tiết Tiếng
Việt.
- Căn cứ vào những kinh nghiệm qua q trình giảng dạy mơn Tiếng Việt.

Những kinh nghiệm tích lũy được trong giảng dạy trong đó có sự tiến bộ của
học sinh ở các phân môn trong môn Tiếng Việt. Những kết quả giảng dạy được
bản thân thường xuyên cập nhật, so sánh, rút kinh nghiệm vào từng thời điểm
trong năm học và so sánh kết quả với những năm học trước.
3. Tóm tắt nội dung giải pháp:
3.1. Đối tượng và phạm vi áp dụng:
Sáng kiến của tôi áp dụng vào giảng dạy môn Tiếng Việt không chỉ cho
học sinh lớp 5B tôi chủ nhiệm, giảng dạy mà cịn có thể áp dụng được cho các
khối lớp khác trong trường Tiểu học Lê Lợi và các trường học khác hệ thống
trong giáo dục phổ thông.
3.2. Nội dung của giải pháp:
3.2.1. Thay đổi cách kiểm tra bài cũ và cách đặt vấn đề vào bài mới.
Thông thường, phần kiểm tra bài cũ được giáo viên tiến hành ở đầu giờ.
Đây là việc làm theo đúng tiến trình dạy học. Tuy nhiên, sự lặp đi lặp lại cách
làm đó sẽ khiến học sinh nhàm chán, đơi khi gây áp lực, tạo sự căng thẳng cho
học sinh trong suốt tiết học hơm đó.
Theo tơi giáo viên có thể lồng ghép các câu hỏi kiểm tra kiến thức đã học
trong quá trình dạy bài mới để làm giảm bớt đi sự căng thẳng khơng đáng có.
Trong một giờ học, nếu ngay từ phần vào bài giáo viên đã tạo ra sự hứng
thú cho học sinh, chắc chắn trong những phút tiếp theo, các em sẽ hào hứng hơn với
những hoạt động do giáo viên tổ chức. Do đó phần vào bài có vai trị quan trọng đến
hoạt động dạy cũng như kích thích q trình tiếp thu kiến thức của học sinh trong
một tiết dạy. Kinh nghiệm của tôi để có cách dẫn dắt vào bài mới hấp dẫn hơn là:
Mở đầu bằng một câu chuyện vui; mở đầu bằng một bài hát hay hình ảnh…
Ví dụ: Tiết Luyện từ và câu tuần 9, tiết 18, bài: Đại từ
Để dẫn dắt vào bài mới tôi cho các em nghe nhạc và hát theo bài: Con cào
cào. Sau đó sử dụng ngay câu hát trong bài: Con cào cào có cái cánh xanh xanh.


6


Nó bay rất nhanh từ lùm cây sang bụi cỏ. Hướng dẫn học sinh: từ nó ở câu thứ 2
dùng để thay thế cho con cào cào ở câu 1. Từ nó được gọi là đại từ. Từ đó dẫn
dắt, giới thiệu vào bài.

Sử dụng bài hát để dẫn dắt vào bài mới
Một điều cần lưu ý là: đặt vấn đề hay góp phần làm tăng tính hấp dẫn cho
bài học, tạo hứng thú cũng như làm cho khơng khí học tập trở nên thoải mái
hơn. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần chú ý đến thời gian cho phần vào bài để
tránh ảnh hưởng đến thời lượng dành cho bài mới.
3.2.2. Thay đổi cách giao tiếp


7

Trong hoạt động dạy học ln địi hỏi sự tương tác qua lại thường xuyên
giữa thầy và trò. Một trong những điều kiện để học sinh có thể học sâu là các em
phải có cảm giác thoải mái.
Trong q trình giao tiếp với học sinh, giáo viên cần có thái độ nhẹ
nhàng, vui vẻ, tạo cho học sinh cảm giác được yêu thương, nhưng khi cần vẫn
phải nghiêm khắc để học sinh hiểu được giới hạn của sự thoải mái. Vì nếu q
dễ dãi, học sinh khơng kính nể sẽ rất khó dạy; quá nghiêm khắc, học sinh sẽ bị
ức chế khó tiếp thu bài học.
Hơn ai hết, giáo viên phải nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên
đối với cơng tác giáo dục. Khi cảm thấy mình được tơn trọng có nghĩa là các em
sẽ thêm phần tự tin vào bản thân mình, sẽ đáp lại bằng thái độ tôn trọng, yêu quý
đối với thầy cô, nhờ đó mà cũng sẽ u thích hơn bộ mơn những thầy cơ giáo đó
đang giảng dạy.
Giáo viên có thể khuyến khích, khích lệ học sinh khi các em có tiến bộ,
khi các em làm bài hoặc trả lời tốt bằng lời nhận xét trong tập vở, bằng lời nhận

