Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở việt nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4 0 liên hệ vai trò của sinh viên trong bối cảnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.76 KB, 23 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
................................................

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
ĐỀ TÀI
CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA Ở VIỆT NAM TRONG BỐI
CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0. LIÊN HỆ VAI TRÒ CỦA
SINH VIÊN TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn

:Ths Nguyễn Văn H

Sinh viên thực hiện

:

Mssv

:

Lớp

:

BẮC GIANG 13/03/2021


MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU..........................................................................................1


PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ CƠNG NGHIỆP
HĨA, HIỆN ĐẠI HÓA...............................................................................2
1.1. Khái niệm CNH-HĐH......................................................................2
1.2. Đặc điểm của CNH-HĐH ở Việt Nam............................................3
1.2.1. Cơng nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa.................................3
1.2.2. CNH-HĐH được thực hiện trong bối cảnh phát triển nền kinh
tế thị trường...........................................................................................3
1.2.3. CNH-HĐH là sự nghiệp của toàn dân........................................4
1.2.4. CNH-HĐH gắn liền với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ.........................................................................................................4
1.2.5.

Khoa học và kĩ thuật được xác định là nền tảng và động lực

của CNH-HĐH......................................................................................4
1.2.6. CNH-HĐH phát huy nguồn lực con người................................4
1.3. Nội dung của CNH-HĐH ở Việt Nam............................................5
1.3.1. Phát triển lực lượng sản xuất cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội...........................................................................................5
1.3.2. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa, hợp lý hóa
và hiệu quả cao......................................................................................6
1.3.3. Thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ
nghĩa......................................................................................................7
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CƠNG NGHIỆP HĨA- HIỆN ĐẠI
HĨA TẠI VIỆT NAM................................................................................7


2.1. Kết quả đạt được..............................................................................7
2.2. Những vấn đề đặt ra.......................................................................12

CHƯƠNG III: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VÀ SINH VIÊN TRONG
THỜI KỲ CƠNG NGHIỆP HĨA- HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC......15
3.1. Đối với nhà nước.............................................................................15
3.2. Đối với sinh viên.............................................................................16
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................19


PHẦN I: MỞ ĐẦU
Chúng ta đều biết, Cơng nghiệp hóa được coi là sản phẩm trực tiếp của
cuộc cách mạng Cơng nghiệp cuối thế kỉ XVIII, cịn hiện đại hóa là sản phẩm
tất yếu của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật giữa thế kỉ XX. Ngày nay trong
bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cơng nghiệp
hóa gắn liền với hiện đại hóa được nhận thức là con đường tạo dựng nên văn
minh mới. Với tư cách là nấc thang đánh dấu trình độ phát triển mới của nền
văn minh nhân loại, CNH-HĐH được thừa nhận là q trình tất yếu mang tính
quy luật đối với tất cả các nước từ nền kinh tế lạc hậu tiến lên kinh tế công
nghiệp hiện đại. Vấn đề đặt ra cho mỗi quốc gia trên con đường thực hiện
CNH-HĐH là cần nắm bắt xu thế phát triển tất yếu, khách quan của thời đại,
khai thác tối đa những thời cơ, thuận lợi và hạn chế đến mức thấp nhất nguy
cơ, khó khăn, bất lợi để thực hiện thành cơng sự nghiệp đó.
Đối với nước ta hiện nay,CNH-HĐH khơng chỉ là q trình mang tính
tất yếu, khách quan mà còn là một đòi hỏi bức thiết. Bởi lẽ, từ một nền kinh tế
tiểu nông phấn đấu mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”, chúng ta chỉ có một con đường là thực hiện CNH-HĐH. Cho
đến nay cả trên bình diện lý luận lẫn thực tiễn, Đảng ta khẳng định CNHHĐH là nhiệm vụ trọng tâm, có tác động mạnh mẽ tới tồn bộ quá trình phát
triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn tới. Tại hội nghị đại biểu
toàn quốc nhiệm kỳ khóa VII
Và nắm bắt được tầm quan trọng của vấn đề nên tôi đã chọn đề tài:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam trong bối cảnh cách mạng

cơng nghiệp 4.0. Liên hệ vai trị của sinh viên trong bối cảnh hiện nay” để
có cái nhìn sâu và rộng hơn.