xét, tuyên dương miệng, bằng các món quà nhỏ như bút, thước, vở…ngay trong
tiết học hoặc vào tiết sinh hoạt lớp cuối tuần.

Khen thưởng học sinh học tập tốt vào tiết Sinh hoạt lớp


8

Bên cạnh đó, người giáo viên cũng cần quan tâm đến những học sinh
chậm tiến của lớp, quan tâm nhắc nhở các em học bài và chỉ cách học bài cho
học sinh; kịp thời khen ngợi khi học sinh tiến bộ.
Ví dụ: vào đầu năm học có em học sinh viết chính tả sai nhiều, sau một
thời gian bài chính tả của em tuy vẫn còn sai nhưng số lỗi sai đã giảm đi, chữ
viết sạch đẹp hơn. Khi đó giáo viên cần khen ngợi để học sinh cảm thấy mình có
tiến bộ, từ đó sẽ cố gắng nhiều hơn.

( Bài chính tả của một học sinh vào đầu năm học và giữa học kì I)
Khích lệ học sinh bằng lời nhận xét trong tập vở
3.2.3. Đổi mới cách thức soạn bài và thiết kế các hoạt động dạy học
Trước hết, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung của bài học trong sách giáo
khoa, kết hợp nghiên cứu những tài liệu tham khảo khác như sách giáo viên, sách
thiết kế bài giảng, chuẩn kiến thức kĩ năng,… để chỉ ra được mục tiêu chính là
những yêu cầu về kiến thức, kĩ năng và thái độ cần hướng học sinh tìm hiểu và đạt
được.
Tiếp theo, giáo viên xác định số lượng hoạt động, hình thức tổ chức và
nội dung các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu ở trên.
Tuy nhiên, để hướng đến sự thích thú, say mê của học sinh với mỗi hoạt
động đó thì giáo viên cần lựa chọn cách tổ chức phù hợp nhất, làm sao để học



9

sinh phát huy tối đa khả năng và hiểu biết của bản thân, đồng thời có sự liên kết
chặt chẽ với tập thể. Trong quá trình thiết kế, giáo viên nên có sẵn những dự
kiến và phương án giải quyết cho những tình huống khơng theo ý muốn có thể
xảy ra để có thể chủ động điều chỉnh nhằm tránh sự lúng túng, kéo dài thời gian,
thậm chí là khơng đạt được các mục tiêu đã đề ra.
3.2.4. Chuẩn bị đồ dùng dạy học chu đáo cho các tiết dạy
Trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học, giáo viên khơng thể bỏ
qua vai trị của các đồ dùng, phương tiện dạy học. Việc lựa chọn được những đồ
dùng phù hợp và có chất lượng khơng chỉ làm tăng hiệu quả của việc khai thác,
phát hiện kiến thức mà cịn tạo ra sự thích thú cho học sinh.
Ngay từ khâu soạn bài, giáo viên đã phải xây dựng kèm theo đó là danh
sách các đồ dùng dạy học có liên quan. Từ danh sách này, giáo viên phải kiểm
tra trên thực tế tại các phòng đồ dùng xem các đồ dùng đó có đủ để đáp ứng về
số lượng và chất lượng hay khơng, nếu khơng thì phương án giải quyết là gì.
Trong nhiều trường hợp, giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho học sinh chuẩn
bị những đồ dùng nhất định. Khi được tự chuẩn bị, học sinh sẽ phải nghiên cứu tài
liệu để hiểu về vấn đề được giao tức là các em đã được học tập thêm một lần nữa.
Ví dụ: Tiết Tập đọc tuần 3, tiết 6, bài: Lịng dân (tiếp theo).
Tơi cho họ sinh xem hình ảnh minh họa bài tập đọc và video diễn vở kịch
Lịng dân để học sinh dễ hình dung, dễ hiểu, hứng thú và ghi nhớ bài lâu hơn.