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ CƠNG
NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA
1.1. Khái niệm CNH-HĐH.
Thế kỷ XVII- XVIII, khi cách mạnh công nghiệp được tiến hành ở Tây
Âu, cơng nghiệp hóa được hiểu là q trình thay thế lao động thủ cơng bằng
lao động sử dụng máy móc. Những khái niệm kinh tế nói chung và khái niệm
cơng nghiệp hóa nói riêng mang tính lịch sử, ln có sự thay đổi cùng với sự
phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa học công nghệ. Do đó việc nhận
thức đúng đắn khái niệm này trong từng giai đoạn phát triển của nền sản xuất
xã hội có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, rút những
kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành cơng nghiệp hóa, và từ thực tiễn cơng
nghiệp hóa, Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ bảy khóa VI và Đại
hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định:
“Cơng nghiệp hóa là q trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng sức lao
động thủ cơng là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động và công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo nên năng suốt lao động xã hội cao”.
Theo đó có thể nói về thực chất CNH-HĐH là q trình cải biến lao
động thủ công thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân để đạt được năng suất lao động xã hội cao. CNH không thể
không gắn liền với HĐH, kếp hợp với những bước tiến tuần tự với công
nghiệp, tận dụng phát triển theo chiều rộng, tạo ra ngày càng nhiều việc làm
cho người lao động, tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, phát triển theo



chiều sâu, tạo nên những mũi nhọn theo kịp trình độ phát triển của khoa học
và công nghệ thế giới.
CNH-HĐH là quá trình xây dựng một xã hội văn minh, cải biến căn
bản các ngành kinh tế, các hoạt động xã hội theo phong cách của nước công
nghiệp hiện đại, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế xã hội bền vững, không ngừng
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
Nói một cách khái quát CNH-HĐH trong thời đại hiện nay là quá trình
cải biến một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại, có trình độ văn minh
cao hơn, thể hiện khơng chỉ ở trình độ kinh tế và cơng nghệ hiện đại, tiên tiến,
có nền kinh tế phát triển cao, mà cịn ở đời sống chính trị, văn hóa, tinh thần
của xã hội, ở sự phát triển của con người, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
Khái niệm công nghiệp hóa trên được Đảng ta xác định rộng hơn
những quan điểm trước đó, bao hàm cả về hoạt động kinh doanh, cả về dịch
vụ và quản lí kinh tế xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và các
phương pháp tiên tiến hiện đại cùng với khoa học và công nghệ cao.
1.2. Đặc điểm của CNH-HĐH ở Việt Nam.
Do những biến đổi của nền kinh tế thế giới và điều kiện cụ thể của đất
nước, CNH-HĐH ở nước ta có những đặc điểm sau đây:
1.2.1. Cơng nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa
Trong điều kiện cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại đang có
những bước phát triển nhanh chóng và xu thế quốc tế hóa hiện nay, CNH nhất
thiết phải gắn liền với HĐH. Tranh thủ ứng dụng những thành tựu của khoa
học công nghệ, tiếp cận tri thức để hiện đại hóa những ngành, những khâu,
những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt.


1.2.2. CNH-HĐH được thực hiện trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị
trường

Nếu như trước đây, cơng nghiệp hóa được tiến hành theo cơ chế tập
trung bao cấp, kế hoạch hóa cao độ với các chỉ tiêu pháp lệnh nghiêm ngặt,
thì giờ đây CNH-HĐH đuợc thực hiện theo cơ chế thị trường định hướng
XHCN có sự quản lý của nhà nước và lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn cơ
bản.
1.2.3. CNH-HĐH là sự nghiệp của toàn dân
Là sự nghiệp của toàn dân, CNH-HĐH là một cuộc cách mạng toàn diện
và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, đòi hỏi phải đầu tư rất
nhiều trí tuệ, sức người, sức của. Chỉ có huy động sức mạnh và khả năng sang
tạo to lớn của toàn dân, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quản lý điều
hành hiệu quả của nhà nước mới đảm bảo thắng lợi
1.2.4. CNH-HĐH gắn liền với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
“Mở cửa” nền kinh tế là sự đổi mới mang tính bước ngoặt trong tư duy
và quan điểm kinh tế của Đảng và Nhà nước. Đó là sự thay đổi quan niệm về
độc lập tự chủ trong kinh tế. Độc lập tự chủ không có nghĩa là tự cung, tự cấp,
khép tính nền kinh tế, mà chỉ có nền kinh tế mạnh, phát triển bền vững mới có
khả năng độc lập, đồng thời tiến đến là bảo đảm sự độc lập dân chủ của dân
tộc.Vì vậy xu thế hiện nay là cần phải mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế mới có
khả năng đem lại một nền kinh tế bền vững, độc lập, tự chủ.
1.2.5.

Khoa học và kĩ thuật được xác định là nền tảng và động lực của

CNH-HĐH.
Nói đến CNH-HĐH là nói đến việc áp dụng những tiến bộ khoa học
công nghệ vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế
xã hội. Sẽ khơng có CNH-HĐH nếu không dựa vào khoa học công nghệ.
Trong thời đại hiện nay KH-CN là nền tảng và động lực của quá trình CNHHĐH.



1.2.6. CNH-HĐH phát huy nguồn lực con người
Quá trình CNH-HĐH ngày nay địi hỏi phải biết ni dưỡng, phát triển
và khai thác hợp lý có hiệu quả nguồn lực con người. CNH-HĐH là do con
người và cũng phục vụ cho con người
Như vậy, đối với nước ta hiện nay, để thực hiện thành công đường lối
CNH-HĐH “ rút ngắn thời gian vừa có bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt”,
đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực phát huy những lợi thế vốn có của đất nước. Tận
dụng tối đa mọi cơ hội, mọi khả năng có thể có để nhanh chóng đạt trình độ
cơng nghệ tiên tiến, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn
và phổ biến hơn những thành tựu về khoa học và kĩ thuật. Cùng với đó chúng
ta phải ra sức phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người
Việt Nam, lấy phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ làm nền
tảng và động lực của sự nghiệp CNH-HĐH.
1.3. Nội dung của CNH-HĐH ở Việt Nam.
Những nội dung cơ bản của CNH-HĐH trong bối cảnh kinh tế Việt
Nam hiện nay:
1.3.1. Phát triển lực lượng sản xuất cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội
Khi nền khoa học của thế giới đang có sự phát triển như vũ bão, khoa
học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, công nghệ đang trở thành
nhân tố quyết định chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất…tức là đến khả
năng cạnh tranh của hàng hóa, hiệu quả của sản xuất, kinh doanh thì khoa học
công nghệ phải là động lực của CNH-HĐH. Bởi vậy phát triển khoa học cơng
nghệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp CNH-HĐH.
Phát triển khoa học công nghệ trong điều kiện Việt Nam hiện nay cần
chú ý đến các vấn đề sau:


Xác định những phương hướng đúng đắn cho sự phát triển của
khoa học và công nghệ.

Phương hướng chung cho sự phát triển của khoa học và công nghệ là:
phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ
cơng nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học,
tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn
những thành tựu khoa học và công nghệ, từng bước phát triển nền kinh tế tri
thức.
Tạo dựng được những điều kiện cần thiết cho sự phát triển của khoa
học và cơng nghệ.
Những điều kiện đó là: đội ngũ khoa học cơng nghệ có số lượng đủ lớn,
chất lượng cao, đầu tư ở mức cần thiết, các chính sách kinh tế phù hợp…
Trong q trình CNH-HĐH người lao động- lực lượng sản xuất thứ
nhất- không những phải nâng cao được trình độ văn hóa và khoa học và cơng
nghệ mà cịn phải được trang bị cả cơ sở vật chất, kỹ thuật tiên tiến. Họ vừa là
kết quả của sự phát triển sản xuất, vừa là người tạo ra sự phát triển đó.
1.3.2. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa, hợp lý hóa và hiệu
quả cao.
Quá trình CNH-HĐH cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Đảng ta đã xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý mà bộ xương của nó là cơ cấu
kinh tế cơng-nơng nghiệp- dịch vụ gắn liền với phân công và hợp tác quốc tế
sâu rộng
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH
được thực hiện theo phương châm: kết hợp cơng nghệ với trình độ, tận dụng
nguồn lao động dồi dào, vừa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc hậu, vừa phù
hợp với nguồn vốn có hạn trong nước. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta
trong những năm trước mắt cần thực hiện theo định hướng chung sau đây:


chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế
mạnh,các lợi thế so với các nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu trong
nước và nước ngoài. Tăng thêm sức mua thị trường trong nước và mở rộng thị

trường nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu.
1.3.3. Thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Công nghiệp hóa nhằm mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó
CNH-HĐH khơng chỉ là phát triển lực lượng sản xuất, mà cịn là q trình
thiết lập củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng
XHCN.
Theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất.Vì vậy trong công cuộc thưc hiện CNH-HĐH không
chỉ phát triển lực lượng sản xuất mà quan hệ sản xuất cũng từng bước được
cải tiến cho phù hợp. Một quan hệ sản xuất định hướng XHCN là nó thúc đẩy
phát triển lực lượng sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân, tạo điều kiện
thực hiện công bằng xã hội.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CƠNG NGHIỆP HĨA- HIỆN ĐẠI
HĨA TẠI VIỆT NAM
2.1. Kết quả đạt được
Tổng quan kết quả 30 năm thực hiện đổi mới và đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
Trong nhiều thập niên qua, CNH, HĐH là xu hướng phát triển chung
của nhiều nước trên thế giới. Đối với Việt Nam, cùng với quá trình đổi mới,
việc thực hiện các chủ trương, đường lối về CNH, HĐH đã góp phần quan
trọng trong q trình phát triển, đưa đất nước thoát nghèo và lạc hậu, nâng
cao mức sống của người dân. Đánh giá chung về thành tựu thực hiện CNH,
HĐH ở Việt Nam trong 30 năm qua có thể khái quát trên một số nét như sau:


Về cơ bản, từ năm 1991 đến nay, Việt Nam đã duy trì được tốc độ tăng
trưởng bình quân khá. Tăng trưởng GDP đã tăng từ mức bình quân 4,45%
giai đoạn 1986 - 1990 lên 8,19% giai đoạn 1991 - 1995. Giai đoạn sau, tốc độ
tăng trưởng GDP bình quân có thấp hơn, nhưng vẫn dao động quanh mức 7%,

trong đó, giai đoạn 1996 - 2000 đạt 6,96%/năm, giai đoạn 2001 - 2005 đạt
7,33%. Riêng 10 năm qua, do những biến động bất lợi của kinh tế thế giới và
một số khó khăn của kinh tế trong nước, tăng trưởng GDP tiếp tục giảm
xuống thấp hơn, nhưng cũng là mức cao so với nhiều nước trong khu vực,
trong đó, giai đoạn 2006 - 2010 đạt bình quân 6,32%/năm và giai đoạn 2011 2015 ước đạt bình quân khoảng 5,82%/năm.
Cơ cấu các ngành kinh tế đã có sự dịch chuyển tích cực theo hướng
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP giảm
dần, từ 38,06% năm 1986 xuống còn 18,9% năm 2010 và ước ở mức 18,12%
năm 2014 (năm 2015 dự kiến ở mức 16,8%). Tỷ trọng ngành công nghiệp và
xây dựng trong GDP tăng từ mức 28,88% năm 1986 lên 38,5% năm 2014
(năm 2015 dự kiến là 39%). Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ
mức 33,1% những năm đầu đổi mới lên 42,88% năm 2010 và khoảng 43,38%
năm 2014 (năm 2015, dự kiến tăng lên khoảng 44%). Quá trình chuyển dịch
cơ cấu trong từng ngành cũng đã gắn nhiều hơn với các yêu cầu về CNH,
HĐH. Trong cơ cấu ngành công nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất của cơng
nghiệp khai khống giảm dần, trong khi tỷ trọng của ngành công nghiệp chế
biến tăng. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, từng bước đáp ứng tốt hơn
nhu cầu của sản xuất và đời sống. Trong đó, các ngành dịch vụ gắn với CNH,
HĐH như dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý, bưu chính viễn
thơng... phát triển nhanh, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong GDP.
Hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh. Việt Nam đã tham gia hội
nhập trên tất cả các cấp độ, từng bước tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi
giá trị cung ứng, đưa hoạt động của doanh nghiệp và nền kinh tế vào môi


trường cạnh tranh toàn cầu. Xuất khẩu tăng nhanh và là động lực quan trọng
cho tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng xuất khẩu bình quân thời kỳ 2001 - 2005
đạt 17,9%, thời kỳ 2006 - 2010 đạt 18,27% và thời kỳ 2011 - 2015 ước đạt
17,96%. Thị trường xuất khẩu được mở rộng ra nhiều quốc gia và vùng lãnh
thổ trên thế giới. Nếu như năm 1986, Việt Nam chưa có mặt hàng nào xuất

khẩu trên 200 triệu USD thì đến năm 2013 đã có 8 sản phẩm có giá trị xuất
khẩu đạt trên 5 tỷ USD (điện thoại và linh kiện, điện tử máy tính và linh kiện,
máy móc thiết bị dụng cụ khác, thủy sản, dệt may, dầu thô, gỗ và sản phẩm
gỗ, giầy dép). Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng
sản phẩm chế biến, nguyên vật liệu, linh kiện và phụ tùng cho sản xuất, giảm
tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng thơ và tài ngun. Trong khi đó, cơ cấu hàng
nhập khẩu chuyển dịch theo hướng ưu tiên phục vụ sản xuất để xuất khẩu và
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực. Gắn liền với q trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phục vụ tốt hơn các mục tiêu CNH, HĐH. Tỷ
trọng lao động ngành nông nghiệp đã giảm mạnh, từ 73% năm 1990 xuống
khoảng 47% năm 2014. Tỷ trọng lao động ngành công nghiệp - xây dựng và
dịch vụ tăng liên tục, trong đó, ngành cơng nghiệp, xây dựng tăng từ 11,2%
năm 1990 lên 18,2% năm 2005 và đến năm 2014 là 20,8%; ngành dịch vụ
tăng từ 15,8% năm 1990 lên 24,7% năm 2005 và đến năm 2014 là 32,2%. Tỷ
lệ lao động qua đào tạo tăng từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm
2010 và đến năm 2014 là 49%.
Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội: Cùng với
thúc đẩy tăng trưởng, Việt Nam cũng đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hố, thực hiện tiến bộ và cơng
bằng xã hội. Cơng tác giải quyết việc làm, xố đói giảm nghèo vượt mục tiêu
phát triển Thiên niên kỷ. GDP bình quân đầu người tăng mạnh, từ 113 USD
năm 1991 lên 1.273 USD năm 2010 và đến năm 2015 ước đạt khoảng 2.300


USD. Người dân cũng đã có điều kiện thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với
các dịch vụ công cơ bản, trong đó đáng kể là dịch vụ y tế, giáo dục. Tỷ lệ hộ
nghèo giảm rõ rệt qua các năm, kể cả khu vực nông thôn và thành thị. Tỷ lệ
hộ nghèo tính theo chuẩn nghèo năm 2005 đã giảm từ 15,5% năm 2006 xuống
còn 10,7% năm 2010; 9,6% năm 2012 và ước ở mức khoảng 5,8 - 6% năm

2014 (theo chuẩn nghèo năm 2011).