Cho học sinh xem tranh và video minh họa bài tập đọc


10

3.2.5. Tổ chức các hoạt động dạy học
Một tiết học thành cơng khi học sinh hào hứng, tích cực tham gia các hoạt

động học tập, tiếp thu bài có hiệu quả và nắm được kiến thức bài học. Để đạt
được điều đó thì giáo viên phải tổ chức được các hoạt động học tập phong phú,
sinh động, vui tươi, lôi cuốn được học sinh.
Tăng sự tương tác giữa giáo viên với học sinh trong tiết học để các em tập
trung chú ý hơn.
Bao quát lớp học để kịp thời nhắc nhở, động viên nếu học sinh xao nhãng
hoặc làm việc riêng.
Một số cách tổ chức các hoạt động học tập: làm việc nhóm, trị chơi học tập…
Tuy nhiên, điều quan trọng là thiết kế và tổ chức như thế nào để học sinh
phát huy được năng lực cá nhân, biết cách phối hợp với tập thể nhằm tăng cường
sự liên kết và khả năng thu nhận, tích lũy kiến thức.
Đặc biệt, giáo viên chú ý lưu tâm hơn đến những học sinh còn rụt rè hay
nhút nhát, cố gắng đảm bảo trong giờ học mỗi học sinh được gọi 1 lần.

Học sinh thảo luận nhóm trong tiết học


11

3.2.6. Dạy tích hợp các phân mơn tập đọc, luyện từ và câu, chính tả, tập làm
văn trong Tiếng Việt
Để nắm được mối quan hệ giữa các phân môn này, tơi đã xem tồn bộ
chương trình về số tiết, bài dạy, nội dung có liên quan với nhau. Chính vì thế
nên khi giảng dạy tôi thường lồng ghép chúng với nhau.
Cụ thể tơi đã làm như sau:
a. Dạy tích hợp qua phân môn Tập đọc
Khi giảng hoặc lúc giao tiếp với học sinh, tơi tránh nói tiếng địa phương,
cố gắng sử dụng ngơn ngữ viết thay cho ngơn ngữ nói.
Khi đọc mẫu bài tập đọc, tôi cho cả lớp dùng bút chì gạch chéo (/) những
chỗ ngắt giọng hoặc ngắt nhịp thơ. Tôi chú ý ngắt câu dài thành nhiều cụm từ

nhỏ; ngắt nhịp thơ để học sinh yếu và trung bình dễ đọc.
Ví dụ: “Ngày nay/ chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ/mà tổ tiên đã để
lại cho chúng ta,… nước nhà trông mong/ chờ đợi ở các em rất nhiều…”
(Thư gửi các học sinh – Hồ Chí Minh)
“Sáng mát trong /như sáng năm xưa
Gió thổi/ mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ/ những ngày thu đã xa”
(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
Khi giảng bài, nhất là phần tìm hiểu bài cần tạo hứng thú cho học sinh.
Đây là một khâu quan trọng, là một hiện tượng tâm lý trong đời sống mỗi người,
tạo hứng thú là tạo điều kiện cho học sinh học tập, lao động được tốt hơn. Để tạo
được hứng thú cho học sinh, giáo viên phải tạo cho học sinh sự thoải mái trong
học tập, phải làm cho các em cảm nhận được vẻ đẹp và khả năng kì diệu của
ngơn từ để kích thích vốn từ sẵn có của từng em.
Ví dụ: Bài Sắc màu em yêu của Phạm Đình Ân – giáo viên có thể gợi ý
học sinh tìm hiểu:
+ Những màu sắc trong bài được tác giả gợi ra những hình ảnh nào?
+Tại sao bạn nhỏ yêu tất cả các màu sắc đó?