Tuy nhiên, bên cạnh những thành cơng nói trên, q trình thực hiện đổi
mới và đẩy mạnh CNH, HĐH ở Việt Nam thời gian qua cũng đang phải đối
mặt với một số vấn đề, trong đó, đáng chú ý là:
Kinh tế phát triển chưa bền vững: Tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp so
với tiềm năng và thấp hơn nhiều nước trong khu vực thời kỳ đầu CNH. Tăng
trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào các ngành công nghệ thấp,
tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều tài nguyên, vốn và lao động. Vai trị của
KHCN, của tính sáng tạo trong tăng trưởng kinh tế còn thấp. Yêu cầu về thực
hiện CNH, HĐH theo hướng rút ngắn đứng trước nhiều thách thức. Kể từ khi
bắt đầu thực hiện CNH, tốc độ tăng trưởng bình qn trong 25 năm sau đó
của Hàn Quốc là 7,79% (giai đoạn 1961 - 1985), của Thái Lan là 7,11% (giai
đoạn 1961 - 1985), của Ma-lai-xi-a là 7,66% (giai đoạn 1961 - 1985) và của
Trung Quốc là 9,63% (1979 - 2003). Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân của Việt Nam kể từ khi thực hiện đổi mới đến nay chỉ khoảng
6,5%: Nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực đang hiện hữu.
Mặc dù đã đạt được các kết quả tích cực về phát triển kinh tế, song đến
nay, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam vẫn còn thấp, chênh lệch
khá lớn so các nước trong khu vực. GDP bình quân đầu người của Thái Lan
năm 1996 là 3.026 USD thì đến năm 2014 là 5.550 USD và của Trung Quốc
năm 1996 là 728 USD thì đến năm 2014 là 7.572 USD, trong khi con số


tương ứng của Việt Nam chỉ tăng từ mức 337 USD lên 2.072 USD. GDP bình
quân đầu người của Việt Nam năm 2014 chỉ ngang bằng mức GDP bình quân
đầu người của Trung Quốc năm 2006, In-đô-nê-xi-a năm 2007, Thái Lan năm
1993.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu lao động
đã “chững lại” trong nhiều năm nhưng chậm có sự điều chỉnh phù hợp. Các

ngành dịch vụ thâm dụng tri thức, KHCN phát triển cịn chậm. Nếu như trong
giai đoạn đầu của q trình CNH, HĐH, cơ cấu kinh tế có tốc độ chuyển dịch
khá, cơ cấu ngành nông nghiệp trong GDP giảm mạnh, từ mức 38% năm
1986 xuống 27% năm 1995 và 19,3% năm 2005, thì từ năm 2006 đến nay, tỷ
trọng ngành nông nghiệp trong GDP giảm không đáng kể. Năm 2014, ngành
nông nghiệp vẫn chiếm hơn 18% GDP, cao hơn đáng kể so với tỷ trọng ngành
nông nghiệp trong GDP của các nước xung quanh (tỷ trọng ngành nông
nghiệp trong GDP của Trung Quốc là 10,1%, của In-đô-nê-xi-a là 14,4%, của
Ma-lai-xi-a là 10,1% và của Thái Lan là 12,3%).

Sự hợp tác, liên kết trong phát triển cơng nghiệp cịn yếu, CNHT phát
triển còn chậm, sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên, phụ
liệu. Việt Nam đã thực hiện CNH, HĐH được gần 30 năm, nhưng đến nay
vẫn còn lúng túng trong việc xác định các định hướng phát triển ngành
CNHT. Vai trò của CNHT trong thực hiện CNH, HĐH chậm được nhận diện.
Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi nhanh vào cơ
cấu kinh tế hiện đại, chưa có sự liên kết chặt chẽ để tạo ra các tác động lan tỏa
cho nền kinh tế, mức độ tập trung kinh tế vẫn thấp.
Sức cạnh tranh nền kinh tế còn thấp, năng suất lao động có khoảng
cách lớn so với nhiều nước và chậm được cải thiện. Theo số liệu từ Báo cáo
Năng lực cạnh tranh toàn cầu 2013 - 2014 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, nền


kinh tế Việt Nam đứng thứ 70 trong số 148 quốc gia trong bảng xếp hạng,
tăng 5 bậc so với thứ hạng 75 trong năm 2012 - 2013. Việt Nam ln nằm
trong nhóm các quốc gia gần thuộc nửa cuối bảng xếp hạng, thấp hơn nhiều
so với các nước trong khu vực Đông Nam Á (Ma-lai-xi-a đứng thứ 24, Thái
Lan đứng thứ 37, In-đơ-nê-xi-a đứng thứ 38, Phi-líp-pin đứng thứ 59) và còn
một khoảng cách rất xa so khu vực Đông Á (Hàn Quốc, Nhật Bản).


Mức độ tham gia của các doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi giá trị
toàn cầu còn rất hạn chế. Việt Nam đã thực hiện cải cách và mở cửa trong gần
30 năm, xuất khẩu liên tục được mở rộng nhưng mức độ tham gia của các
doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi giá trị tồn cầu cịn rất hạn chế. Hàm
lượng GTGT của xuất khẩu cịn thấp. Các mặt hàng có lợi thế so sánh cao vẫn
thuộc các nhóm sử dụng nhiều nguyên liệu, tài ngun và lao động rẻ như
nhóm hàng cơng nghiệp nhẹ (da giầy, thủ cơng mỹ nghệ…), nhóm nơng sản,
thủy sản.
2.2. Những vấn đề đặt ra
Để thực hiện chủ trương đẩy mạnh CNH, Việt Nam đã đề ra và tổ chức
thực hiện nhiều giải pháp khác nhau. Các đường lối, chủ trương thực hiện
CNH, HĐH đã tính đến các đặc điểm của quá trình chuyển đổi kinh tế ở Việt
Nam trong từng giai đoạn, bối cảnh của thế giới và khu vực. Mơ hình, cách
thức và bước đi thực hiện CNH, HĐH cũng đã được xác định rõ ràng và cụ
thể hơn. Tuy nhiên, như phần trên đã chỉ ra, kết quả thực hiện các chủ trương,
chính sách CNH, HĐH thời gian qua vẫn còn những hạn chế và các nguyên
nhân dẫn đến những hạn chế này có thể khái quát lại như sau:
Việt Nam đã bước vào công cuộc đổi mới được 35 năm, trong đó có
gần 20 năm thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH nhưng đến nay, nhiều nội dung
đề ra rất khó đạt được. Việc chưa hình thành được một chiến lược tổng thể về


CNH, HĐH đã làm cho vấn đề phát triển các ngành, các lĩnh vực trở nên dàn
trải trong khi nguồn lực thực hiện hạn chế. Phát triển CNHT được xem là nền
tảng và là yêu cầu để thực hiện CNH, HĐH, song đến nay, ngành CNHT ở
Việt Nam còn kém phát triển. Việc xác định các lĩnh vực, ngành, nghề và khu
vực cần ưu tiên phát triển chưa được dựa trên luận cứ, căn cứ phù hợp[9], vẫn
còn tư tưởng mong muốn phát triển “dàn đều” ở các ngành, các lĩnh vực, các
vùng và hệ lụy là sau gần 30 năm thực hiện đổi mới đến nay, Việt Nam vẫn
chưa có được một ngành cơng nghiệp phát triển, có chỗ đứng trên thị trường

khu vực và thế giới.

Thể chế cho sự vận động của một nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN trong một số lĩnh vực vẫn chưa bắt kịp địi hỏi của thực tiễn, cịn chậm
thay đổi thói quen can thiệp của Nhà nước vào thị trường bằng các biện pháp
hành chính. Trong tư duy thực hiện CNH, HĐH, một số nội dung cịn thể hiện
sự “ơm đồm” của Nhà nước đối với nhiều chức năng mà thị trường đảm
nhiệm hiệu quả hơn, trong khi chưa chú ý đúng mức đến những chức năng mà
Nhà nước phải thực hiện trong quá trình quản lý nền kinh tế. Các nguyên tắc
của kinh tế thị trường như vai trò của giá cả trong phân bổ nguồn lực, vai trò
của cạnh tranh, vai trò của tự do kinh doanh, của yếu tố sáng tạo tuy sớm
được nhận diện nhưng chậm có các cơ chế, chính sách phù hợp. Cơ chế bao
cấp qua giá đối với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ kéo dài quá lâu, làm méo
mó các quyết định phân bổ nguồn lực trong xã hội.
Thiếu một cơ chế đồng bộ và hiệu quả trong huy động nguồn lực để
phát triển các tiền đề thực hiện CNH, HĐH như đầu tư cho HTCS, phát triển
con người và KHCN. Nguồn lực tài chính nhà nước cịn chưa phát huy có
hiệu quả vai trị “tạo mơi trường” để thu hút sự tham gia đầu tư của các thành
phần kinh tế khác. Tính kết nối giữa các mục tiêu CNH, HĐH với yêu cầu về
nguồn lực thực hiện còn hạn chế. Quá trình hình thành, xác định các mục tiêu,