12

+Em có thể liên tưởng những màu sắc đó bằng những hình ảnh nào khác
trong thực tế?
Trên cơ sở học sinh đã được tiếp thu bài học, giáo viên bồi dưỡng cảm thụ
văn học cho học sinh khá, giỏi. Đây là một q trình lâu dài và cơng phu trong
phân môn Tập đọc. Để bồi dưỡng tốt, trước hết giáo viên bồi dưỡng cho các em
vốn sống, có vốn sống học sinh mới có khả năng liên tưởng để tiếp cận tác
phẩm. Giáo viên cần tạo cho học sinh tiếp cận với nhiều tác phẩm. Giáo viên chỉ
gợi mở, dẫn dắt cho sự tiếp xúc của học sinh với những tác phẩm hay. Hoạt

động của giáo viên chỉ có tác dụng hỗ trợ cho cảm xúc thẩm mĩ nảy nở trong
hoạt động. Cần tôn trọng những suy nghĩ, cảm xúc thực của học sinh và nâng
chúng lên ở cấp độ cao hơn, đồng thời giáo viên phải trang bị cho học sinh một
số kiến thức về văn học như hình ảnh, chi tiết, kết cấu tác phẩm, các đặc trưng
của ngơn ngữ nghệ thuật, những biện pháp tu từ
Ví dụ: + Trong bài thơ tác giả đã sử dụng biện pháp nào ?
+ Em có cảm nhận gì khi đọc bài sắc màu em u của Phạm Đình Ân.
Ngồi ra cần hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm có sáng tạo, nó giúp học
sinh nâng cao khả năng cảm xúc thẩm mĩ và kích thích các em khám phá ra cái
hay, cái đẹp của văn chương. Khi cho học sinh tiếp xúc tác phẩm, giáo viên cần
có hệ thống câu hỏi, bài tập liên tưởng cụ thể để hướng vào nội dung, yêu cầu
cần đạt.
Ví dụ: Đọc phân vai bài Lòng dân của Nguyễn Văn Xe. Yêu cầu học sinh
khi đọc phải thể hiện được tâm trạng của nhân vật.( dì Năm, Cai, An, Cán bộ,
lính) qua đó mới thấy được hết nội dung mà vở kịch đem lại cho người đọc.
Nói chung khi dạy phân mơn Tập đọc khơng những giáo viên củng cố
nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh, mở rộng vốn hiểu biết, bồi dưỡng tư tưởng,
tình cảm, nhân cách cho học sinh mà cần hướng học sinh biết vận dụng những
hiểu biết của phân môn này vào những phân môn khác một cách phù hợp, sáng
tạo.
b. Dạy tích hợp qua phân mơn Chính tả
Rèn kĩ năng viết chính tả và kĩ năng nghe:


13

Giáo viên hướng dẫn cho học sinh nghe – viết; nhớ - viết một đoạn trích
từ bài tập đọc hoặc các bài tập chính tả âm, vần là ơn lại quy tắc viết một số chữ
dễ nhầm lẫn do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương theo yêu cầu đã đề ra.
Nếu học sinh sai, giáo viên có thể giúp học sinh:

+ Phân biệt các chữ viết đúng chính tả với các chữ viết sai chính tả
+ Học sinh sữa lại những lỗi sai của mình phía dưới bài viết.
+ Học sinh có thể ghi vào sổ tay chính tả các lỗi chính tả thường mắc và
cách sữa những lỗi ấy.
Rèn luyện một số kĩ năng sử dụng Tiếng Việt và phát triển tư duy.
Thông qua các bài tập chính tả học sinh được rèn luyện cách phát âm,
củng cố nghĩa của từ, trau dồi về ngữ pháp tiếng việt, góp phần phát triển một số
thao tác tư duy cơ bản như so sánh, liên tưởng, ghi nhớ.
Mở rộng vốn hiểu biết, góp phần hình thành nhân cách con người mới.
Thơng qua bài chính tả, nội dung bài tập chính tả giáo viên mở rộng vốn hiểu
biết về cuộc sống, con người; bồi dưỡng một số đức tính và thái độ cần thiết
trong cơng việc như: cẩn thận, chính xác, có óc thẩm mĩ, lịng tự trọng, tinh thần
trách nhiệm…
Ví dụ: bài chính tả nghe – viết: Luật Bảo vệ mơi trường thơng qua nội
dung bài chính tả giáo viên lồng ghép ý thức tự giác giữ sạch môi trường xung
quanh nhà ở, trường học. Cụ thể là quét dọn vệ sinh hàng ngày nhà ở, lớp, sân
trường, trồng cây xanh tạo cảnh quan trường học vừa xanh – sạch – đẹp.
Nói chung, giáo viên hướng dẫn học sinh học tốt phân mơn chính tả thì
học sinh sẽ vận dụng kiến thức này để viết đúng bài tập làm văn viết; biết khai
thác từ ngữ ở phân môn luyện từ và câu; khi đã hiểu bài thì học sinh sẽ đọc trôi
chảy ở tiết tập đọc và nâng cao cho học sinh khá giỏi về chữ viết đẹp, đúng để
tham gia vào các đợt thi viết chữ đẹp do trường, ngành tổ chức.
c. Dạy tích hợp qua phân mơn Luyện từ và câu
- Đối với dạng bài mở rộng và hệ thống hóa vốn từ giáo viên yêu cầu học
sinh trung bình, yếu chỉ cần tìm được một vài từ thơng dụng theo gợi ý sách giáo
khoa cịn đối với học sinh khá giỏi có thể tham khảo từ điển để tìm nhiều từ hơn