định hướng thực hiện CNH, HĐH cho từng thời kỳ còn chưa được đặt trong
mối quan hệ tổng thể với yêu cầu về nguồn lực thực hiện, chưa đảm bảo được
tính kết nối giữa nhu cầu, yêu cầu và khả năng thực hiện. Đồng thời, cịn thiếu
tính gắn kết trong xác định các mục tiêu dài hạn với các nhiệm vụ, mục tiêu
trước mắt, giữa các bước đi cụ thể cho từng giai đoạn với mục tiêu chung của
cả quá trình CNH, HĐH.
Nguồn lực đầu tư của Nhà nước cho phát triển kinh tế - xã hội nói
chung, cho việc thực hiện các mục tiêu về CNH, HĐH nói riêng là rất lớn

nhưng lại chưa phát huy được vai trò định hướng của TCNN, vai trò đầu tàu,
dẫn dắt của các DNNN trong quá trình CNH, HĐH. Cơ chế phân cấp quản lý
kinh tế, quản lý NSNN và đầu tư được đẩy mạnh nhưng trong thực hiện lại
thiếu đồng bộ, thiếu các cơ chế giám sát hiệu quả nên đã làm cho việc phân
bổ nguồn lực trong nền kinh tế bị sai lệch. Việc phê duyệt, lựa chọn các dự án
đầu tư còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố như “tư duy nhiệm kỳ” hay “lợi
ích nhóm” mà chưa thực sự gắn với các luận cứ rõ ràng về hiệu quả kinh tế,
hiệu quả xã hội. Yêu cầu thực hiện đầu tư phải có trọng tâm theo các định
hướng ưu tiên của đất nước đã được đặt ra trong các văn kiện của Đảng ngay
từ những năm đầu của cơng cuộc đổi mới, song tình trạng đầu tư theo phong
trào, rập khuôn của các ngành, các địa phương vẫn diễn ra, trong khi đó, đầu
tư để khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của địa phương, của từng ngành
chưa được chú trọng đúng mức.
Việc xác định các ngành, lĩnh vực và địa bàn, các vùng kinh tế cần ưu
tiên phát triển để thực hiện CNH, HĐH còn chưa được dựa trên các luận cứ,
căn cứ khoa học. Việc lập quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng miền
còn chưa gắn một cách hữu cơ với năng lực kinh tế, hiệu quả kinh tế nên tính
khả thi của một số mục tiêu quy hoạch khơng cao; tính liên ngành, liên vùng
trong các quy hoạch cịn yếu, chưa tính được tác động cũng như vai trò của
thị trường trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch. Hệ quả là sự mất cân đối về


phát triển trong một số ngành, lĩnh vực, gây lãng phí nguồn lực xã hội. Tính
kết nối trong xây dựng và thực hiện quy hoạch giữa các ngành, các địa
phương cịn bị cắt khúc.
Cùng với q trình đổi mới đất nước, vai trị của ngành nơng nghiệp
với nền kinh tế được khẳng định nhưng sự phát triển của nông nghiệp ở Việt
Nam đang đối mặt với nhiều vấn đề. Tăng trưởng GDP nông nghiệp đã giảm
từ 4,42%/năm giai đoạn 1996 - 2000 xuống còn 3,86%/năm giai đoạn 2001 2005 và 3,53%/năm giai đoạn 2006 - 2010 và ước chỉ còn 3,12%/năm trong
giai đoạn 2011 - 2015. Nông nghiệp, nông thôn được xem là nội dung quan

trọng của CNH, HĐH nhưng lại chưa nhận được sự quan tâm đầu tư đúng
mức. Tỷ trọng đóng góp vào GDP của ngành nơng nghiệp ở mức 19 - 20%,
song tổng vốn đầu tư cho ngành nông nghiệp vừa không tương xứng với quy
mô này, lại vừa đang có xu hướng giảm. Nếu như năm 2000, đầu tư cho nông
nghiệp chiếm khoảng 13,8% trong tổng vốn đầu tư tồn xã hội thì đến năm
2005 giảm còn 7,5% và đến năm 2013 chỉ còn khoảng 5,59%.
CHƯƠNG III: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VÀ SINH VIÊN
TRONG THỜI KỲ CƠNG NGHIỆP HĨA- HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT
NƯỚC
3.1. Đối với nhà nước
Đẩy mạnh CNH, HĐH là xu thế tất yếu. Việt Nam cần thực hiện kiên
định các mục tiêu, định hướng về CNH, HĐH đã đề ra. Cụ thể là:
Tập trung thực hiện chuyển đổi mơ hình tăng trưởng với một lộ trình và
bước đi phù hợp. Nâng cao hiệu quả và chất lượng của công tác xây dựng quy
hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực, địa bàn theo các mục tiêu, yêu
cầu về CNH, HĐH; tăng cường trao đổi thông tin, phối hợp xây dựng và triển
khai quy hoạch, kế hoạch giữa các địa phương để khắc phục tình trạng cắt
khúc của quy hoạch.


Tiếp tục củng cố và tái cấu trúc hệ thống tài chính, các NHTM để thực
hiện huy động và phân bổ các nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế - xã
hội... Đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với TTTC, thị trường bảo
hiểm, thúc đẩy sự phát triển của hệ thống các TTTC theo chiều sâu trên cơ sở
đa dạng hóa các định chế tài chính, hàng hóa trên TTTC. Cơ cấu lại TTCK,
đảm bảo sự phát triển đồng bộ, cân đối giữa thị trường cổ phiếu, thị trường
trái phiếu, thị trường các công cụ CKPS.
Tăng cường hiệu quả huy động, phát triển nguồn lực đẩy nhanh quá
trình CNH, HĐH. Tiếp tục cải cách hệ thống chính sách thu đi đơi với cơ cấu
lại NSNN, duy trì tỷ lệ huy động thu NSNN và tỷ lệ động viên từ thuế và phí,

lệ phí trên GDP ở mức hợp lý, đảm bảo cơng bằng, bình đẳng về thuế giữa
các đối tượng nộp thuế, đảm bảo lợi ích quốc gia về quyền thu thuế. Thực
hiện đơn giản hóa hệ thống chính sách ưu đãi thuế, đảm bảo việc thiết kế và
tổ chức thực hiện các chính sách ưu đãi thuế được gắn chặt với các định
hướng ưu tiên phát triển ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn theo yêu cầu của
CNH, HĐH. Nghiên cứu ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung chính sách thu
NSNN liên quan đến hoạt động thăm dò, khai thác và sử dụng tài nguyên để
một mặt hạn chế, điều tiết hợp lý việc khai thác, mặt khác có thêm nguồn thu
cho NSNN; sửa đổi, bổ sung chính sách thu từ đất, thực hiện bán, chuyển
nhượng hoặc chuyển mục đích sử dụng đối với số nhà, đất dơi dư để tạo
nguồn tài chính đầu tư HTCS.
3.2. Đối với sinh viên
- Muốn hoàn thành nhiệm vụ trọng đại ấy, trước hết, tuổi trẻ Việt Nam
phải phát huy cao truyền thống hiếu học. Biết chủ động khắc phục mọi khó
khăn, chuyên cần và sáng tạo ,nỗ lực thi đua học tập và rèn luyện, vươn lên
chiến lĩnh những đỉnh cao khoa học và cơng nghệ. Nhanh chóng hội nhập với
xu thế phát triển của nền văn minh nhân loại, nắm bắt và tận dụng mọi thời cơ
thâu tóm tri thứ, đẩy lùi nguy cơ, tạo lên sức mạnh tổng hợp. Giáo dục lý


tưởng cách mạng cho thanh thiếu niên cụ thể phải là giáo dục ý thức trách
nhiệm học tập. Không chiếm lĩnh được đỉnh cao của khoa học và công nghệ
sẽ không bảo vệ được độc lập chủ quyền dân tộc, không tạo ra được những ưu
thế , lợi thế đủ sức cạnh tranh và chủ động hội nhập. Trong nền kinh tế tri
thức, dân tộc nào vươn tới đỉnh cao của trí tuệ, dân tộc đó sẽ chiến thắng. Tụt
hậu về trí tuệ sẽ là nguy cơ của mọi nguy cơ .Thấm nhuần lý tưởng cách
mạng trong giai đoạn đổi mới phải hành động tự giác trong học tập .
Trong giai đoạn phát triển của đất nước ta – giai đoạn quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội, thì sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại há đất nước là nhiệm vụ
trung tâm, là giải pháp quyết định đưa nước ta khắc phục nguy cơ tụt hậu, là

quá tình phấn đấu lâu dài của nhân dân ta. Điều đó được thể hiện trong việc
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước những tiền đề tạo nên sự thắng của sự nghiệp
đó . Và trong nguồn nhân lực ấy thì thanh niên – sinh viên lại giữ vai trò quan
trọng, là nguồn lực chủ yếu, bởi họ chiếm một số lượng lớn trong số người ở
độ tuổi lao động của nước ta, họ có một nhiệm vụ hay giữ một trọng trách hết
sức nặng nề những người được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp,
được tổ chức tốt về kiến thức văn hóa, chính trị, đạo đức, lối sống.... Nhận
thức được vị thế của mình trong xã hội, mỗi thanh niên – sinh viên phải
không ngừng học hỏi, tiếp nhận kiến thức, sử lý thông tin, phải ren luyện cả
đức lẫn tài, tự tu dưỡng, rèn luyện bản thân hay nói cách khác phải tự giáo
dục về tri thức, phẩm chất, nhân cách để sao cho xứng đáng với trọng trách
mà xã hội giao phó, để xây dụng nên một đất nước “ dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ văn minh “, để thực hiện được tiến bộ xã hội, đi lên
chủ nghĩa xã hôị và chủ nghĩa cộng sản, và cũng là để thực hiện thành công
mục tiêu mà Đại hội VIII của Đảng đề ra là “ Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hố, hiện đại hố vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.



×