14


hoặc giáo viên chủ động dẫn dắt, gợi ý, giải nghĩa từ ngữ bằng nhiều hình thức
khác nhau để bổ sung vốn tiếng việt và giúp các em dễ thực hiện yêu cầu bài
tập; tăng cường tổ chức học sinh trao đổi theo nhóm để các em hợp tác tìm ra
yêu cầu đối với giờ học luyện từ và câu.
Ví dụ: + Trong bài Mở rộng vốn từ Hữu nghị - Hợp tác: bài tập 2 có yêu
cầu: xếp các từ có tiếng “ hợp” cho dưới đây thành 2 nhóm a và b: (Hợp tình, hợp
tác, phù hợp, hợp thời, hợp lệ, hợp nhất, hợp pháp, hợp lực, hợp lý, thích hợp).
a/ hợp có nghĩa là “ gộp lại” (thành lớn hơn) M: hợp tác.
b/ hợp có nghĩa là “đúng với u cầu, địi hỏi…nào đó”. M: thích hợp.
Giáo viên yêu cầu học sinh giải nghĩa từ, giáo viên cũng cần chấp nhận
nhiều cách diễn đạt khác nhau, đôi khi cịn vụng về, “ngây ngơ”, miễn sao học
sinh thể hiện được sự cảm nhận đúng và biết dùng từ khơng sai lạc về nghĩa. Từ
đó giáo viên uốn nắn để học sinh biết cách giải nghĩa từ cho chính xác. Từ việc
nắm được nghĩa của từ, học sinh dễ dàng xếp đúng từ theo nhóm.
+ Trong bài: Mở rộng vốn từ: Hịa Bình: bài tập 3 u cầu viết một đoạn
văn từ 5 đến 7 câu miêu tả cảnh thanh bình của một miền quê hoặc thành phố
mà em biết. Như vậy ở bài tập này các em không chỉ được củng cố thêm vốn từ
về hịa bình mà còn được luyện tập viết một đoạn văn tả cảnh.
d. Dạy tích hợp qua phân mơn Tập làm văn
Đây là một phân môn mà học sinh phải tổng hợp những gì đã được tích
lũy qua các bài giảng của giáo viên. Chính vì thế, khi dạy phân mơn này, tơi
thường giới thiệu với các em những bài đọc có liên quan hoặc tài liệu hay để các
em tham khảo.
Ví dụ: Văn tả cảnh có các bài tham khảo:
- Quang cảnh làng mạc ngày mùa (Tơ Hồi)
- Tiếng đàn Ba-la-lai-ca trên sơng Đà (Quang Huy)
- Kì diệu rừng xanh (Nguyễn Phan Hách)
- Trước cổng trời (Nguyễn Đình Ảnh)
- Đất Cà Mau (Mai Văn Tạo)
............................................



15

Văn tả người có các bài tham khảo:
- Một chuyên gia máy xúc (Hồng Thủy)
- Những người bạn tốt (Lưu Anh)
- Hạng A-cháng (Ma Văn Kháng)
- Bà tôi (Mác-xim Go-ro-ki)
.............................................
- Làm văn là nơi thử thách cho học sinh các kĩ năng Tiếng Việt, vốn sống,
vốn văn học, năng lực cảm thụ văn học, học sinh phải thể hiện cảm xúc, suy nghĩ
bằng ngơn ngữ nói và viết từ đó rèn cách nghĩ, cách cảm nhân thật sáng tạo, luyện
cách diễn tả chính xác, sinh động, hồn nhiên với những nét riêng độc đáo.
- Giáo viên cần rèn luyện cho học sinh kĩ năng tìm hiểu, phân tích đề,
quan sát, tìm ý, kĩ năng diễn đạt, viết đoạn và hồn thiện bài viết.
- Trong phân môn Tập làm văn, khâu đánh giá chữa lỗi rất quan trọng.
Giáo viên cần chấm, chữa bài cho học sinh thật kĩ để giúp học sinh thấy được
những thiếu sót của mình, tự rút kinh nghiệm sữa chữa, nên tạo khơng khí thoải
mái khi sửa bài.
Nói tóm lại: phân mơn Tập đọc củng cố, nâng cao kĩ năng đọc cho học
sinh, mở rộng vốn hiểu biết, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho học
sinh…điều này sẽ được các em thể hiện qua bài viết trong phân mơn Chính tả,
Tập làm văn, Luyện từ và câu (viết đoạn văn ngắn theo yêu cầu). Đây cũng là cơ
sở bồi dưỡng văn cảm thụ cho học sinh khá, giỏi.
Học tốt Tập làm văn sẽ giúp các em nhanh hiểu và cảm thụ nội dung bài
tập đọc. Biết viết đúng u cầu trong phân mơn chính tả; biết phân tích ngữ liệu
một cách logic trong phân mơn luyện từ và câu; biết suy luận từ những nhận xét
để rút ra nội dung cần ghi nhớ trong bài học.
Việc học tích hợp các phân mơn tập đọc; chính tả; luyện từ và câu; tập

làm văn sẽ giúp cho học sinh học tốt các môn học khác, đồng thời làm cho ngôn
ngữ Tiếng Việt của học sinh ngày càng phong phú và trong sáng hơn.
3.2.7. Huy động sự đồng hành của phụ huynh học sinh.


16

Giáo viên và phụ huynh thường xuyên trao đổi, thông báo tình hình học tập
của học sinh, giải đáp khúc mắc, trao đổi ý kiến để đưa ra những biện pháp giúp
việc học tập của các con đạt kết quả tốt nhất qua các buổi họp phụ huynh, qua
Zalo, điện thoại…
Nhờ phụ huynh giúp đỡ học sinh trong quá trình học tập ở nhà: đôn đốc,
động viên con em đi học chuyên cần; có sự kiểm tra và chuẩn bị cho con em
trước khi đến trường; theo dõi và kiểm tra bài vở của con em mình.

Lập nhóm zalo lớp để trao đổi tình hình học tập của học sinh

4. Phạm vi ảnh hưởng, hiệu quả áp dụng của sáng kiến
4.1. Việc áp dụng hoặc áp dụng thử:
Với sáng kiến này, tôi đã và đang áp dụng với học sinh lớp tôi chủ nhiệm,
giảng dạy trong năm học này và cả những năm học trước. Tôi đã chia sẻ những
biện pháp này với đồng nghiệp trong các buổi sinh hoạt chuyên môn trong tổ,


17

trong trường giúp đồng nghiệp biết được một số kinh nghiệm trong giảng dạy
mơn Tiếng Việt để có thể tham khảo thêm.
Sáng kiến của tôi là những giải pháp tôi đã thực hiện và mang lại kết quả rất khả
quan. Rõ ràng qua cách làm này, tôi thấy kết quả học tập môn Tiếng Việt của học

sinh ngày càng tiến bộ rõ rệt. Các em yêu thích, chủ động, tích cực trong học thực
hiện tốt các nhiệm vụ của học sinh, ngày càng chăm ngoan. Các em thực hiện tốt
các kỹ năng trong cuộc sống. Điều đó làm tơi rất vui mừng và vơi đi những vất vả,
mệt nhọc. Tình cảm thầy- trị, bạn bè ngày càng gắn bó và thân thiện.
4.2. Hiệu quả áp dụng:
4.2.1. Trước khi thực hiện các giải pháp
- Một số học sinh cịn có tính ham chơi, chưa xác định rõ nhiệm vụ học tập,
không ham thích mơn Tiếng Việt.
- Nhiều em chưa có tính tự giác trong học tập, không làm bài tập cô giao,
không học bài cũ.
- Trong tiết học còn thiếu tập trung, không chú ý nghe giảng, ngại phát
biểu xây dựng bài.
- Chất lượng học tập môn Tiếng việt ở tất cả các phân mơn cịn thấp.
4.2.2. Sau khi thực hiện các giải pháp
Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt
cho lớp chủ nhiệm, tôi nhận thấy:
- Học sinh mạnh dạn, tự tin hơn; tự quản, tự điều hành được các hoạt động
học tập của mình.
- Học sinh tích cực tham gia các hoạt động học tập, hăng hái phát biểu xây
dựng bài, tập trung tốt trong suốt buổi học.
- Học sinh chăm làm bài và học bài cũ hơn.
- Học sinh thực hiện tốt nề nếp lớp học, thi đua cùng phấn đấu học tập.
- Kết quả học tập môn Tiếng Việt của đa số học sinh có nhiều tiến bộ so với đầu
năm. Cụ thể:


18

Năm học


TS

2021- 2022

HS

Đầu năm học
Cuối học kì II

Hồn thành tốt

Hồn thành

Chưa hồn thành

TS

%

TS

%

TS

%

37

8


21,6

26

70,3

3

8,1

37

16

43,2

21

56,8

0

0

4.3. Phạm vi ảnh hưởng cơng nhận
Sáng kiến mang lại hiệu quả cao, có thể áp dụng trong toàn ngành.
KẾT LUẬN
Muốn việc giảng dạy của thầy và việc học của trị được nâng cao, việc
nghiên cứu tìm tịi là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Thông qua giảng dạy và

hướng dẫn học sinh môn Tiếng Việt tôi đã rút ra bài học cho bản thân mình là:
- Giáo viên phải tâm huyết với nghề: Yêu nghề mến trẻ, luôn học hỏi, trao
đổi kinh nghiệm cho bản thân thông qua trao đổi với đồng nghiệp. Ln tìm tịi,
nghiên cứu, sáng tạo, áp dụng những phương pháp dạy học có chất lượng hiệu
quả. Giáo viên thường xuyên học hỏi, trau dồi kiến thức, đọc sách báo để ngày
càng làm phong phú thêm vốn kiến thức của mình. Mỗi giáo viên thực sự có
năng lực và tâm huyết cho mọi người học.
- Giáo viên nắm chắc được yêu cầu phân môn đang dạy theo từng bài học,
theo từng nội dung. Giáo viên phải vững về kiến thức, kĩ năng thực hành tiếng
Việt, có vốn sống, vốn cảm xúc phong phú.
- Chuẩn bị chu đáo, hướng dẫn học sinh suy nghĩ, quan sát nêu được
những ý kiến sát thực với bài học. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải
khơi dậy niềm say mê hứng thú của học sinh đối với môn học Tiếng Việt.
- Giáo viên chủ động, sáng tạo, khéo léo trong việc áp dụng phương pháp
dạy học theo từng nội dung, động viên kịp thời những phát hiện sáng tạo của
học sinh.
- Giáo viên chủ động, sáng tạo, khéo léo trong việc áp dụng phương pháp
dạy học theo từng nội dung, động viên kịp thời những phát hiện sáng tạo của
học sinh


19

- Giáo viên - học sinh có mối quan hệ gần gũi nhưng nghiêm túc, tạo tâm
lý thoải mái, cử chỉ thân thiện trong q trình dạy học.
Ln phối hợp với gia đình, nhà trường để tạo điều kiện tốt nhất cho các
em tham gia học tập.
Qua thời gian công tác và giảng dạy tôi đã rút ra một số kinh nghiệm trên.
Tôi thấy sau khi áp dụng các giải pháp trên, đa số học sinh biết vận dụng những
kiến thức đã học để trả lời đúng yêu cầu câu hỏi; làm bài viết đúng trọng tâm;

tiết học diễn ra trong khơng khí sinh động, học sinh tiếp thu kiến thức một cách
dễ dàng trong tâm trạng thoải mái. Thông qua bài học tơi đã bồi dưỡng tình u
tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng giàu đẹp của tiếng Việt;
góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam.
Trên đây là một số kết quả mà bản thân tơi đã đạt được, tơi muốn được
trình bày với bạn bè đồng nghiệp. Song ý kiến của tơi cũng khơng tránh khỏi
những thiếu sót nhất định. Tơi mong được sự góp ý của bạn bè, đồng nghiệp để
sáng kiến của tôi được bổ sung đầy đủ hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn./.
Người viết

Lại Thị Thanh



×